Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chọn một tôn giáo và phân tích ảnh hưởng của nó đến văn hóa, đời sống xã hội, k...

Tài liệu Chọn một tôn giáo và phân tích ảnh hưởng của nó đến văn hóa, đời sống xã hội, kinh doanh và sâu hơn là kinh doanh quốc tế

.DOCX
25
1
125

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HCM KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ ---------- BÀI TIỂU LUẬN MÔN HỌC: KINH DOANH QUỐC TẾ Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Xuân Đạo Đề tài: Chọn một tôn giáo và phân tích ảnh hưởng của nó đến văn hóa, đời sống- xã hội, kinh doanh và sâu hơn là kinh doanh quốc tế. ------------Tháng 04/2020------------- 1 MỤC LỤC CHƯƠNG I: TỔNG QUAN........................................................3 1.1 Đặt vấn đề.............................................................................................................................3 1.2 Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu.....................................................................3 1.3 Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................................3 CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO PHẬT VÀ NHỮNG TRIẾT LÍ TƯ TƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO...........................4 1. Đôi nét về Đạo Phật..................................................................................................................4 2. Nội dung tư tưởng Phật Giáo...................................................................................................4 3. Ảnh hưởng của Phật Gíao đến văn hóa- xã hội Việt Nam và các nước trên thế giới.............5 a) Ảnh hưởng của Đạo Phật đối với văn hóa Việt Nam.............................................................5 b) Ảnh hưởng của Đạo Phật đối với Trung Quốc.......................................................................9 c) Đạo Phật với các vấn đề từ thiện của doanh nghiệp............................................................10 4. Ảnh hưởng của đạo Phật đến đời sống- xã hội......................................................................11 5. Quan điểm của Đức Phật trong kinh doanh..........................................................................12 6. Đôi nét về đặc trưng kinh doanh theo triết lý Phật Pháp.......................................................13 7. Ảnh hưởng của Phật giáo trong kinh doanh đặc biệt là kinh doanh quốc tế......................15 a) Ứng dụng tư duy đạo Phật vào kinh doanh tại Việt Nam.....................................................15 b) Ảnh hưởng của Đạo Phật đến kinh doanh quốc tế.............................................................17 CHƯƠNG 3: TỔNG KẾT..........................................................24 TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................25 2 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN 1.1 Đặt vấn đề Nói đến “tôn giáo”, người ta thường nghĩ đến các hoạt động từ thiện, nhưng thực tế trong các tôn giáo, khái niệm kinh tế tôn giáo đã xuất hiện từ lâu, nó đã trở thành một thành phần kinh tế trong quốc gia, thậm chí trong các quan hệ kinh tế thế giới. Tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến đời sống, niềm tin, giá trị và thái độ, cách ứng xử của con người. Tôn giáo còn ảnh hưởng đến chính trị và môi trường kinh doanh. Do đó, đến kinh doanh tại đâu thì phải nghiên cứu, hiểu những tôn giáo phổ biến tại nơi đó, làm việc với các đối tác cũng phải tìm hiểu xem họ theo tôn giáo nào, thì sẽ tránh được những rủi ro trong đàm phán. Ngoài ra, tôn giáo có thể ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày của con người và do đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Ví dụ, thời gian mở cửa hoặc đóng cửa; ngày nghỉ, kỳ nghỉ, lễ kỷ niệm... Vì vậy, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được tổ chức cho phù hợp với từng loại tôn giáo đang chi phối thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động. Em đã chọn đạo Phật để phân tích về tác động của đạo Phật đến đời sống xã hội văn hóa, kinh doanh và sâu hơn là về kinh doanh quốc tế. Đây là một đề tài rất hay và mang lại nhiều bài học hữu ích cho em đặc biệt là đối với chuyên ngành Kinh tế quốc tế, Tuy nhiên thì do hiểu biết em còn hạn chế, bài viết chưa được sâu sắc. Em mong thầy thông cảm và có thể góp ý cho bài làm của em. 1.2 Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng của đạo Phật đến các lĩnh vực văn hóa, đời sống xã hội, kinh doanh và sâu hơn là kinh doanh quốc tế Phạm vi nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu những tư tưởng cơ bản của đạo Phật và phân tích ảnh hưởng của nó 1.3 Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp tổng hợp các phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là logic phân tích, tổng hợp gắn với lí luận thực tiễn để phân tích đề tài 3 CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO PHẬT VÀ NHỮNG TRIẾT LÍ TƯ TƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO 1. Đôi nét về Đạo Phật Đạo Phật mang tên ngời sáng lập là Đà (hay buddha). Đạo Phật chính là giáo lý mà Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ IX đến thế kỷ thứ VI, trước Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực ÁPhi, Gần đây được truyền tới các nước Âu- Mỹ. Trong quá trình truyền bá của mình đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hóa bản địa để hình thành rất nhiều tông phái và học phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hóa của nhiều quốc gia Phật giáo ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bà- La- Môn và chế độ đẳng cấp. Phật giáo lý giải nhìn thấu nỗi khổ và tìm đường giải thoát cho con người khỏi nỗi khổ triền miên đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ. Vì để chống lại sự ngự trị của đạo Bà- La- Môn, đặc biệt là chống lạ quan điểm của kinh Véda, nên Phật giáo được xem là dòng triết học không chính thống. Đức Phật suất hiện như một mặt trời sưởi ấm: buổi ban mai làm tan đi bóng đêm dày đặc đã từ lâu che phủ cuộc đời. Ngày không chỉ là vị cứu tinh cho xứ Ấn Độ thời bây giờ, mà còn là người vạch ra hướng đi mới cho nhân loại. Nói chung, Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế giới, tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam. 2. Nội dung tư tưởng Phật Giáo Phật giáo xuất hiện với tư cách một tôn giáo, đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, coi nhẹ hình thức nghi lễ. Theo giáo lí của Thích Ca Mâu Ni, thế giới tự nó tồn tại, không do ai tạo ra cả. Vạn vật là vô thường, luôn luôn biến chuyển theo luật nhân quả, sinh ra và diệt đi, tuần hoàn không ngừng. Bốn chân lí lớn: 1) Cuộc sống là bể khổ (sinh, lão, bệnh, tử) 2) Nguyên nhân của khổ là lòng tham, sự tức giận, sự ngu si (vô minh). 3) Diệt khổ tức là diệt những nguyên nhân ấy, chấm dứt vòng luân hồi, đến cõi Niết Bàn 4) Con đường giải thoát là tu tập theo Bát chính đạo. Phật giáo đặt vấn đề số phận con người là do bản thân con người tạo ra và tự mình chịu trách nhiệm, không do thần thánh định đoạt. Chủ trương bình đẳng (ai cũng có khổ và đều có thể được giải thoát), đề cao lòng từ bi (yêu thương mọi loài, chống lại điều ác, làm mọi điều lành). Theo Từ điển bách khoa Phật giáo: 4 (tudien.daitangkinhvietnam.org): Phật giáo là giáo lý của Phật-đà. Phật giáo không phải là một tôn giáo, mà là một lối sống, là triết học tâm linh thực nghiệm siêu việt, dạy người chuyển mê khai ngộ, mục đích thế gian của Phật giáo là thanh tịnh hóa xã hội và xuất thế gian, là siêu xuất ra khỏi và chấm dứt sanh tử luân hồi. Trong Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên trang 290 và 774: Phật giáo = Đạo Phật "tôn giáo ra đời ở Ấn Độ thế kỷ thứ VI TCN, do Thích Ca Mâu Ni Sáng Lập. Theo Wikipedia: Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới (các tôn giáo lớn khác là Do Thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo, và Ấn Độ giáo). Phật giáo được một nhân vật lịch sử là Tất-đạt-đa Cồ-đàm sáng lập khoảng thế kỉ thứ V trước Công nguyên. Từ những định nghĩa trên, ta có thể thấy Phật giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới, ra đời vào khoảng cuối thế kỷ VI trước Công nguyên với giáo lý căn bản là Tứ diệu đế (khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế). Và với Việt Nam, Phật giáo du nhập vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên từ Trung Quốc và Ấn Độ Lý tưởng của đạo Phật là đóng góp mà không mong chờ sự báo đáp và người Phật tử luôn mong đem lại lợi ích cho mọi chúng sinh trong mỗi hoạt động của mình. Với tuệ giác của Phật Pháp và tinh thần cống hiến vô ngã đó, người Phật tử có thể đóng góp cho xã hội bằng cách tạo ra những doanh nghiệp có khả năng làm lợi ích cho tất cả mọi người. Vì thế căn bản của sự kinh doanh là nằm trong lời dạy của Đức Phật từ lòng thương yêu tất cả mọi loài chúng sinh và sống an tịnh. Trong giai đoạn phát triển của Việt Nam, Phật giáo phải khuyến khích những doanh gia dùng tài năng và óc sáng tạo của họ đóng góp của cải vật chất và tinh thần cho sự phát triển của Việt Nam dựa trên căn bản lời dạy của Đức Phật. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một phương cách để hướng đạo cho họ một nhân cách chính, đúng đắn. Theo đạo để làm điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn. Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của đạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua 4 giai đoạn; Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc, hình thành và phát triển rộng khắp; Thời nhà Lý- nhà Trần, phát triển cực thịnh, Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ XIX suy thoái; từ đầu thế kỷ XX đến nay, phục hưng. 3. Ảnh hưởng của Phật Gíao đến văn hóa- xã hội Việt Nam và các nước trên thế giới a) Ảnh hưởng của Đạo Phật đối với văn hóa Việt Nam Trong suốt chiều dài lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam, gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm. Văn hóa Phật giáo đã hòa mình và hợp nhất với nền văn hóa Việt Nam qua ngôn ngữ, qua tư tưởng, được biểu hiện trong nếp sống, sinh hoạt xã hội, đời sống tâm linh. Sự đan xen, hòa quyện đã thể hiện rõ 5 nét trong phong tục tập quán, trong văn học bình dân cũng như trong văn học bác học. Từ ngữ của Phật giáo như: trí tuệ, từ bi, thiện ác, nhân quả, nghiệp báo, v.v... được sử dụng như từ ngữ của văn hóa Việt Nam. Văn hóa Phật giáo giao thoa trong nền văn hóa Việt Nam để lại dấu ấn sau: Những dấu ấn trong tục ngữ Tục ngữ là ngôn ngữ dân gian mà người bình dân Việt Nam thường sử dụng để trao đổi tư tưởng, tình cảm với nhau. Những tư tưởng trong ngôn ngữ dân gian được gọi là văn hóa bình dân. Những từ ngữ của Phật giáo đã biến thành ngôn ngữ của người bình dân Việt Nam thường sử dụng, đã được truyền cho nhau trong dân gian mà chúng ta đã thấy tản mát trong văn học bình dân. Chúng tôi xin đơn cử ra đây một vài câu tục ngữ để chứng minh giá trị sự giao thoa của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam, điển hình như những từ ngữ: “Tội nghiệp quá!”; “Hằng hà sa số” “Lù khù nhưng ông Cù độ mạng”, v.v... Người bình dân mỗi khi thấy những ai bất hạnh, bị hoạn nạn đau khổ thì liền tỏ lòng thương xót, chia sẻ và thốt lên câu: “Tội nghiệp quá!” ... Hai chữ tội nghiệp là từ ngữ của Phật giáo với ý nghĩa chỉ cho nghiệp báo tội ác đã định. Người ta muốn diễn tả số lượng người quá đông đảo hoặc số lượng vật gì quá nhiều thì liền dùng câu “Hằng hà sa số” để tỏ bày. Hằng hà sa số là từ ngữ của Phật giáo với ý nghĩa là số nhiều như cát sông hằng. Sông Hằng là chỉ cho một trong hai con sông lớn nhất của Ấn Độ. Ấn Độ có hai con sông nổi tiếng thế giới là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) và hai con sông này khai nguồn tài nguyên sức sống cho toàn thể dân tộc Ấn Độ phát triển và tồn tại. Trong các kinh luận, Phật giáo cũng thường dùng những ngôn từ “Hằng Hà sa số” nhằm để nói lên số lượng quá nhiều không thể đếm được. Trong xóm làng, có một số người với trình độ văn hóa giới hạn, cứ sống buông trôi cho qua ngày đoạn tháng, nhưng không biết tại sao họ lại được rất nhiều may mắn ngoài khả năng của họ. Đối với những người này, người bình dân Việt Nam thường dùng ngôn từ “Lù khù nhưng ông Cù độ mạng” để chỉ sự may mắn nói trên của họ. Lù khù là chỉ cho hạng người khờ dại, ngây thơ, không biết chút gì về cuộc đời. Ông Cù gọi cho đủ là ông Cù Đàm tức là chỉ cho dòng họ của Đức Phật Thích Ca. “Lù khù nhưng ông Cù độ mạng” nghĩa là: Những người này sở dĩ được may mắn là nhờ Đức Phật Thích Ca phù hộ. Còn nhiều dấu ấn về tục ngữ hàm chứa tinh thần Phật giáo và những tục ngữ đó hiện đang tàng trữ trong kho văn học Việt Nam mà ở đây chưa khai thác được để làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam. Những dấu ấn trong ca dao Ca dao là những câu hò tiếng hát theo giọng điệu tự nhiên, phát xuất từ tâm hồn mộc mạc, tình cảm của người bình dân Việt Nam, được lưu truyền trong dân gian. Những câu ca dao này mang tư tưởng, tình cảm của dân tộc nhằm diễn tả luân lý, đạo đức, 6 tình ý, phong tục, tập quán, lối sống của con người... Tư tưởng Phật giáo thâm nhập vào ca dao Việt Nam và thấm vào tâm hồn của người bình dân. Điển hình như những bài ca dao sau đây thấm nhuần tư tưởng của Phật giáo: Người Việt Nam, rất tin tưởng triết lý thiện ác nghiệp báo, nhân quả, luân hồi và ý thức được giá trị nguyên lý duyên sinh (tương quan với nhau trong sự sinh tồn) của Phật giáo. Để thể hiện tinh thần đùm bọc lẫn nhau, họ thường hát lên những câu hò, những lời ru, nhằm khuyên nhau cách ăn ở nên “tránh dữ làm lành”, mong mỏi cuộc sống được hạnh phúc, an vui, đồng thời hy vọng con cháu sau này nhờ ân đức đó mà gặp may mắn trong cuộc sống, thể hiện trong câu ca dao: Ai ơi! Hãy ở cho lành Kiếp này không được, để dành kiếp sau. Hai câu ca dao này hàm chứa triết lý sâu sắc của đạo Phật mà thời xưa đã được người Việt Nam coi như triết lý sống, đó cũng tiêu biểu cho đạo đức Phật giáo là “ở cho lành” và lại còn thể hiện tư tưởng nhân quả luân hồi qua hai câu “Kiếp này” và “Kiếp sau”. Họ căn cứ dòng thời gian trải dài xuyên qua ba giai đoạn quá khứ, hiện tại và tương lai, mà tin tưởng rằng sẽ có kiếp sau, vì có kiếp này, cũng như tin tưởng rằng sẽ có ngày mai vì có ngày hôm nay, mặc dù kiếp sau và ngày mai chưa bao giờ đến với họ. Vì tin tưởng những lý lẽ đó, con người khuyên nhau một cách sống thể hiện qua hai câu ca dao nêu trên “tránh dữ làm lành” và những điều lành đó tuy rằng không được thụ hưởng ở kiếp này nhưng rồi sẽ được thụ hưởng ở kiếp sau chẳng bao giờ biến mất. Thời đại nào con người cũng cần có đạo đức hơn. Nếu con người có tài năng mà không có đạo đức thì cũng sẽ không là người có ích cho đời. Nếu con người có đạo đức thì sẽ gặp nhiều may mắn trong cuộc sống: “Có đức không sức mà ăn”. *Sự đóng góp của Phật Giáo cho nền văn hóa Việt Nam Phật giáo càng phát triển và bén rễ sâu trong đời sống xã hội thì sự gắn bó với dân tộc càng sâu sắc. Trong bối cảnh cả nghìn năm Bắc thuộc, Phật giáo Việt Nam đã hòa mình, gắn bó với dân tộc thông qua việc vận động tín đồ, Phật tử và nhân dân đoàn kết để phò vua, cứu nước, đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc. Lịch sử dân tộc chứng minh rằng, Phật giáo đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Tín đồ, Phật tử cũng hiểu rằng đất nước có độc lập thì Phật giáo mới ổn định, phát triển và hưng thịnh... Tinh thần Phật giáo đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các vua triều Lý – Trần trong trị nước, an dân mặc dù Đạo giáo và Nho giáo ở thời kỳ này cũng phát triển. Các vị vua tài đức đã tạo nên một triều đại lấy đức từ bi làm căn bản cho chính trị và luôn sống vì dân nên đã cố kết lòng dân để vua tôi, dân chúng đoàn kết chung lòng chống ngoại xâm, xây dựng đất nước. Hành đạo từ bi, đạo đức trong dân chúng nên đời sống xã hội đời Lý – Trần trở thành thuần từ và đẹp đẽ, làm cho dân giàu nước mạnh. 7 Về văn hóa, với lịch sử gần 2.000 năm du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã thấm sâu vào trong đời sống văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; đồng hành cùng dân tộc là một nét đặc trưng nổi bật trong truyền thống và tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam. Đạo Phật đã thấm vào lòng dân Việt Nam từ lâu đời và những người theo đạo Phật đều hiểu rằng Bụt đã hóa thân vào nền văn hóa dân gian. Trong văn hóa dân gian, hình ảnh ông Bụt hiện lên như một vị thần hiền từ, luôn cứu khổ cứu nạn, trong dân gian đã có câu nói không biết tự bao giờ: “Hiền như Bụt”. Vào thời Lý, truyện Ỷ Lan được nhân dân ca tụng là Quan Âm Nữ và được xem là truyện dân gian cô Tấm ở miền Kinh Bắc. Ông Bụt hiền lành là hình tượng Đức Phật trong dân gian Việt Nam, là một kết quả rất đặc sắc của Phật giáo hội nhập vào nền văn hóa dân gian Việt Nam. Người Việt Nam sợ thần thánh, ma quỷ, ... nhưng lại không sợ ông Bụt, bởi vì ông Bụt tuy có quyền năng vô hạn “Phật Pháp vô biên” nhưng luôn cứu giúp con người. Người Việt Nam luôn hình dung một ông Bụt giàu lòng thương người, đặc biệt là người cô đơn, bị ức hiếp. Chẳng hạn chuyện Tấm Cám, cứ mỗi lần nghe Tấm khóc nức nở, Bụt lại hiện lên an ủi, cứu giúp. Ông Bụt trong dân gian Việt Nam hiền lành, nhân hậu tới mức không biết giận là gì, cho nên, người ta chỉ gọi là Bụt, nhưng rất đỗi thân thương: Gần chùa gọi Bụt bằng anh/Trông thấy Bụt lành, cõng Bụt đi chơi. Đức Phật còn hòa nhập vào người thành ra những ông Bụt mang thân người, như các vua: Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông - vua Trần Nhân Tông thường được gọi là vua Bụt (Phật hoàng). Một trong những đóng góp quan trọng của văn hóa Phật giáo là ngôi chùa, rất đặc biệt mà cũng rất gần gũi, gắn bó với người dân. Chùa đã hòa nhập vào làng xã mà biến thành chùa làng. Chùa làng là chùa của làng, nhiều nơi lấy tên làng để đặt tên cho chùa và thường không phải là chùa của sư, tuy rằng vẫn có sư trụ trì chùa. Chùa đã vào làng thì theo lệ làng và được người dân gọi bằng cái tên dân làng ưa thích. Vai trò của ngôi chùa làng rất quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân vì ngôi chùa góp phần hình thành tư tưởng, đạo đức, nhân cách cho dân làng. Bởi vậy, một trong những điều đặc biệt là đất nước bị xâm chiếm nhưng làng xã Việt Nam không mất, các sinh hoạt trong cộng đồng làng xã, trong đó có ngôi chùa vẫn cơ bản giữ được truyền thống, ít bị đồng hóa. Người dân từ nhiều đời đã coi ngôi chùa là trung tâm văn hóa, là trường học góp phần giáo dục nền đạo đức, lòng từ bi nên khi vừa dời đô về Thăng Long, Lý Thái Tổ đã cho xây dựng nhiều chùa và tuyển chọn hàng nghìn người ở kinh thành Thăng Long xuất gia đi tu. Vì thế, thời Lý - Trần, trung tâm sinh hoạt văn hóa dân gian ở các làng xã là quanh các ngôi chùa; sang thời Lê, khi những ngôi đình xuất hiện và phát triển thì chùa làng vẫn không giảm đi phần quan trọng. Theo các nhà nghiên cứu thì 95% nền văn hóa Việt Nam hình thành từ làng xã, do đó, văn hóa Phật giáo trong đó có chùa làng góp phần không nhỏ Những lời đức Phật dạy cách đây hơn 25 thế kỷ nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá trị, mãi là “khuôn vàng, thước ngọc” để giúp con người hình thành nhân cách, đạo đức và vì thế đã hòa nhập với văn hóa Việt Nam, ngày càng sâu rễ, bền gốc trong lòng dân tộc Việt Nam. Các triều vua Lý - Trần thấy được giá trị nhân bản của văn hóa Phật giáo nên đã tự tu và dạy cho dân chúng tu, hình thành cốt cách văn hóa Đại Việt. Hiện 8 nay, những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc nói chung và văn hóa Phật giáo nói riêng đang có dấu hiệu bị phai nhạt. Nhiều người không hiểu giáo lý Phật giáo mặc dù đi chùa thường xuyên, trong đó có giới trẻ. Trong khi đó, sự cám dỗ về vật chất ngày càng lớn, đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, tệ nạn xã hội tràn lan, gây bất ổn cho không ít gia đình và phức tạp cho xã hội, nhưng nhiều người lại không tu học, không hiểu nhiều, hiểu sâu về văn hóa Phật giáo để giúp định hướng cho cuộc sống của mình. Đó là vấn đề cần quan tâm, trong đó việc phát huy tinh hoa văn hóa Phật giáo. Ở Việt Nam có những di tích cho thấy rõ ràng nhất về sự tồn tại của Phật giáo là Chùa Một Cột, một công trình tiêu biểu của kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Hình ảnh Chùa Một Cột (Hà Nội). Nguồn: Internet b) Ảnh hưởng của Đạo Phật đối với Trung Quốc Ảnh hưởng rõ ràng nhất của Phật giáo nguyên thủy từ Ấn Độ khi đến Trung Quốc đã phân tách thành các dòng lớn, mang màu sắc văn hóa nước này. Phật giáo Trung Quốc chủ yếu là Phật giáo Bắc tông Hán truyền. Ở những tỉnh như Tây Tạng, Tứ Xuyên, Thanh Hải thì có hệ thống Tạng truyền. Tại tỉnh Vân Nam có hệ thống Phật giáo Nam truyền. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định rằng Phật giáo rất phù hợp cho sự phát triển về kinh tế - xã hội và văn hóa của đất nước Trung Quốc. Với sách lược là phải khôi phục toàn bộ văn hóa truyền thống của Trung Quốc, trong đó Phật giáo cũng được khôi phục và phát triển, đã giúp nhu cầu về tín ngưỡng cũng như tu học của con người trong xã hội Trung Quốc ngày càng cao, và do vậy, Phật giáo đã ứng dụng các tiện ích hiện đại để đáp ứng nhu cầu đó một cách trọn vẹn Đạo Phật có một tầm ảnh hưởng rộng lớn, mặc dù phát triển chủ yếu ở châu Á, nhưng hiện nay Phật giáo được tìm thấy ở khắp thế giới. Ước tính số người chính thức theo Phật giáo (đã làm lễ Quy y Tam bảo) vào khoảng 350 triệu đến 750 triệu người, số người chưa chính thức theo Phật giáo nhưng có niềm tin vào Phật giáo thì còn đông hơn con số đó rất nhiều. Chẳng hạn như Trung Quốc với 1,4 tỷ dân thì phần lớn dân 9 số đều có niềm tin vào một số quan điểm trong triết lý Phật giáo, dù trên giấy tờ tùy thân thì họ không xác định mình là tín đồ Phật giáo. c) Đạo Phật với các vấn đề từ thiện của doanh nghiệp Văn hóa dân tộc ta được xây dựng trên nền tảng văn hóa Phật giáo, nên tất cả những gì lợi cho mình, lợi cho người, đem niềm vui đến cho mình, đem niềm vui đến cho người, hoặc sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp mà có lợi cho người tiêu dùng; sự giàu có của mình góp thêm vào sự giàu có của đất nước, tiền bạc của số người giàu được chia sẻ lại cho số người còn người nghèo, để khoảng cách giàu nghèo rút ngắn lại, thì đó chính là văn hóa Phật giáo. Do vậy, hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng chúng ta dễ dàng thấy những thông tin về các hoạt động từ thiện, thiện nguyện của các doanh nghiệp, doanh nhân, tổ chức và từ tất cả các tấm lòng hướng Phật. "Từ" là "Từ Tâm"."Thiện" là việc tốt. "Từ Thiện" là làm việc tốt "Từ Tâm". Làm từ thiện chính là làm theo lời dạy của Đức Phật. Phật Giáo có cả một kho tàng quý báu về lý Nhân quả - Nghiệp báo, về bốn tâm vô lượng Từ- Bi- Hỷ- Xả, về Vô thường -Vô ngã v.v… Đấy chính là nền tảng của một xã hội nhân ái, bình đẳng và văn minh nếu những bài học giáo lý ấy biến thành hiện thực trong cuộc sống. Có thể nói, xã hội Việt Nam từ ngàn xưa đã có truyền thống nhân ái cũng đều bắt nguồn từ những bài học giáo lý nói trên. Vì vậy, hoạt động từ thiện hôm nay chính là con đường chủ động đưa Đạo Phật đến với quần chúng. Con đường này sẽ đưa chúng ta đi đến mục tiêu góp phần xây dựng xã hội an lạc theo tinh thần Phật Giáo. Ta có thể bắt gặp một số điển hình như nữ doanh nhân say mê làm từ thiện chị Đỗ Thị Kim Liên, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Bảo hiểm AAA, Lãnh sự Danh dự Cộng hòa Nam Phi tại TP.HCM, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Chống gian lận thương mại và Hỗ trợ người tiêu dùng TPHCM (AFCA). Bởi suy nghĩ khó lòng bình tâm trước những mảnh đời bất hạnh mà công tác từ thiện xã hội của cá nhân chị cũng như công ty cứ dày lên theo năm tháng. Những việc làm mang tính nhân văn sâu sắc gần đây mà AAA đã tham gia là: đồng hành cùng Báo Công An TPHCM hỗ trợ 1,5 tỷ đồng để xây dựng cầu treo Pô Kô cho đồng bào các xã Đăk Ang, Đắk Nông, Đăk Dục huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum; ủng hộ tiền cho Quỹ Vì người nghèo TPHCM; xây dựng nhà tình thương cho đồng bào nghèo ở Trà Vinh, Bình Phước; ủng hộ đồng bào bị bão lũ ở các tỉnh miền Trung, xây nhà tang lễ cho bà con ở Vĩnh Phúc… Ngoài ra, còn rất nhiều trường hợp đặc biệt khác mà chị cùng Bảo hiểm AAA đã âm thầm giúp đỡ và tiếp sức. Cảm thương trước hoàn cảnh của cháu Ari – Phin ở An Giang, mới 4 tháng tuổi mà cha mẹ đã mất trong vụ tai nạn giao thông, chị đã nhận nuôi cháu cho đến khi trưởng thành. Những học sinh, sinh viên nghèo vượt khó, những người không may mắn tử nạn trong vụ sập đá ở Lèn Cờ tỉnh Nghệ An và gia đình có 5 người thân ở Thái Nguyên bị tử nạn trong vụ giao thông kinh hoàng ở Hà Nội… đều nhận được sự đồng cảm và hỗ trợ về vật chất của nữ doanh nhân này và Bảo hiểm AAA. Bên cạnh đó Bảo hiểm AAA đã cùng Đại sứ quán Nam Phi, Đại sứ quán Brazil, Đại sứ quán Ấn Độ, Công ty Sữa Abbott, Liên đoàn Xiếc Việt Nam, Báo An ninh Thủ đô và Công ty Haki chung tay đóng góp ủng hộ và tổ chức chương trình từ thiện dành cho các em nhỏ bị ung thư đang điều trị tại Bệnh viện Ung thư Trung ương – chi nhánh K2, Tam Hiệp, 10 Thanh Trì, Hà Nội. Nhiều năm qua, CLB doanh nhân và CLB nữ doanh nhân Sài Gòn, hai tổ chức thuộc Hiệp hội Doanh nhân TPHCM với gần 1.500 doanh nghiệp thành viên đã có nhiều hoạt động hỗ trợ cộng đồng như khám chữa bệnh, mổ mắt, mổ hàm ếch, xây trường học, trạm xá cho các địa phương vùng sâu, vùng xa, tặng học bổng cho học sinh nghèo và xây tặng hàng trăm căn nhà tình thương cho đồng bào nghèo ở vùng biên giới và các tỉnh, thành trong cả nước. Hàng trăm doanh nghiệp là thương hiệu mạnh, trong đó có 11/30 thương hiệu được công nhận là thương hiệu quốc gia, cũng tích cực hưởng ứng và tham gia các hoạt động hỗ trợ cộng đồng. Có thể nói, càng thành công trong kinh doanh, các doanh nhân càng mong muốn được chia sẻ lợi nhuận để góp phần chăm lo cho người nghèo. Những chuyến công tác từ thiện cứ nối tiếp nhau, danh sách những người được khám chữa bệnh, được trao tặng nhà cứ dài thêm ra và niềm vui của các doanh nhân cũng được nhân lên khi biết những đóng góp của mình đã đem niềm vui đến cho nhiều người, giúp nhiều gia đình vượt qua cơn khốn khó… Tuy Đạo Phật không liên quan đến doanh nghiệp nhưng suy cho cùng chúng đều ở chung một tổng thể, quan hệ cộng hưởng lẫn nhau. Một doanh nhân thành đạt không phải chỉ có các kiến thức chuyên môn và thái độ làm việc tích cực mà còn phải có tinh thần và khát vọng xây dựng công cuộc kinh doanh mới. Để đảm bảo thành công trong kinh doanh, mỗi doanh nhân phải sàng lọc chân lý từ những sai lầm; và kiên định trong lời nói và hành động. Và mỗi doanh nhân phải kiên định rõ ràng cho đến khi họ thực hiện thành công mục tiêu của mình trong bất kỳ lĩnh vực nào.Để có lợi nhuận cao và có điều kiện phát triển mạnh doanh nghiệp, ngoài tính năng động, chuyên môn giỏi, ngoài sự nhạy bén về thời cơ và thị trường, ngoài việc xây dựng thương hiệu, ngoài tài năng tổ chức và quản lý, nhà doanh nghiệp cần có thái độ hành xử thích đáng đối với công nhân, nhân viên và trách nhiệm đối với toàn xã hội. 4. Ảnh hưởng của đạo Phật đến đời sống- xã hội  Làm hòa dịu mâu thuẫn người với người, gìn giữ hòa bình thế giới Mối quan hệ người-người nói ở đây cũng là quan hệ giữa người này với người khác, người với xã hội, người với dân tộc, người với quốc gia. Mối quan hệ người- người trên thế giới hiện nay có hai vấn đề chính là: – Xung đột cục bộ diễn ra không dứt, gây ra bởi các nhân tố va chạm lợi ích dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ, tài nguyên, nhân dân một số nơi đang chịu khổ nạn chiến tranh; trong khi vấn đề an ninh truyền thống chưa được giải quyết thì các vấn đề an ninh phi truyền thống như chủ nghĩa khủng bố lại ngày một gay gắt; – Phân hóa giàu nghèo Nam – Bắc ngày càng mở rộng, khá nhiều người còn sống nghèo khổ, đói rét. Xét về lí luận, một số quan niệm cơ bản của Phật giáo có ý nghĩa hiện thực nhất định trong việc hóa giải các vấn đề trên. Hòa bình và chung sống hòa bình là vấn đề lớn nhất. Hai cuộc đại chiến trong thế kỉ XX làm cho hàng chục triệu sinh linh bị tàn sát; nếu trong thế kỉ XXI lại xảy ra đại chiến thế giới thì loài người có thể cùng nhau bị tiêu diệt. Muốn tránh chiến tranh thì phải tiêu diệt nguồn gốc chiến tranh; một trong các nguồn gốc đó là không hiểu lí lẽ 11 Duyên khởi: loài người phải dựa nhau mà sinh tồn, lợi ta phải lợi người; không coi trọng hòa giải, hiểu nhau, mà coi kẻ khác là cừu địch, không tôn trọng sinh mệnh kẻ khác. Tư tưởng bình đẳng của Phật giáo có nghĩa là tôn trọng nhau, là hòa bình. Tư tưởng từ bi thể hiện sự đồng tình, thương yêu quan tâm người khác, cũng xa rời chiến tranh, gìn giữ hòa bình. Từ bi tế thế và “ngũ giới”, “thập thiện” đều lấy “không sát sinh” làm đầu. Từ ngày pháp sư Thái Hư ra sức đề xướng Phật giáo nhân gian, Phật giáo Trung Quốc luôn quan tâm gìn giữ hòa bình thế giới. Phật giáo phát huy tác dụng quan trọng độc đáo không thể thay thế trong việc gìn giữ hòa bình thế giới. Sự phân hóa giàu nghèo Nam – Bắc, một số người sống nghèo khổ còn là căn nguyên gây ra loạn lạc, trực tiếp đe dọa hòa bình khu vực và thế giới. Quan niệm bình đẳng từ bi của Phật giáo là phương hướng hóa giải các vấn đề đó. Sự bố thí là một pháp môn tu trì quan trọng, tức dùng lòng từ bi để tạo phúc cho người khác, cho họ của cải, sức khỏe và trí tuệ. Quy phạm đạo đức của Phật giáo, như “Thập thiện”: không trộm cắp, không nói càn, không tà dâm, không nói hai lưỡi, không ác khẩu, không nói xiên xẹo (khởi ngữ), không tham dục, không sân huệ, không tà kiến đều có ích cho sự hòa hợp mối quan hệ người-người. Bốn giới đầu trong “Ngũ giới”, tức không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm và không nói xằng đều có thể dùng để tham khảo khi xây dựng đạo đức chung toàn thế giới.  Điều chỉnh mâu thuẫn người với thiên nhiên, xúc tiến sự phát triển chung và phát triển bền vững Hòa bình và phát triển là hai vấn đề lớn nhất của loài người hiện nay. Nếu gìn giữ hòa bình đòi hỏi hài hòa mối quan hệ người-người thì phát triển chung và phát triển bền vững không những đòi hỏi hài hòa quan hệ người-người mà còn đòi hỏi phải điều chỉnh thích hợp quan hệ người với thiên nhiên, sao cho môi trường sinh thái được gìn giữ tốt. Việc con người khai thác thiên nhiên quá mức, thậm chí cướp đoạt dã man thiên nhiên đang hủy hoại nghiêm trọng sự hài hòa người-thiên nhiên, đe dọa sự sinh tồn của loài người. Tư tưởng triết học Phật giáo có ý nghĩa tham khảo về mặt điều chỉnh nhận thức tính nghiêm trọng bức thiết của vấn đề môi trường. Trước hết, thuyết Duyên khởi nhấn mạnh mọi sự vật đều do nhiều nguyên nhân điều kiện hòa hợp mà thành, không sự vật nào tồn tại riêng rẽ. Như trái đất nơi loài người sinh tồn là do đất, biển, trời và các loài động vật hợp thành; nếu đất thoái hóa, biển bị nhiễm độc, tầng ôzôn bị mỏng dần, các loài động thực vật không ngừng biến mất thì sự tồn tại của trái đất sẽ có khó khăn, loài người sẽ khó sinh tồn được. Thuyết Duyên khởi và thuyết chỉnh thể hữu cơ Phật giáo có thể cung cấp căn cứ lí luận cho triết học môi trường hiện đại 5. Quan điểm của Đức Phật trong kinh doanh Theo Đức Phật kinh doanh làm ăn tranh chống đạt được về Tài sản lớn mạnh và rộng. Đâylà thông điệp mạnh mẽ nhất đây là thông điệp mạnh mẽ nhất để chúng ta không 12 còn phải băn khoăn rằng đạo Phật có ủng hộ công việc kinh doanh buôn bán hay không! Không chỉ ủng hộ phương thức mưu sinh bằng kinh doanh Ngài còn chỉ rõ ba yếu tố để thành công trong kinh doanh là có mắt, Phải khéo phấn đấu và xây dựng được cơ bản. Có mắt là thương nhân phải biết rõ giá trị sản phẩm của mình buôn bán, ở đâu cần sản phẩm này? Mua ở thời điểm nào, bán ở đâu và thời điểm nào để có lợi nhuận cao nhất? Mua rồi bán ngay hay dự trữ đến lúc Nào mới bán? Ngày nay người ta thường gọi là tầm nhìn, hay chiến lược kinh doanh. Trong chu trình vận chuyển của sản phẩm có lúc thuận, có lúc nghịch, người thương nhân khéo léo vận hành, xoay sợ linh hoạt ngay cả trong chu trình nghịch (Như đúng vụ mà hàng vẫn ít, giá vẫn cao thì gọi là khéo phấn đấu). Cuối cùng, xây dựng được cơ bản là thương nhân phải tích lũy vốn dồi giàu và xây dựng được niềm tin với khách hàng cũng như bạn hàng 6. Đôi nét về đặc trưng kinh doanh theo triết lý Phật Pháp Kinh doanh là nghề đối đầu với nhiều thách thức, nhiều áp lực và luôn khiến con người phải đưa ra những lựa chọn khó khăn giữa các lợi ích. Trong cuộc chiến thương trường khắc nghiệt, không ít doanh nghiệp chỉ nghĩ đến tìm mọi cách thu lợi nhuận càng nhiều càng tốt, bỏ qua khía cạnh đạo đức, đánh mất lương tâm nghề nghiệp, bất chấp lợi ích xã hội và tổn hại môi trường. Đặc biệt, nhằm tối đa hóa lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp sẵn sàng cạnh tranh không lành mạnh, sản xuất hàng hóa kém chất lượng, sử dụng các chất phụ gia, các hóa chất độc hại gây bệnh ung thư trong các loại thực phẩm… Điều này đã khiến người tiêu dùng lo lắng, bất an, gây ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, chất lượng giống nòi và cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sức cạnh tranh của nền kinh tế, đến người kinh doanh chân chính. Từ xưa đến nay ta vẫn thường quan niệm “thương trường là chiến trường” ắt phải có “ thương vong” do cạnh tranh khốc liệt. Với quan điểm ấy hoạt động kinh doanh và tư tưởng Phật giáo dường như không có điểm chung tuy nhiên hiện nay chúng ta đang cố gắng xây dựng một nền văn hóa kinh doanh dựa trên tứ vô lượng tâm Từ, Bi, Hỉ, Xảnhững tư tưởng cốt lõi của Phật giáo. + Từ Trong bối cảnh của cuộc sống, Từ thường được hiểu là mong ước người khác được vui vẻ và hạnh phúc. Điều này thường bắt đầu bằng sự tập trung vào những người có mối quan hệ với chúng ta và sau đó mở rộng sự thiền định vì hạnh phúc và niềm vui đến cho người khác. Vậy điều này có quan trọng trong kinh doanh không? Từ trong kinh doanh là gì? Có thể bạn là một người vô cùng nhân từ hay là một người có lối sống nghệ sĩ hay là một chuyên gia tư vấn truyền thông xã hội. Trong mỗi bối cảnh, sự giáo dục kinh doanh truyền thống là phải đối đầu với đối thủ cạnh tranh của mình. Bạn làm tất cả mọi việc cũng nhằm mang lại những lợi ích nhiều nhất cho mình. 13 Thắng trong kinh doanh là để áp đảo thống trị. Và thành công là để thắng càng nhiều càng tốt. Vậy điều gì xảy ra nếu bạn làm khác đi, dẫn đầu không phải để thống trị và lấy đi mà để cùng đứng lên nâng tầm với thật nhiều đối tác càng tốt, ngay cả với người bạn chưa hề biết? Đó có thể coi là Từ trong kinh doanh- không vì lợi ích của riêng bản thân mình, của doanh nghiệp mình mà đạp bằng các doanh nghiệp khác, hãy nâng cao giá trị của bản thân mình của doanh nghiệp mình bằng cách giúp những người khác, doanh nghiệp khác cùng phát triển. + Bi Như trên ta đã phân tích “Bi” là hy vọng nhằm loại trừ những khổ đau không có lợi cho người khác hoặc có hại cho người khác”. Làm được như thế không chỉ giúp họ không đối kháng với bạn mà làm cho cấu trúc và sự tương tác giữa đôi bên theo chiều hướng mà họ cùng cảm thấy mình đều chiến thắng. Trước khi bắt đầu một cuộc trò chuyện, buôn bán, đàm phán, thỏa thuận, lùi bước hay tiến tới, bạn có thể cố gắng đặt mình vào vị trí của đối tác. Tạo ra một bản chi tiết cá nhân về họ, về cuộc sống của họ, sự tranh đấu, lịch sử, mong ước, đau khổ cũng như các áp lực cá nhân trong công việc. Sau đó, hãy liên tưởng bạn là chính họ. Không để cá nhân bạn chi phối. Bạn cảm nhận sự sợ hãi, mong ước, nguyện vọng này của họ như thế nào? Liệu bạn có khả năng nghe, thấy, và cảm nhân họ không? Nếu được thì bạn cảm thấy như thế nào? Liệu những cảm giác này tạo ra nhiên liệu gì cho bạn? Bạn càng có khả năng cảm nhận những điều này, hiểu và nuôi dưỡng lòng từ bi với những nhận định về thế giới kinh doanh như đối tác của bạn thì bạn sẽ cảm thấy cuộc đối thoại thật sự làm cách nào tạo ra một điều gì đó chung không phải chỉ cho những gì bạn cần mà tạo ra một giá trị mới để cùng vực dậy cả hai. + Hỉ Hỉ là cảm giác mà bạn thấy những điều tốt xảy ra với người khác mà bạn mong muốn thành công, bạn cũng cảm thấy sự thành công đó như là của bạn. Không có sự ghen tị, không có cảm giác bị thua thiệt, mất mát. Bạn cảm thấy như họ đạt được điều thắng lợi đó là cho bạn. Trong kinh doanh, nhiệm vụ để nuôi dưỡng hai lượng tâm đầu tiên Từ và Bi để có khả năng cảm nhận niềm hỉ lạc cho những ai thành công xung quanh bạn. Bởi vì khi chấp nhận cảm giác ấy có sự kết nối lẫn nhau, bạn sẽ đến được đỉnh điểm là hiểu rằng thành công của họ cũng chính là của bạn. + Xả Xả là tha thứ, từ bỏ: tha thứ những lỗi lầm của người khác; chấp nhận từ bỏ danh vọng, tài sắc, tính mạng của mình nếu thấy cần và có lợi cho người khác. Theo quan điểm của đạo Phật, tất cả suy nghĩ và hành động của chúng ta đều khởi nguồn từ tâm. Do đó, việc chúng ta đề cao hay không đề cao tính nhân văn, lòng trắc ẩn và tình thương sẽ tạo nên những khác biệt lớn lao. Nếu chúng ta có tâm tốt và lo lắng tới việc phát triển xã hội loài người thì dù chúng ta làm việc trong lĩnh vực khoa học, chính trị hay kinh doanh, kết quả luôn luôn là có lợi ích. Khi chúng ta có một động cơ tích cực, các hoạt động của chúng ta sẽ có ích cho nhân loại; còn không chúng sẽ chẳng có ích 14 lợi gì. Ví dụ trong lĩnh vực kinh doanh, việc theo đuổi lợi nhuận mà không đếm xỉa gì đến các hậu quả có hại vẫn tạo ra những niềm vui lớn khi thành công. Nhưng những kết quả cuối cùng sẽ vẫn là đau khổ: môi trường bị tàn phá, những phương pháp kinh doanh trái đạo đức của chúng ta loại bỏ những phương pháp khác (có đạo đức hơn) ra khỏi công việc kinh doanh, những vũ khí mà chúng ta chế tạo ra gây nên chết chóc và thương tật. Đã có nhiều kết quả rõ ràng minh chứng cho điều này. Bởi vì cuộc sống của chúng ta ngày nay bị ảnh hưởng của các quyết định kinh doanh ở cấp độ này hay cấp độ khác, việc các quyết định kinh doanh có mang màu sắc của lòng từ bi hay không ngày càng trở nên quan trọng hơn. Vì vậy, mặc dù việc thay đổi nội tâm để phát triển lòng từ bi là rất khó khăn, nhưng rõ ràng đó là điều xứng đáng để chúng ta cố gắng. Lòng từ bi cũng đem đến lợi ích kinh doanh thực sự. Ích lợi đầu tiên của lòng từ bi là nó tạo nên những nhà lãnh đạo doanh nghiệp có hiệu quả cao. Điều này có nghĩa là gì? Có ba thành phần của lòng từ bi. Có thành phần về xúc cảm, chính là “Tôi cảm thông với bạn.” Có thành phần về nhận thức, chính là “Tôi hiểu bạn.”Và có một thành phần về sự thúc đẩy, đó là “Tôi muốn giúp đỡ bạn.” Vậy cái này có liên quan gì đến việc lãnh đạo doanh nghiệp? Theo một nghiên cứu rất toàn diện của Jim Collins, và được ghi lại trong quyển sách “Từ tốt đến vĩ đại”, thì cần có một dạng nhà lãnh đạo đăc biệt để đưa một công ty từ tốt đẹp lên vĩ đại. Và ông ta gọi đó là “nhà lãnh đạo cấp độ 5″. Đây là những nhà lãnh đạo mà ngoài việc có khả năng làm việc rất cao, còn sở hữu hai phẩm chất quan trọng, và đó là sự khiêm tốn và tham vọng. Đây là những lãnh đạo có tham vọng làm những điều thiện lành. Và bởi vì họ tham vọng làm cái thiện, họ không có nhu cầu tự tôn. Và theo nghiên cứu, họ là những nhà lãnh đạo doanh nghiệp tốt nhất. Và nếu bạn quan sát các phẩm chất này trong ngữ cảnh của lòng từ bi, chúng ta thấy rằng thành phần nhận thức và xúc cảm của lòng từ bi – thấu hiểu và thông cảm với người khác – sẽ ngăn cản, làm giảm bớt, cái mà tôi gọi là sự ám ảnh về bản thân quá mức trong mỗi chúng ta – từ đó tạo nên những điều kiện cho tính khiêm tốn 7. Ảnh hưởng của Phật giáo trong kinh doanh đặc biệt là kinh doanh quốc tế a) Ứng dụng tư duy đạo Phật vào kinh doanh tại Việt Nam Người ta vẫn thường nói “thương trường là chiến trường”. Vì vậy, không thể phủ nhận rằng kinh doanh là nghề đối đầu với nhiều thách thức, áp lực. Đặc biệt, giữa thời buổi kinh tế mở và đang có sự hội nhập toàn cầu, sự cạnh tranh về sản phẩm/ dịch vụ giữa các doanh nghiệp ngày càng diễn ra gay gắt. Chủ doanh nghiệp luôn đứng trước nhiều sự lựa chọn, cân nhắc giữa những thiệt hại và lợi ích. Trong cuộc chiến thương trường khắc nghiệt này, không ít doanh nghiệp chỉ chú tâm đến việc làm sao thu về cho mình thật nhiều lợi nhuận mà quên đi các giá trị đạo đức khác. Thậm chí còn bỏ qua lương tâm nghề nghiệp mà gây tổn hại đến môi trường và các lợi ích xã hội. Đặc biệt, nhằm tối đa hóa lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp đã bỏ qua sức khỏe của người tiêu dùng mà cạnh tranh không lành mạnh, thêm vào sản phẩm các chất độc hại, phụ gia…Điều này không chỉ làm ảnh hưởng đến những doanh nghiệp kinh doanh chân chính vì lợi ích chung mà còn gây tâm lý bất an, lo lắng cho người tiêu dùng, sức 15 khỏe cộng đồng. Lẽ dĩ nhiên, cũng làm ảnh hưởng tiêu cực đến sức cạnh tranh và sự phát triển chung của toàn xã hội. Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng tư duy đạo Phật vào kinh doanh như là một giải pháp hiệu quả cho vấn đề trên. Theo đạo Phật, nghề nghiệp của mỗi người sẽ ảnh hưởng đến các nhìn nhận và suy nghĩ của người đó. Vì vậy, cần tránh những việc như buôn bán chất kích thích, chất độc hại, vũ khí, sinh vật sống, không giết hại động vật để giữ gìn lương tri cho mình. Khái niệm kinh doanh theo triết lý nhà Phật đang ngày được lan rộng và chấp nhận. Những triết lý này giúp nhà kinh doanh hài hòa yếu tố cạnh tranh (đặc trưng của thị trường tư bản chủ nghĩa), gia tăng sự bền vững, hòa hiếu giữa người với người và giữa con người với thiên nhiên. Một chuyên gia nghiên cứu kinh tế học Phật pháp người Nhật Bản đã mô tả mô hình kinh tế học theo triết lý nhà Phật với các đặc tính cơ bản như: mang lại lợi ích cho nhiều đối tượng; dựa trên nguyên tắc về lòng bao dung và sự hòa hợp; bảo vệ sự vững bền của Trái Đất *Điển hình Việt Nam kinh doanh theo triết lí Phật pháp của chủ tịch Tôn Hoa Sen Bên cạnh tinh thần làm việc hết mình và không nản chí trước mọi khó khăn, ông Lê Phước Vũ (Chủ tịch Tôn Hoa Sen) đã giác ngộ, đưa triết lý nhà Phật vào cuộc sống với suy nghĩ: "Sống và làm việc không phải cho mình mà là cho tất cả mọi người". Triết lý đạo Phật có ảnh hưởng lớn đến đường lối kinh doanh của Hoa Sen. Có hai tính cách đối lập trong con người ông, đó là sự khát khao mãnh liệt của một nhà kinh doanh và đức điềm tĩnh của một nhà sư. Phương châm kinh doanh của Chủ tịch Lê Phước Vũ là làm ăn chân chính, tạo công ăn việc làm chính đáng cho người lao động, mang lại những hạnh phúc căn bản nhất cho con người. Trước sự cạnh tranh gay gắt từ nhiều đối thủ có tiềm lực tài chính mạnh, ông luôn nhất quán với nguyên tắc kinh doanh trung thực của nhà Phật, phát triển Hoa Sen dựa trên 3 nền tảng giá trị cốt lõi: Trung thực – Cộng đồng – Phát triển. Ông khẳng định, nhân lực là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Ở Hoa Sen, tính trung thực và tính cộng đồng là hai tiêu chí được đặt lên hàng đầu và trở thành nét văn hóa của công ty. “Do hệ quả của thời kỳ bao cấp để lại, ngoài thu nhập chính thống nhiều vị cũng kiếm thêm, riết thành quen, nên khi bắt tay xây dựng một văn hóa mới, nhận thức mới cho người lao động cực kỳ khó. Nhưng chúng tôi nhất quyết không có chuyện huê hồng, không chấm mút hành, tiêu, tỏi, mắm. Có lòng trung thực mới có sự tin cậy. Có tin cậy mới xây dựng cuộc sống tốt hơn”, ông chia sẻ. Đứng mũi chịu sào trước doanh nghiệp quy mô hàng ngàn người, ông Vũ kể có dạo nguyên một tuần ông gần như không ngủ. “Trên cương vị người đứng đầu doanh nghiệp, mối quan tâm đầu tiên phải là công ăn việc làm, cuộc sống của hàng ngàn 16 nhân viên và đằng sau đó là hàng ngàn gia đình. Nhu cầu cuộc sống phải được nâng lên và đó là điều chính đáng”, ông nói. Trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn, để giữ vững hoạt động kinh doanh, theo ông Vũ: “Kinh doanh là bài toán dòng tiền. Quản lý dòng tiền tốt phải quản lý từ khâu bán hàng, đó là hệ thống phân phối và thương hiệu. Ta không đua được với thương hiệu lớn về chi phí tiếp thị nên phải bắt đầu từ việc nhỏ nhất, gần gũi khách hàng qua hệ thống bán lẻ. Sau đó mới đầu tư thương hiệu, nhà máy với công nghệ cao dần, hoàn thiện chất lượng liên tục với chi phí thấp nhất. Và sau khi ổn định thị trường nội địa, chúng tôi vươn ra xuất khẩu. Đến giờ tôi có thể khẳng định, tập đoàn Hoa Sen là doanh nghiệp đứng đầu trong ngành tôn ở Việt Nam và có vị thế ngày càng mạnh trên thị trường khu vực”. Khi được hỏi về sự khác biệt giữa một doanh nhân bình thường và một doanh nhân là phật tử, ông Vũ chia sẻ: “Phật tử là một doanh nhân ngược lại thì điều đầu tiên phải tin sự vô nhân quả. Phải hiểu rằng tất cả những của cải chúng ta tạo ra đều từ phước báu đã gieo trồng nhiều đời trước. Phước báu này do nhân quả đời trước chúng ta biết bố thí, cúng dường, đời nay chúng ta thành công, thuận lợi trong mọi việc làm ăn, ít gặp chướng ngại. Quan trọng nhất khi doanh nhân là Phật tử và ngược lại là làm sao giữ được phương pháp hành trì Bát chánh đạo. Tin chắc nhân quả, nghiệp báo, luân hồi và thấy mình vì mọi người nhiều hơn để mọi người vì mình”. b) Ảnh hưởng của Đạo Phật đến kinh doanh quốc tế Thông thường các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần phải quan tâm đến 4 vấn đề của tôn giáo. Đó là + Tôn giáo thống trị +Tầm quan trọng của tôn giáo trong xã hội +Mức độ thuần nhất của tôn giáo +Sự tự do tín ngưỡng trong xã hội Tôn giáo cũng là một trong những nhân tố làm tác động đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Ví dụ: Việt Nam ngoài các trang sức bên Phật Pháp như dây đeo, vòng chuỗi, … Thì mỗi năm Việt Nam nhập khẩu hàng chục lô hàng về trang sức bạc, vàng, thỉnh bùa may mắn tại các chùa ở Thái Lan. Do văn hóa tương đồng và Phật giáo rất phổ biến với người Thái Lan. Trong các mối quan hệ xã hội, “trách nhiệm xã hội” của Phật giáo thể hiện trong hai nguyên tắc đạo đức là “lục hòa” và “tứ ân”. Lục hòa là sáu sự hòa hợp gồm: “Giới hòa, kiến hòa, lợi hòa, thân hòa, khẩu hòa, ý hòa”. Hòa trong Phật giáo có nghĩa là 17 hòa với mục đích đem lại lợi ích cho tất cả mọi người. Trong đời sống xã hội; thì Phật giáo khuyên lục hòa đồng tu, nghĩa là làm tròn bổn phận, trách nhiệm của mình trong các mối quan hệ vợ chồng, cha mẹ, con cái, đạo nghĩa thầy trò, tình bằng hữu, bà con thân quyến v.v... “Tứ trọng ân” trong đạo Phật gồm ơn cha mẹ, ơn thầy cô, ơn quốc gia và ơn Tam bảo. Thực chất của Tứ trọng ân nhắc nhở người tu hành theo Phật giáo là phải có bổn phận, trách nhiệm với cha mẹ bằng sự cung kính, phụng sự và cầu chúc cha mẹ giải thoát khỏi vòng sinh tử; có trách nhiệm với quốc gia, thế giới, giúp đỡ và cầu cho tất cả chúng sinh đều được lợi lạc, giải thoát. Vấn đề “trách nhiệm xã hội” là một pháp thực hành mang triết lý của đạo Phật, được coi là phương tiện để con người đạt đến hạnh phúc, đồng thời cũng là chuẩn mực, nguyên tắc điều chỉnh hành động trong các mối quan hệ xã hội của con người. Đặc biệt đối với doanh nghiệp, triết lý này hoàn toàn không đi ngược lại với mục tiêu lợi nhuận. Ngược lại, nếu doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm của mình với xã hội, uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp sẽ được nâng cao. Nhờ đó, doanh nghiệp sẽ củng cố được niềm tin nơi khách hàng. Đây là một tài sản vô hình mà rất nhiều doanh nghiệp thời nay phấn đấu đạt được. Nhiều doanh nghiệp phải bỏ ra hàng tỷ đô la để mua lại những tài sản vô hình như vậy. Đồng thời, bằng cái tâm và trí tuệ hiểu biết về việc mang lại lợi ích cho người tiêu dùng, cho khách hàng, doanh nghiệp sẽ ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên thương trường. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, giá trị văn hóa về trách nhiệm xã hội là một trong những thế mạnh giúp doanh nghiệp có thể đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt trên trường quốc tế. Người ta dựa vào niềm tin tôn giáo trong việc đưa ra các quyết định có ảnh hưởng đến những người khác; khi một người có một niềm tin tôn giáo, nó đơn giản không thể định hình nên một cuộc sống mà nó loại trừ những niềm tin đó ra khỏi mọi liên quan thực tế (Fort, 2008). Niềm tin tôn giáo có khả năng trở thành yếu tố cấu thành toàn bộ khuôn khổ đạo đức toàn vẹn của một người. Đó là lý do tại sao Richard Jones đã viết: Tôn giáo tạo ra một khuôn khổ mà nó cung cấp ý nghĩa cho toàn bộ đời sống của một người. Do đó, nó là không thực tế để hy vọng tách rời đức tin tôn giáo khỏi lĩnh vực quan điểm hoàn toàn riêng tư mà không có ảnh hưởng lên các hành động cộng đồng của họ. Tôn giáo không điều chỉnh chỉ những phạm vi giới hạn trong đời sống tôn giáo – tôn giáo không phải là hạn chế tự do hoặc đời sống riêng tư hay cá nhân. Thay vì vậy, tôn giáo bao hàm toàn diện trong ý nghĩa rằng tất cả các khía cạnh của cuộc sống của một người là liên quan ở mức độ này hay mức độ khác với khuôn khổ cơ bản này (Jones, 1994). Tư tưởng phương Tây đầu tiên về điểm chung giữa tôn giáo và kinh tế tập trung chủ yếu vào các tác động tiêu cực của tôn giáo truyền thống vào việc cải thiện các điều kiện vật chất của cuộc sống. Trớ trêu thay, bây giờ có một ý thức tỉnh ngộ rõ ràng và hoài nghi về mô hình tăng trưởng và phát triển "phi luân lý," "khoa học” của phương Tây (Daniels, 2006). Thật là kỳ lạ rằng trong một môi trường kinh doanh đòi 18 hỏi trách nhiệm đạo đức của các nhà lãnh đạo kinh doanh, một nền tảng cho sự hiểu biết về các nghĩa vụ đạo đức - truyền thống tôn giáo - bị loại khỏi các cuộc đối thoại mang tính xây dựng Trong bối cảnh đó, khái niệm kinh doanh theo triết lý Phật pháp đang ngày càng được chấp nhận và lan tỏa, giúp các nhà kinh doanh hài hòa yếu tố cạnh tranh thị trường TBCN, với sự bền vững, hòa thuận giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên. Chuyên gia nghiên cứu kinh tế học Phật pháp người Nhật Bản, Shinichi Inoue, trong cuốn sách “Putting Buddhism to work: A new approach to management and bussiness” phát hành năm 1997 của mình, đã mô tả mô hình kinh tế học Phật pháp với ba đặc tính cơ bản sau: - - Là nền kinh tế mang lại lợi ích cho tất cả các đối tượng liên quan; 2. Là nền kinh tế dựa trên những nguyên tắc về lòng bao dung và hòa hợp; 3. Là nền kinh tế cho phép bảo vệ Trái Đất theo cách bền vững. -Người theo Đạo Phật chủ yếu quan tâm đến siêu thoát, song không đối nghịch với người theo chủ nghĩa vật chất. Theo quan điểm “không ai giàu có nếu cố bám lấy của cải, không ai được lạc thú nếu cố tìm lạc thú”, nhà kinh tế học Phật pháp sẽ coi tiêu dùng là phương tiện cho hạnh phúc con người, nên mục tiêu là phải đạt hạnh phúc cao nhất bằng cách tiêu dùng ít nhất. Lúc này hàng hóa tạo ra phải đạt giá trị sử dụng cao nhất, song lại tốn ít chi phí tạo ra nhất, giúp để dành nguồn lực cho sáng tạo. Ví dụ, khi sản xuất hàng hóa, việc các nhà sản xuất cố tình tạo ra các sản phẩm có vòng đời ngắn hơn, dễ hỏng hóc hơn để rút ngắn chu kỳ kinh doanh và kiếm thêm lợi ích cho mình từ dịch vụ sửa chữa sản phẩm là một sự lãng phí và dã man đối với người tiêu dùng. Theo nhà kinh tế học Phật pháp E.F Schumancher, mối quan hệ giữa người chủ lao động và người lao động, dưới góc độ nhà kinh tế học thông thường, mang xu hướng đối nghịch nhau. Đối với chủ lao động, lao động đơn giản chỉ là một hạng mục chi phí cần giảm đến mức tối thiểu, nếu không áp dụng được tự động hóa, thì cũng cần tận dụng (hay bóc lột) người lao động ở mức tối đa có thể. Còn đối với người lao động, lao động là công việc “vô bổ”, hi sinh thời gian và sự thoải mái của bản thân để đổi lấy tiền công. Vì vậy, lý tưởng của người chủ là làm sao có sản phẩm, mà không cần người làm thuê; còn lý tưởng của người làm thuê là có thu nhập, mà mình không bị người khác bóc lột. Tất nhiên là với quan điểm này, mâu thuẫn sẽ luôn tồn tại và dễ bị đẩy đi xa. Còn theo quan điểm Phật pháp, chức năng lao động có ít nhất ba mặt: Tạo cho con người cơ hội thực hành và phát triển khả năng của mình; giúp con người khiêm nhường và hợp tác với nhau; sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ đáp ứng đủ nhu cầu cuộc sống. Lao động là phương tiện xoay quanh trung tâm là con người, khiến con người vừa có niềm vui của lao động, vừa có hạnh phúc khi nhàn rỗi. Đối với Phật pháp, có 2 kiểu cơ giới hóa cần phân biệt: kiểu giúp phát triển tay nghề và quyền năng con người, hoặc biến con người làm nô lệ phục vụ máy móc. Phật 19 pháp cũng không hướng đến lý tưởng tăng mãi các ham muốn, mà hướng đến việc làm con người trở nên thuần khiết, trong sáng. Như vậy, kinh tế học Phật pháp giúp hài hòa quyền lợi và nguyện vọng của tất cả các chủ thể trong kinh doanh, hướng con người đến lối sống tích cực, giàu ý nghĩa. Tóm lại, có thể mô tả đặc trưng cơ bản của kinh tế học Phật pháp là mô hình kinh doanh và phát triển kinh tế chịu ảnh hưởng của một số đạo lý và thuyết pháp của Phật giáo, lấy hạnh phúc con người và hòa hợp với thiên nhiên làm mục tiêu chủ đạo. Một số doanh nhân nổi tiếng lựa chọn triết lý kinh doanh Phật pháp cho bản thân, như: Tiến sĩ Kazuo Inamori – Nhà sáng lập và giám đốc của Japan Airlines, tỷ phú Kith Meng của Campuchia, nguyên thủ tướng Thaksin Shinawatra của Thái Lan, chính trị gia Padma Jyoti của Nepal, Chủ tịch Samsung Lee Kun-hee... 8. Xu hướng kinh doanh theo triết lý Phật pháp tại một số quốc gia Hiện nay, các quốc gia đang theo các phái bộ Phật giáo chính hiện nay là: - Phật giáo Đại thừa (Mahayana): Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Singapore, Nepal và Đài Loan; - Phật giáo Nam tông (Theravada): Thái Lan, Sri Lanka, Myanmar, Lào, Ấn Độ và Campuchia; - Phật giáo Mật tông (Vajrayana): Tây Tạng, Mông Cổ, Tây Nam Trung Quốc, Bắc Ấn Độ và Butan; - Phật giáo Tịnh Độ Tông (Pure Land Buddhism): Khu vực Đông và Nam Á; - Phật giáo Thiền tông (Dhyana hay Zen Buddihism): Một phân nhánh của Phật giáo đại thừa, hiện là một trong những pháp môn được tu tập nhiều nhất tại các nước Phương Tây. Các quốc gia trên cũng đã và đang áp dụng mô hình kinh tế học Phật pháp theo cách của riêng mình, mà dưới đây là một vài ví dụ nổi bật: +Đất nước Butan Nằm trên dãy núi Himalayas giữa Ấn Độ và Trung Quốc, Butan là quốc gia duy nhất coi Phật giáo Mật tông làm tôn giáo chính thức. Người Butan tin rằng, đức tin đồng lòng của tất cả tín đồ sẽ phát triển đủ lớn để bao trùm và cứu rỗi loài người. Đức tin đóng vai trò quan trọng trong phát triển văn hóa, đạo đức và xã hội của Butan, khuyến khích sự tôn kính đối với tự nhiên và các sinh vật sống. Ngay từ năm 1971, Butan đã nổi tiếng do đo lường sự thịnh vượng không phải bằng GDP, mà bằng sự hạnh phúc (Gross National Happiness – GHN) của người dân. GHN được dựa trên bốn thành tố chính: Quản trị tốt, phát triển kinh tế xã hội bền vững, bảo tồn và phát triển văn hóa bản địa, và bảo vệ môi trường. Nhờ niềm tin coi trọng con người hơn sự phát triển vật chất thuần túy, mà ảnh hưởng của những khủng hoảng tài chính, bất động sản toàn cầu hay sự bất bình đẳng xã hội, vấn nạn môi trường, mà báo 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan