BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
NGUYỄN QUỐC HÙNG
HÀ NỘI – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
NGUYỄN QUỐC HÙNG
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ YẾN
HÀ NỘI – 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý của tôi.
Mọi số liệu, tham khảo, trong luận văn đảm bảo tin cậy và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa được công bố trong các công trình khác.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2021
Tác giả Luận văn
Nguyễn Quốc Hùng
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin phép được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất
đến các thày, cô giáo của Khoa Sau đại học Trường Đại học Mở Hà Nội đã
giảng dạy, cung cấp những kiến thức cho tôi trong quá trình học tập tại
trường. Đặc biệt tôi xin biết ơn đến TS. Nguyễn Thị Yến - Người đã hướng
dẫn tận tình để tôi có thể hoàn thành được luận văn thạc sỹ của mình.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2021
Tác giả Luận văn
Nguyễn Quốc Hùng
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNH - HĐH
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DNNN
: Doanh nghiệp Nhà nước
UBND
: Ủy ban nhân dân
XH
: Xã hội
CBTT
: Công bố thông tin
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ 7
THÔNG TIN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
VÀ CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ CÔNG BỐ THÔNG
TIN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1.1.
Những vấn đề lý luận về công bố thông tin của doanh 7
nghiệp Nhà nƣớc
1.1.1.
Khái quát về doanh nghiệp Nhà nước
1.1.2.
Khái niệm, đặc điểm về công bố thông tin của doanh 11
7
nghiệp Nhà nước
1.1.3.
Vai trò hoạt động công bố thông tin của doanh nghiệp 13
Nhà nước
1.1.4.
Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động công bố thông tin 16
của doanh nghiệp Nhà nước.
1.2.
Pháp luật về công bố thông tin của doanh nghiệp 18
Nhà nƣớc
1.2.1.
Khái niệm pháp luật về công bố thông tin của doanh 18
nghiệp Nhà nước
1.2.2.
Nội dung cơ bản của pháp luật về công bố thông tin của 19
doanh nghiệp Nhà nước
1.2.3.
Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt 20
động công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG BỐ 23
THÔNG TIN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG HIỆN NAY
2.1.
Thực trạng quy định pháp luật về công bố thông tin 23
của doanh nghiệp Nhà nƣớc
2.1.1.
Quy định về nguyên tắc thực hiện công bố thông tin của 23
doanh nghiệp Nhà nước
2.1.2.
Quy định về hình thức và phương tiện công bố thông tin 25
của doanh nghiệp Nhà nước
2.1.3.
2.1.4.
Nội dung các thông tin do doanh nghiệp Nhà nước 28
công bố
Chế tài do vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin của 34
doanh nghiệp Nhà nước
2.2.
Thực trạng áp dụng về công bố thông tin của doanh 36
nghiệp Nhà nƣớc
2.2.1.
Tình hình thực hiện công bố thông tin của doanh nghiệp 36
Nhà nước giai đoạn 2017 - 2019
2.2.2.
Một số nhận xét đánh giá về thực trạng thực hiện công 45
bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước
CHƢƠNG 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, NÂNG 50
CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG BỐ
THÔNG TIN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
3.1.
Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về công bố thông tin của 50
doanh nghiệp Nhà nƣớc
3.2.
Các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu pháp luật 52
về công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nƣớc
3.2.1.
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về công bố thông tin 52
của doanh nghiệp Nhà nước
3.2.2.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả pháp luật về công bố 57
thông tin của doanh nghiệp Nhà nước
KẾT LUẬN
63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
64
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước là một chủ thể đặc biệt có chức năng quản lý xã hội nhưng
Nhà nước cũng là một chủ sở hữu trong xã hội. Ngoài việc là chủ sở hữu các
tài sản lớn, Nhà nước còn nắm quyền sở hữu vốn tại các doanh nghiệp có vốn
nhà nước. Tùy từng quan niệm tại các quốc gia khác nhau, những doanh
nghiệp có vốn Nhà nước này được gọi chung là các doanh nghiệp nhà nước.
Như vậy, Nhà nước cũng là một cổ đông hay thành viên góp vốn tại doanh
nghiệp nhà nước. Qua việc thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với doanh nghiệp
nhà nước, có thể phát hiện những vi phạm trong quản lý doanh nghiệp dẫn
đến doanh nghiệp thua lỗ, yếu kém, vay nợ tràn lan,... Điển hình như vụ việc
tại Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin); Tổng Công ty Hàng
hải Việt Nam (Vinalines); Tập đoàn Dầu khí Việt Nam; Tổng công ty cổ phần
xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC) … Qua xử lý những vụ việc trên đặt ra
nhiều vấn đề về quản lý đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước cũng như các quy định về hệ thống pháp luật điều chỉnh tổ
chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Nguyên nhân của tình trạng trên một phần xuất phát từ những quy
định về công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước về hoạt động sản xuất
kinh doanh còn nhiều bất cập. Các yêu cầu công bố thông tin về hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước chưa tạo thành một khuôn
khổ thống nhất. Hiện nay, để bảo đảm tính hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động
quản lý và giám sát của cơ quan nhà nước và của xã hội đối với doanh nghiệp
nhà nước, Chính phủ đã ban hành Nghị định 81/2015/NĐ-CP ngày 18/9/2015
về công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước và mới được thay bổi bằng
nghị định 47/2021/NĐ-CP ngày 01/04/2021. Tuy nhiên vẫn diễn ra các vi
phạm về chế độ công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp
nhà nước công bố thông tin không đầy đủ, không chính xác, không kịp thời,
1
gây khó khăn cho hoạt động kiểm tra, giám sát… đồng thời nhiều sai phạm
không được phát hiện nhanh chóng do thiếu thông tin gây ra.
Từ những vấn đề thực tiễn đã trình bày trên, có thể khẳng định, việc
tìm hiểu, nghiên cứu về chế độ pháp lý về công bố thông tin của doanh nghiệp
nhà nước hiện nay là việc làm rất cấp bách và có ý nghĩa lý luận cũng như
thực tiễn to lớn. Đây là lý do cơ bản để tác giả lựa chọn đề tài “Chế độ pháp
lý về công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, vấn đề công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước là
một vấn đề thực tiễn đang đặt ra, song chưa nhận được sự quan tâm và nghiên
cứu đầy đủ, đúng mức. Những năm gần đây đã xảy ra nhiều sai phạm trong
công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước tại nhiều tập đoàn, tổng công ty
nhà nước, ví dụ: Vụ PVC, vụ Tập đoàn dầu khí, vụ Vinaline, vụ Công ty bóng
đèn Điện quang... Vấn đề trách nhiệm pháp lý về công bố thông tin của doanh
nghiệp nhà nước được đặt ra. Mặc dù trong thời gian vừa qua, có một vài
nghiên cứu về công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước dưới những giác
độ khác nhau, nhưng chưa có công trình nghiên cứu tổng thể về công bố
thông tin của doanh nghiệp nhà nước.Có thể kể đến các công trình sau:
- Cuốn sách Thực trạng xu hướng và giải pháp phòng, chống ‚"lợi ích
nhóm" ở nước ta hiện nay, đã nêu lên tình trạng một số quan chức thông đồng
với doanh nghiệp để vụ lợi ngày càng nhiều, có dấu hiệu bưng bít thông tin,
đưa thông tin không chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp Nhà
nước để phục vụ nhóm chung lợi ích, nhóm lợi ích cục bộ, vụ lợi cá nhân.
- Cuốn sách Doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhà nước- pháp luật điều
chỉnh và mô hình chủ sở hữu theo kinh nghiệm quốc tế của Trần Tiến Cường
đã giới thiệu kết quả nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và pháp luật điều chỉnh
đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước và việc thực hiện quyền chủ
sở hữu nhà nước ở một số nước gồm các nước kinh tế thị trường lâu đời
2
(Thụy Điển, Phần Lan, Niu-di-lân), các nền kinh tế mới ở Châu Á (Hàn Quốc,
Sing-ga-po), nước chuyển đổi ở Đông Âu (Hung-ga-ri), nước có điều kiện
kinh tế xã hội có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam (Trung Quốc)
- Tô Hồng Dung (2018), Pháp luật về nghĩa vụ công bố thông tin của
doanh nghiệp nhà nước, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 04/2018.
- Nguyễn Quỳnh Liên (2016), Pháp luật về trách nhiệm công bố công
khai thông tin của đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội và doanh
nghiệp nhà nước , tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Số chuyên đề Dự án Luật
Tiếp cận thông tin, tr. 108 - 118.
- Nguyễn Thị Hồng Nhung (2016), “Pháp luật quản lý vốn Nhà nước
tại doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sĩ tại Học viện khoa học xã
hội vào năm 2016. Luận án có đề cập đến vấn đề công bố thông tin của
doanh nghiệp nhà nước dưới khía cạnh nghĩa vụ thực hiện quản lý phần vốn
nhà nước của người đại diện nhà nước tại doanh nghiệp mà chưa làm rõ trách
nhiệm pháp lý của họ hoặc mới chỉ đề cập đến góc độ khen thưởng vật chất
cho người đại diện khi họ hoàn thành chức trách được giao, trong đó có công
bố thông tin, mà chưa bàn luận đến khía cạnh trách nhiệm của họ khi vi
phạm, đây được xem như là một lỗ hổng pháp lý cần được giải quyết..
- IMF Working Paper (2017). European Department State-Owned
Enterprises in Emerging Europe: The Good, the Bad, and the Ugly. October
2017 (Tài liệu của IMF (2017). Các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước
châu Âu ở châu Âu mới nổi: Tốt, xấu và kinh khủng. Tháng 10 năm 2017)
- Dag Detter (2006), Valuable Companies Create valuable jobs: The
Swedish Reforms of State owned enterprises – A case study in corporate
governance, June 2006. (Dag Detter (2006), Các công ty có giá trị tạo ra việc
làm có giá trị: Cải cách DNNN của Thụy Điển - Một nghiên cứu vụ việc
trong quản trị doanh nghiệp, tháng 6 năm 2006)
Các nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu chế độ
3
công bố thông tin chung của các loại hình công ty có quy mô lớn, hoạt động
theo hình thức công ty cổ phần… đặc biệt là các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán. Nhìn chung các nghiên cứu đã phần nào giải quyết các
khía cạnh khác nhau của đề tài như đã đề cập ở trên. Song dưới góc độ pháp
lý việc phân tích và xây dựng một khung pháp luật điều chỉnh chế độ công bố
thông tin của doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn bỏ ngỏ chưa được giải
quyết thấu đáo.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài, nhằm mục đích:
- Thứ nhất, luận văn tìm hiểu những quy định pháp luật về công bố thông
tin của doanh nghiệp nhà nước từ đó hệ thống hóa lý luận pháp luật về công bố
thông tin của doanh nghiệp Nhà nước cũng như trình tự, thủ tục công bố thông tin,
các điều kiện công bố thông tin
- Thứ hai, luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật về công bố thông
tin của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua. Từ đó đánh giá
kết quả đạt được cũng như hạn chế, vướng mắc còn tồn tại đối với việc công
bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước.
- Thứ ba, luận văn đưa ra các đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện hệ
thống pháp luật, góp phần nâng cao công tác thực hiện pháp luật về công bố
thông tin của doanh nghiệp nhà nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm lý luận và thực
tiễn về chế độ công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước; các quy định pháp
luật về chế độ công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam và
của một số nước trên thế giới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để giải quyết đối tượng nghiên cứu mà đề tài đặt ra, luận văn có phạm
4
vi nghiên cứu như sau:
- Về nội dung: luận văn đi sâu và tập trung nghiên cứu những quy
định của pháp luật về công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước.
Tác giả tập trung làm rõ các vấn đề lý luận về trách nhiệm pháp lý
công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước; Thực trạng pháp luật Việt Nam
về trách nhiệm công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước; đánh giá thực tiễn
áp dụng áp dụng pháp luật về trách nhiệm công bố thông tin của doanh nghiệp
nhà nước và đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm
công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
-Về không gian: luận văn đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật công
bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả xác định phạm vi nghiên cứu chủ yếu là pháp luật về trách
nhiệm công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam trong
khoảng thời gian kể từ khi có sự chuyển đổi, cổ phần hóa DNNN. Đồng thời
tác giả có sự đối chiếu, tham khảo pháp luật về công bố thông tin của doanh
nghiệp nhà nước ở một số quốc gia trên thế giới
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Hệ thống phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin xuyên suốt toàn luận án;
- Để cụ thể hóa, luận án sử dụng phương pháp luận giải, phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử… trong Chương 1 để
luận giải các vấn đề mang tính lý luận về công bố thông tin của doanh nghiệp
Nhà nước;
- Luận văn cũng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để nêu rõ
quá trình phát triển của quan điểm về doanh nghiệp nhà nước, vốn nhà nước,
kiểm soát vốn tại doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, công bố thông tin của
doanh nghiệp nhà nước… Phương pháp so sánh luật học cũng đã được sử
dụng trong quá trình nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới có
5
liên quan đến chế độ công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước, để đưa ra
những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được bố cục gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công bố thông tin của Doanh
nghiệp Nhà nước và chế độ pháp lý về công bố thông tin của doanh nghiệp
Nhà nước
Chương 2: Thực trạng pháp luật về công bố thông tin của doanh
nghiệp nhà nước và thực tiễn áp dụng hiện nay
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả pháp
luật về công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước
6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC VÀ CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ CÔNG BỐ
THÔNG TIN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1.1. Những vấn đề lý luận về công bố thông tin của doanh nghiệp
nhà nƣớc
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp nhà nước
Lịch sử phát triển của nhiều quốc gia cho thấy, không ít quốc gia đã
đầu tư vào những ngành mà ngày nay người ta gọi là công nghiệp nặng, như
khai khoáng, đóng tàu, luyện kim, giao thông và xây dựng các cơ sở hạ tầng
khác. Các mỏ khai khoáng và công nghiệp luyện kim, công nghiệp đường sắt
và chế tạo máy ở Nhật Bản trong thế kỷ XIX khởi đầu cũng thường do Chính
phủ Minh Trị đầu tư, dần dà mới được chuyển sang cho tư nhân. Quá trình
này diễn ra theo xu hướng nhà nước sau khi đã can thiệp để nền công nghiệp
phát triển đủ mạnh, sẽ từng bước rút lui dần. Tương tự như vậy, luyện kim,
đóng tàu ở Hàn Quốc và Đài Loan thường cũng được bắt đầu bằng sở hữu nhà
nước. Kinh tế công cộng cũng đã là động cơ chủ đạo của nền kinh tế Hoa Kỳ
trong thời gian xây dựng cơ sở hạ tầng. Đường dây điện thoại đầu tiên của thế
giới nối Baltimore với Washington năm 1842 là do chính phủ liên bang đầu
tư. Tòa án cho phép chính phủ liên bang can thiệp mạnh mẽ vào quan hệ
thương mại giữa các bang, khuyến khích những nền công nghiệp hạ tầng
(đường sắt, tàu điện ngầm), giám sát nền tài chính. Nói tóm lại, nhà nước có
một vai trò trung tâm trong việc tạo ra tăng trưởng kinh tế ở những quốc gia
phát triển này [15].
Chỉ có điều, vượt trước các nước nghèo hàng trăm năm trong xây
dựng công nghiệp, các quốc gia giàu có ngày nay đã bước vào một giai đoạn
mới để có thể định nghĩa lại vai trò của nhà nước trong một trật tự kinh tế
mang tính cạnh tranh cao. Điều trớ trêu là, sau khi đã trở nên giàu có, Hoa Kỳ
7
và các nước công nghiệp phát triển khác thúc ép tư nhân hóa, hạn chế sự can
thiệp của nhà nước vào các lĩnh vực kể trên như bưu điện, đường sắt, đường
bộ, hàng không, cho đến các cơ sở cung cấp điện, nước, viễn thông… Không
chỉ thúc đẩy tư nhân hóa trong phạm vi quốc gia, những nước giàu có này còn
thúc đẩy tư nhân hóa trên quy mô toàn thế giới, mở đường cho các công ty đa
quốc gia của họ từng bước mua cổ phần trong các ngành hạ tầng ở những
nước nghèo, từ viễn thông, ngân hàng, tài chính cho đến giao thông... Nghịch
lý này đang là một nguyên nhân dẫn đến làn sóng phản đối toàn cầu hóa, phản
đối việc biến nước nghèo thành “thuộc địa kiểu hiện đại của tài phiệt quốc
tế”. Do đó, có thể thấy, để thúc đẩy nền kinh tế, nhà nước đóng vai trò là một
nhà đầu tư lớn, đầu tư vào những lĩnh vực không chỉ cần số lượng vốn lớn mà
tư nhân không thể đảm đương mà còn là những ngành thiết yếu, quan trọng
tới xây dựng cơ sở hạ tầng, nền tảng của công nghiệp hiện đại.
Qua lịch sử phát triển của Nhà nước với vai trò của một nhà đầu tư
lớn, can thiệp vào thị trường thông qua các doanh nghiệp mà nhà nước kiểm
soát thông qua vốn sở hữu. Doanh nghiệp có vốn nhà nước được quan niệm
khác nhau ở mỗi quốc gia trên thế giới, tuy nhiên, vẫn có thể tìm thấy điểm
chung của các nước là dựa vào sở hữu vốn. Đó là doanh nghiệp có vốn nhà
nước là các thực thể kinh tế thuộc sở hữu toàn bộ hay một phần của chính phủ
mà phần lớn thu nhập của nó được tạo ra thông qua việc bán các hàng hóa,
dịch vụ [5, tr. 28]. Doanh nghiệp có vốn nhà nước nhìn chung không phải một
hình thức pháp lý cụ thể, mà là thuật ngữ để chỉ một loại hình doanh nghiệp
gắn với vốn nhà nước. Trong đó, doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ hoặc có cổ phần chi phối thường được gọi là doanh nghiệp nhà
nước. Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước ở các quốc gia cũng có sự khác
nhau. Có quốc gia quy định doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước mới là
doanh nghiệp nhà nước, nhưng có quốc gia quy định doanh nghiệp mà vốn
nhà nước trên 50% đã là DNNN. Ở Việt Nam, các thời kỳ khác nhau quy định
8
về cũng khác nhau.
Năm 1948 tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 104/SL, theo đó
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước được gọi là doanh nghiệp quốc gia. Không
thể nghi ngờ về vai trò to lớn của các xí nghiệp quốc doanh và cơ chế kinh tế
kế hoạch hóa tập trung trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế trong thời
chiến tranh, song trong thời hòa bình, cách quản lý này đã mau chóng trở nên
lỗi thời1.
Năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 388/HĐBT
về Quy chế thành lập và giải thể doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt là đến
năm 1995, Quốc hội đã ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước. Điều 1 Luật
DNNN 1995 quy định về khái niệm doanh nghiệp Nhà nước. Thời kỳ này,
Việt Nam quan niệm doanh nghiệp nhà nước là những doanh nghiệp mà nhà
nước đầu tư 100% vốn, hoạt động theo những quy định riêng tại Luật Doanh
nghiệp nhà nước mà không chịu sự điều chỉnh của Luật Công ty 1990.
Sau khi Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 được ban hành và có hiệu
lực thì lại có cách hiểu khác về doanh nghiệp nhà nước. Đó là tổ chức kinh tế
do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối.
Thời kỳ đó, tồn tại song hành Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 và
Luật doanh nghiệp 2005. Quá trình từ những năm 2000, Việt Nam đã tiến
hành đàm phán để có thể gia nhập các tổ chức kinh tế toàn cầu như WTO. Vì
vậy, để thống nhất “sân chơi” - một trong những đòi hỏi của WTO trong tiến
trình đàm phán gia nhập tổ chức này, ngay tại Luật doanh nghiệp 2005 đã có
quy định về lộ trình chuyển đổi công ty nhà nước theo hình thức cổ phần hóa.
Tiến trình chuyển đổi này, đặc biệt là việc cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước đã được Nhà nước tiến hành một cách nghiêm túc; nhưng do thiếu
quyết tâm cũng như do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nên
1
Phạm Thị Vân Tường & Nguyễn Thị Hải Bình (2012), “Mô hình quản lý đầu tư vốn Nhà nước Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam” Sách Tài chính Việt nam 2011, NXB Tài chính.
9
công việc quan trọng này tính đến nay vẫn bị giới chuyên gia cho là được
triển khai quá chậm, không đạt mục tiêu và kế hoạch đã đặt ra2. Tiến trình cổ
phần hóa vẫn đang tiếp tục triển khai với nhiều khó khăn trên thực tế.
Trong quá trình xây dựng Luật doanh nghiệp 2014, cơ quan chủ trì
soạn thảo là Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nêu rõ những bất cập của Luật doanh
nghiệp 2005 về doanh nghiệp nhà nước, và để khắc phục các hạn chế này,
Luật doanh nghiệp 2014 dành hẳn một chương để quy định về doanh nghiệp
nhà nước với nhiều sự thay đổi đáng kể so với Luật doanh nghiệp 2005.
Khoản 8 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2014 quy định: Doanh nghiệp
nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Theo giải
thích của cơ quan soạn thảo Luật Doanh nghiệp 2014 thì sự thay đổi khái
niệm doanh nghiệp nhà nước theo luật này nhằm tránh sự can thiệp của Nhà
nước vào những doanh nghiệp mà Nhà nước có vốn góp hoặc cổ phần chi
phối khi vẫn quan niệm doanh nghiệp đó là doanh nghiệp nhà nước, tạo ra
nhận thức mới những doanh nghiệp này không còn là doanh nghiệp nhà nước
3
không bị ràng buộc bởi “cơ chế nhà nước”.
Hiện nay, Luật Doanh nghiệp 2020 không đưa ra khái niệm doanh
nghiệp nhà nước mà chỉ đưa ra các hình thức pháp lý của doanh nghiệp và liệt
kê gồm những loại nào tại Khoản 11 Điều 4 và Điều 88 Luật doanh nghiệp
2020. Luật doanh nghiệp 2020 đưa ra quan niệm về doanh nghiệp nhà nước
phù hợp với quan niệm của đại đa số các quốc gia và các tổ chức quốc tế về
doanh nghiệp nhà nước. Luật doanh nghiệp 2020 đã thay thuật ngữ “doanh
nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”
bằng thuật ngữ “doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”.
Thuật ngữ này muốn chỉ rằng không có hình thức pháp lý riêng biệt cho
2
http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=
9&leader_topic=&id=BT21121258738 truy cập 10/2020.
3
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Doanh nghiệp nhà nước và méo mó thị trường, Nxb Tài
chính, 2015, tr23
10
doanh nghiệp nhà nước, mà chỉ có doanh nghiệp có vốn Nhà nước được tổ
chức theo các hình thức pháp lý đã được thiết kế trong luật. Sự thay đổi này
cho thấy quan niệm về doanh nghiệp nhà nước phải dựa vào hình thức pháp lý
chứ không dựa vào hình thức sở hữu. Cách tiếp cận này đã chỉ rõ doanh
nghiệp có vốn Nhà nước có thể tồn tại dưới nhiều hình thức pháp lý khác
nhau, cho phép mở rộng tối đa có thể có những doanh nghiệp có vốn Nhà
nước. Những thông tin thay đổi về định hướng phát triển, cơ cấu tổ chức điều
hành, thay đổi về tài sản… của doanh nghiệp nhà nước là rất quan trọng trên
thị trường và cần phải công bố một cách minh bạch, rõ ràng, tạo điều kiện cho
mọi chủ thể có nhu cầu đều có thể kiểm tra, giám sát.
1.1.2. Khái niệm, phân loại công bố thông tin của doanh nghiệp nhà
nước
1.1.2.1. Khái niệm công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về thông tin. Theo Từ điển
Bách khoa Việt Nam thì thông tin được hiểu là các điều hiểu biết, tri thức thu
được qua nghiên cứu, khảo sát hoặc trao đổi giữa các đối tượng với nhau.
Dưới góc độ nhận thức luận, thông tin là kết quả của sự phản ánh hiện thực
khách quan, được biểu hiện bằng các hệ thống ngôn ngữ, ký hiệu, hình ảnh…
Những tin tức này được công bố qua báo chí, thông điệp dữ liệu…
đảm bảo cho người nhận có được kiến thức đầy đủ, thông tin chính xác. Như
vậy, dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau về thông tin, song nó đều có ý nghĩa
đem đến sự hiểu biết, nhận thức cho người tiếp nhận thông qua sự phân tích
các dữ liệu, chỉ số, ký hiệu, bảng biểu, sơ đồ… và thường được truyền tải
thông qua các hình thức như báo chí, truyền thanh, truyền hình, dữ liệu điện
tử…
Trên thị trường kinh doanh, thông tin rất đa dạng và có thể xuất phát
từ nhiều nguồn khác nhau như từ chính bản thân doanh nghiệp, các hiệp hội,
từ cơ quan quản lý thị trường hay từ nhà đầu tư… Đó có thể là thông tin liên
11
quan đến chiến lược phát triển của doanh nghiệp, kế hoạch sản xuất kinh
doanh, thông tin về biến động khác có ảnh hưởng đến doanh nghiệp và thị
trường.
Dưới góc độ kinh tế có thể hiểu, thông tin của doanh nghiệp nhà nước
là tập hợp các số liệu, tin báo, những chỉ tiêu, tư liệu liên quan đến tình hình
sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình của doanh nghiệp giúp cho cơ quan
quản lý và cả xã hội có thể thực hiện giám sát, quản lý đối với doanh nghiệp.
Dưới góc độ pháp lý, thông tin của doanh nghiệp nhà nước là hệ thống
dữ liệu về tình hình sản xuất kinh doanh, tổ chức quản lý nội bộ cũng như mối
quan hệ giữa doanh nghiệp nhà nước với chủ sở hữu… trên thị trường. Những
dữ liệu này được tập hợp, công bố một cách thường xuyên, đảm bảo yêu cầu
kiểm tra, giám sát của người có trách nhiệm, cũng như toàn xã hội. Đảm bảo
mục tiêu sản xuất kinh doanh có hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước.
Có thể thấy trên thị trường, công bố thông tin của doanh nghiệp nhà
nước được hiểu là việc làm cho thông tin được công khai một cách tin cậy và
đông đảo công chúng đều có thể biết được. Nội dung cần công bố chủ yếu là
các thông tin tài chính và phi tài chính phục vụ cho việc ra quyết định kinh
doanh và đầu tư, thay đổi theo từng giai đoạn phát triển kinh tế, đáp ứng các
yêu cầu của Nhà nước. Hoạt động công bố thông tin của doanh nghiệp nhà
nước có thể thực hiện thông qua các phương tiện như trang thông tin điện tử,
báo in, báo hình hoặc các ấn phẩm khác như tạp chí, bản tin…
1.1.2.2. Phân loại công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước
(i) Phân loại theo thời điểm công bố
- Công bố định kỳ: là thông tin được công bố có tính chất định kỳ. Các
báo cáo có tính chất định kỳ cần được công bố như: báo cáo tài chính năm,
báo cáo tài chính bán niên của doanh nghiệp nhà nước. Việc lập và cung cấp
các thông tin định kỳ phải theo đúng quy định.
- Công bố bất thường, theo yêu cầu: là thông tin công bố có tính chất
12
bất thường, do yêu cầu của các chủ thể quản lý cũng như đại diện các chủ sở
hữu trong doanh nghiệp Nhà nước. Các thông tin bất thường, theo yêu cầu
bao gồm thông tin về tài khoản của doanh nghiệp nhà nước tại các ngân hàng;
báo cáo về tình hình hoạt động kinh doanh; hoặc khi xảy ra sự kiện ảnh
hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và cần phải xem xét
tính chính xác của thông tin đó.
(ii) Phân loại theo tính chất bắt buộc hay tự nguyện
- Công bố bắt buộc: là những thông tin bắt buộc phải công bố theo
quy định. Các thông tin này phải được trình bày đúng theo quy định về nội
dung và thời gian công bố của doanh nghiệp nhà nước.
- Công bố tự nguyện: là thông tin không bắt buộc phải công bố theo
quy định mà các doanh nghiệp nhà nước sẽ chủ động và tự nguyện công bố
nhằm mục đích nâng cao uy tín công ty, củng cố và tăng cường quan hệ với
các nhà đầu tư và tránh rủi ro phát sinh.
1.1.3. Vai trò hoạt động công bố thông tin của doanh nghiệp nhà
nước
Do thị trường và yêu cầu minh bạch hóa, vấn đề công bố thông tin của
doanh nghiệp nhà nước đang ngày được quan tâm không chỉ do yêu cầu của
đại diện chủ sở hữu nhà nước mà còn do tình hình hoạt động kém hiệu quả
của doanh nghiệp nhà nước.
Gần đây, hoạt động công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước đã
có những tiến triển khả quan, thể hiện sự công khai, minh bạch trong các hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước.
Năm 2016, khi Nghị định số 81/2015/NĐ-CP có hiệu lực, số lượng
doanh nghiệp nhà nước thực hiện công bố thông tin chỉ đạt 241/620 doanh
nghiệp; năm 2017 số lượng doanh nghiệp nhà nước thực hiện công bố thông
tin đã tăng lên 275/584 doanh nghiệp; năm 2018 đã có 383/534 doanh nghiệp
và tính đến hết năm 2019 đã có 333/526 doanh nghiệp (chiếm 63,3% số
13
- Xem thêm -