Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Các phạm vi tồn tại của từ tiếng việt...

Tài liệu Các phạm vi tồn tại của từ tiếng việt

.PDF
53
141
105

Mô tả:

CHƯƠNG 2 CÁC PHẠM VI TỒN TẠI: HỆ THỐNG/LỜI NÓI/ TU TỪ CỦA TỪ ĐỒNG ÂM/ TỪ GẦN ÂM TIẾNG VIỆT A. KHÁI QUÁT VỀ TỪ ĐỒNG ÂM/ TỪ GẦN ÂM I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT LIÊN QUAN ĐẾN TỪ ĐỒNG ÂM/ TỪ GẦN ÂM 1.1. Dẫn nhập Đồng âm là hiện tượng trùng nhau về ngữ âm của hai hoặc hơn hai từ/ đơn vị ngôn ngữ khác nhau. Đây là hiện tượng phổ biến trong các ngôn ngữ, nhưng ở mỗi ngôn ngữ thì có những biểu hiện khác nhau. Hiện tượng đồng âm/ gần âm trong vốn từ vựng của mỗi ngôn ngữ thường gây trở ngại cho việc hiểu chúng. Vì vậy, người ta bắt buộc phải vận dụng và thật sự hiểu chúng trong mỗi văn cảnh cụ thể. Ví dụ như cần phân biệt nghĩa từ vựng các từ gần âm sau: bơ phờ - bơ thờ - bơ vơ (bơ phờ là mệt mỏi, rũ rượi; bơ thờ: 1. lang thang vô gia cư, không thiết làm ăn; 2. là thái độ ngẩn ngơ, không biết làm gì vì trong lòng không ổn; bơ vơ là không nơi nương tựa). Như ta đã biết, các từ càng ngắn, có cấu trúc càng đơn giản thì càng dễ dàng xuất hiện hiện tượng đồng âm/ gần âm. Vì vậy, ở những ngôn ngữ có nhiều từ đơn, gồm một vài âm tiết như tiếng Anh, tiếng Pháp… hiện tượng đồng âm/ gần âm dễ dàng xảy ra hơn là ở các ngôn ngữ có nhiều từ ghép như tiếng Đức chẳng hạn. 79 Còn đặc điểm nổi bật của tiếng Việt là hình vị, từ, âm tiết thường trùng nhau cho nên hiện tượng đồng âm/ gần âm trong tiếng Việt càng phổ biến hơn nữa so với ngôn ngữ biến hình. Tiếng Việt là ngôn ngữ không biến hình cho nên không cần phân biệt như trên. Cũng cùng loại hình với tiếng Việt, nhưng tiếng Hán chỉ sử dụng số lượng âm tiết khoảng bằng một phần mười số lượng âm tiết tiếng Việt, cho nên hiện tượng đồng âm/ gần âm trong tiếng Hán lại càng phổ biến hơn so với tiếng Việt rất nhiều. Trong vốn từ vựng tiếng Việt, bên cạnh những từ mang tính đồng nghĩa và đồng âm ở mức độ thấp vừa thì vẫn xuất hiện các từ đồng âm/ gần âm ở mức độ cao nhất và khác nghĩa cũng ở mức độ cao nhất. Đó là hệ thống từ đồng âm/ gần âm trong hiện tượng đồng âm tiếng Việt. Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm thanh (chúng trùng với nhau cả về âm thanh lẫn chữ viết trong tất cả hoặc hàng loạt hình thái ngữ pháp vốn có của chúng) và những từ gần âm là những từ gần giống nhau về mặt âm thanh nhưng có những ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Từ đồng âm từ vựng tiếng Việt cũng có số lượng không nhiều nhưng là những từ có tần số xuất hiện cao. Khi đồng âm từ vựng được sử dụng nhiều trong đời sống và nhiều nhất là trong văn cảnh lời nói và văn bản nghệ thuật thì nó sẽ đầy đủ điều kiện để trở thành đồng âm lời nói và đồng âm tu từ. Nói cách khác, từ đồng âm tiếng Việt có giá trị rất lớn trong sáng tác nghệ thuật ngôn từ bởi vì nó thật sự là một phương tiện tu từ rất có hiệu lực. Nó là cơ sở, là nền tảng cho nghệ thuật chơi chữ trong các tác phẩm văn chương tiếng Việt. Ví dụ như thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Du... 1.2. Nguyên nhân xuất hiện hiện tượng đồng âm/ gần âm Trong quá trình phát triển của lịch sử, của xã hội, sự vật, hiện tượng đã được nảy sinh ngày càng mới, các mối quan hệ trong đời sống xã hội phát triển ngày càng nhiều, nhu cầu diễn đạt của con người cũng ngày càng phong phú hơn, đa dạng hơn. 80 Đồng âm là hiện tượng tất yếu của các ngôn ngữ vì số lượng các đơn vị ngữ âm là có hạn trong khi số lượng các sự vật cần biểu thị thì vô cùng. Từ đồng âm cũng thể hiện sự quan sát, nhận thức và cách thức diễn đạt vô cùng phong phú đa dạng của người Việt trong sử dụng ngôn ngữ. Sự tồn tại của từ đồng âm góp phần giải quyết và làm phong phú thêm vốn từ biểu thị cho cái vô hạn của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan. Nói cách khác, từ đồng âm/ gần âm thể hiện quy luật đặt tên với vỏ âm thanh và ý nghĩa vô cùng phong phú của ngôn ngữ nhằm đáp ứng sự đa dạng của sự vật hiện tượng trong thế giới. Sự tồn tại của từ đồng âm/ gần âm cũng góp phần giải quyết mâu thuẫn giữa cái vô hạn của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan cần được ngôn ngữ biểu thị với cái hữu hạn của những phương tiện ngôn ngữ. Như vậy, để đáp ứng các vấn đề trên, cùng với việc làm tròn chức năng làm công cụ giao tiếp và tư duy của mình, ngôn ngữ nói chung và bộ phận từ vựng ngữ nghĩa nói riêng, bắt buộc phát triển theo hai cách: Một là phải sáng tạo thêm từ mới với những hình thức âm thanh mới. Hai là phải sáng tạo hay gán thêm những nét nghĩa mới cho những hình thức âm thanh cũ. Từ đồng âm/ gần âm được tạo nên bằng chính cả hai con đường. 1.3. Phân biệt từ đồng âm/ từ gần âm với từ đa nghĩa Đây là các từ đồng âm hoàn toàn nhưng khác nghĩa hoàn toàn. Đồng thời, chúng tôi cũng xếp loại từ này vào hệ thống từ đa nghĩa thuộc về một từ loại và khác từ loại. Vậy chúng ta cần chú ý phân biệt từ đồng âm hoàn toàn với từ đa nghĩa, từ đồng nghĩa và từ trái nghĩa: Mặt khác, chúng ta cũng chú ý phân biệt hiện tượng đồng âm từ vựng trong hệ thống ngôn ngữ với hiện tượng đồng âm lời nói và đồng 81 âm tu từ trong văn bản nghệ thuật. Bởi vì, trước kia, tu từ học đã nghiên cứu tất cả các phương tiện ngôn ngữ để diễn đạt hiện tượng đồng âm trong văn cảnh văn bản nghệ thuật còn từ vựng học chỉ chú ý đến hiện tượng đồng âm trong hệ thống ngôn ngữ mà thôi. II. HIỆN TƯỢNG ĐỒNG TỰ, ĐỒNG ÂM VÀ GẦN ÂM Hiện tượng đồng tự/ đồng âm/ gần âm là hiện tượng mà giữa hai từ trở lên trong hệ thống ngôn ngữ có sự trùng lặp, sự giống nhau hoàn toàn hay gần giống nhau (chỉ khác một phần) về vỏ ngữ âm, hình thức âm thanh nhưng biểu thị nhiều khái niệm, sự vật, hiện tượng… khác nhau, không có liên quan gì với nhau. Diễn đạt một cách dễ hiểu hơn: hiện tượng đồng tự/ đồng âm/ gần âm là hiện tượng mà trong đó chứa đựng hai hoặc hơn hai từ biểu thị sự khác nghĩa của một hay nhiều sự vật, hiện tượng, hành động, tính chất khác nhau nhưng được diễn đạt bằng một vỏ ngữ âm (giống nhau về vỏ ngữ âm). Hiện tượng đồng tự/ đồng âm và gần âm lời nói hoặc hiện tượng đồng âm/ gần âm tu từ là sự sử dụng giống nhau một hình thức âm thanh nhưng tạo ra sự liên tưởng khác nhau từ một số nét nghĩa nào đó của hai hay nhiều sự vật, hiện tượng, khái niệm trong chính không gian, thời gian của văn cảnh mà người sử dụng từ ngữ đó có thể nhận biết được. III. CÁC LOẠI QUAN HỆ TRONG HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM/ GẦN ÂM 3.1. Khái niệm 3.1.1. Quan hệ là gì? Quan hệ là sự gắn liền về mặt nào đó giữa hai hay nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau. Sự gắn liền đó khiến cho hễ sự vật, hiện tượng này có thay đổi, biến đổi thì có thể sẽ có tác động đến sự vật, hiện tượng kia. 82 3.1.2. Khái niệm quan hệ ở hiện tượng đồng âm/ gần âm trong ngôn ngữ Quan hệ ở hiện tượng đồng âm trong ngôn ngữ là sự gắn liền về mặt âm thanh giữa hai hay nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau: sự gắn liền các sự vật, hiện tượng chứa đựng trong vỏ ngữ âm của chính từ đồng âm; giữa từ đồng âm trong hệ thống với từ đồng âm trong vận dụng; giữa hình thức ngữ âm và nội dung ngữ nghĩa trong chính từ đồng âm... Sự gắn liền trong quan hệ đó khiến cho hễ cái này có thay đổi, biến đổi thì có thể sẽ có tác động đến cái kia ở hiện tượng đồng âm thuộc về ngôn ngữ . 3.2. Các loại quan hệ trong hiện tượng đồng âm/ gần âm 3.2.1. Quan hệ đồng nhất Giữa các từ đồng âm có quan hệ đồng nhất về mặt âm thanh. Tính đồng nhất này có thể giống hoàn toàn hay chỉ một phần vỏ âm thanh giữa các từ. Mặt khác, sự đồng nhất có thể là trùng lắp vỏ ngữ âm cùng cấp độ hay khác cấp độ: giữa từ với từ (từ ôi trong cụm từ eo ôi đồng âm với từ ôi trong cụm từ cơm ôi); giữa từ với tiếng vị (từ hôi trong cụm từ tanh hôi đồng âm với tiếng vị hôi trong từ ghép kết hợp mồ hôi/ bồ hôi); giữa tiếng vị với tiếng vị (đãi bôi/ giao bôi/ ly bôi/ quỳnh bôi). 3.2.2. Quan hệ liên tưởng Giữa các từ đồng âm luôn tồn tại quan hệ liên tưởng. Quan hệ liên tưởng trong từ đồng âm là loại quan hệ giúp cho, người sử dụng khi dùng đến một từ đồng âm nào đó sẽ nghĩ đến sự vật, hiện tượng này và nhân đó làm cho người sử dụng thực hiện thao tác tư duy mới, nghĩ đến một hay nhiều từ có liên quan khác có vỏ âm thanh cũng giống như thế nhưng có nghĩa khác nhau của một hoặc nhiều sự việc, hiện tượng khác nhau. Trong từ đồng âm, người Việt cũng thường thể hiện mối quan hệ này thông qua việc sử dụng sự vật, hiện tượng,... nào đó được dùng làm chuẩn để so sánh với những thuộc tính này trong chiến lược liên tưởng để tạo nên hệ thống từ đồng âm khác nhau. 83 Trong hiện tượng đồng âm, chúng ta có các phép liên tưởng cơ bản như: Liên tưởng tiếp cận: là loại hình liên tưởng được hình thành dựa vào những sự vật, hiện tượng gần nhau trong không gian và thời gian. Liên tưởng tương tự được hình thành từ các sự vật, hiện tượng có những đặc điểm ngữ âm giống nhau. Liên tưởng nhân quả: là loại liên tưởng được hình thành từ những sự vật, hiện tượng có mối quan hệ mang tính nhân quả. 3.2.3. Quan hệ đối chiếu Hiện tượng đồng âm cũng luôn tồn tại quan hệ đối chiếu. Quan hệ đối chiếu trong từ đồng âm là loại quan hệ giúp cho người ta khi dùng đến một từ đồng âm nào đó sẽ so sánh cái này với cái kia; sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng kia; nét nghĩa này với nét nghĩa kia… để tìm ra những đặc điểm khác nhau của chúng. Đồng thời, nó làm cho người so sánh có thể biết được rõ ràng hơn các tầng nghĩa trong từ đồng âm để có thể đưa ra chiến lược lựa chọn từ này mà không lựa chọn từ khác khi sử dụng trong văn cảnh sao cho phù hợp. IV. PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG ÂM TỪ VỰNG VỚI TỪ ĐỒNG ÂM LỜI NÓI VÀ TỪ ĐỒNG ÂM TU TỪ Chúng ta thử so sánh sự khác nhau về ý nghĩa hàm ẩn của các từ đồng âm trong các ví dụ sau: Ví dụ như cần phân biệt nghĩa từ vựng các từ gần âm sau: bơ phờ - bơ thờ - bơ vơ (bơ phờ là mệt mỏi, rũ rượi; bơ thờ: 1. lang thang vô gia cư, không thiết làm ăn; 2. là thái độ ngẩn ngơ, không biết làm gì vì trong lòng không ổn; bơ vơ là không nơi nương tựa). Vậy bơ phờ bơ thờ - bơ vơ là các từ đồng âm/ gần âm từ vựng. - Chị Hai ơi! Làm gì mà bơ phờ vậy ? Không muốn làm việc à? (nghĩa gốc: mệt mỏi, rũ rượi); (nghĩa hàm ẩn lời nói: chê trách người đó lười nhát). Vậy bơ thờ là từ đồng âm/ gần âm lời nói so với từ bơ thờ - bơ vơ. 84 Còn đây là lời mắng Kiều của Hoạn Thư: - “Diếc rằng những giống bơ thờ quen thân” Vậy bơ thờ là từ đồng âm/ gần âm tu từ (so với từ bơ phờ - bơ vơ). Hoặc: - “Bên trời góc bể bơ vơ” Vậy bơ vơ là từ đồng âm/ gần âm tu từ (so với từ bơ phờ - bơ thờ). Hoặc trở lại ví dụ trên với các từ đồng âm tu từ: Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi! (Tổng Cóc- con cóc) Thiếp bén duyên chàng có thế thôi! (bén duyên – nhái bén; chàng – chẫu chàng) (Hồ Xuân Hương) B. TỪ ĐỒNG ÂM/TỪ GẦN ÂM TỪ VỰNG I. KHÁI QUÁT VỀ TỪ ĐỒNG ÂM/ GẦN ÂM TỪ VỰNG Từ đồng âm/ gần âm từ vựng là hiện tượng chuyển nghĩa phổ quát trong ngôn ngữ của mỗi dân tộc. Chúng ta đã sử dụng phương thức cấu tạo từ bằng cách chuyển đổi ý nghĩa. Sự chuyển đổi ấy đã diễn ra ở phạm vi ngữ nghĩa của tiếng vị hay còn gọi là phương thức chuyển đổi ý nghĩa tiếng vị để tạo nên từ mới của từ tiếng Việt. Từ m phương thức chuyển đổi ý nghĩa tiếng vị thì tiếng vị mới luôn luôn có vỏ ngữ âm giống nhau với tiếng vị trong từ cũ nhưng ý nghĩa thì bắt buộc phải thay đổi. Thế nhưng sự thay đổi về nghĩa sẽ hướng theo hai hướng khác nhau. Hệ quả của sự phát triển hai hướng nghĩa khác nhau đó sẽ tồn tại hai phương thức cấu tạo từ dựa vào mặt ý nghĩa khác nhau. Dĩ nhiên, hai phương thức cấu tạo từ khác nhau sẽ tạo nên hai loại từ khác nhau: Một là cấu tạo từ bằng phương thức đồng âm khác nghĩa chuyển theo hướng đa nghĩa sẽ tạo thành hệ thống từ đa nghĩa. 85 Hai là cấu tạo từ bằng phương thức đồng âm khác nghĩa chuyển theo hướng ít nghĩa, nghĩa mang tính tách bạch hơn, độc lập hơn sẽ tạo thành hệ thống từ đồng âm. II. KHÁI NIỆM TỪ ĐỒNG ÂM / GẦN ÂM TỪ VỰNG Từ đồng tự/ đồng âm/ gần âm tiếng Việt thuộc về đơn vị ngôn ngữ cơ bản có tính tổng thể hữu cơ, có tính toàn khối về hình thức. Về ngữ âm, nó có thể giống hoàn toàn hay giống một phần với một ít từ đồng âm/ gần âm khác. Về mặt nghĩa, mỗi từ sẽ có sự hiện diện của một hoặc hơn một nghĩa vị trở lên tương ứng và đều có tính trọn vẹn, chuyên biểu thị một hay hơn một phân đoạn thực tế khách quan. Về ngữ pháp, mỗi từ sẽ ứng với một khuôn từ loại. Nó có thể tồn tại tách rời nhau và được tái hiện trong các lời nói khác nhau; nó là đơn vị lớn nhất trong hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt: chứa đựng trong lòng nó những đơn vị của các cấp độ dưới nó; nó là đơn vị nhỏ nhất trong hệ thống ngôn ngữ trên từ: độc lập về về ý nghĩa lẫn hình thức, tạo nên các đơn vị ngôn ngữ: cụm từ, câu, đoạn văn, văn bản và là đơn vị nhỏ nhất trong phương diện lời nói trên từ: độc lập về về ý nghĩa lẫn hình thức, tạo nên các đơn vị lời nói: phát ngôn, ngôn đoạn, ngôn bản. Nói một cách ngắn gọn nhất: hai từ trở lên được gọi là từ đồng âm/ gần âm từ vựng khi chúng biểu thị nhiều khái niệm, sự vật, hiện tượng… khác nhau, thuộc về các trường nghĩa khác nhau, hoặc có thể thuộc về các từ loại khác nhau, nhưng giống nhau về ngữ âm. Ví dụ như hai từ ốc (trong con ốc) và ốc (trong đinh ốc) là hai từ đồng âm vì cả hai cùng có vỏ ngữ âm giống nhau nhưng biểu thị hai sự vật khác nhau và thuộc về hai trường nghĩa cũng khác nhau: ốc (trong con ốc thuộc về trường nghĩa động vật thân mềm) và ốc (trong đinh ốc thuộc về trường nghĩa bộ phận máy móc có chất liệu bằng kim loại như sắt, kẽm…). 86 III. ĐẶC ĐIỂM TỪ ĐỒNG ÂM/ GẦN ÂM TỪ VỰNG 3.1. Hai từ trở lên giống nhau về hình thức ngữ âm nên thường gây nên sự nhầm lẫn cho người sử dụng Ngày nay, chúng ta dễ nhầm lẫn những nét nghĩa đồng âm do cách đọc đồng âm từ Hán Việt. Trong vốn từ vựng, từ đồng âm/ gần âm rất dễ làm cho người sử dụng hiểu nhầm. Ví dụ như nhóm từ đồng âm/ gần âm đại để - đại khái - đại loại - đại thể: Từ đại để có nghĩa là: trên những nét lớn, nét khái quát, không đi vào chi tiết; hoặc có nghĩa là tương đương, ngang nhau. Ví dụ: Tình hình đại để như vậy, không có gì đặc biệt. Từ đại khái có nghĩa là: 1. trên những nét lớn, khái quát, không đi vào chi tiết; 2. qua loa, cho xong chuyện. Ví dụ: Cái gì nó cũng làm đại khái hết! Từ đại loại có nghĩa là: người hay sự vật có những nét chung giống nhau, có thể xếp vào một loại. Từ đại thể có nghĩa là: tình hình chung (giống như đại để). Nhưng trong văn cảnh cụ thể, những nét nghĩa biểu hiện khác nhau thường có sẵn của từ đồng âm sẽ ít gây nhầm lẫn hơn. Đây cũng là đặc trưng chung của những từ đồng âm. Những nét nghĩa biểu hiện khác nhau này làm cho từ đồng âm có thể thể hiện đa dạng ý nghĩa của các từ, các câu đáp ứng những nhu cầu diễn đạt phong phú của ngôn ngữ. 3.2. Hai từ trở lên giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng biểu thị nhiều khái niệm, sự vật, hiện tượng…khác nhau Hai từ trở lên được xem là đồng âm khi chúng giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng biểu thị nhiều khái niệm, sự vật, hiện tượng… khác nhau. Ví dụ như hai từ dung túng - thao túng. Tiếng vị túng trong từ dung túng đồng âm với tiếng vị túng trong từ thao túng nhưng biểu thị hai khái niệm khác nhau. Bởi vì, tiếng vị này có xuất phát từ từ Hán Việt với các nghĩa khác nhau. Tiếng vị túng trong từ 87 dung túng có nghĩa là thả lỏng. Cả từ dung túng có nghĩa là che chở, bao che cho người khác tự do làm bậy. Còn tiếng vị túng trong từ thao túng có nghĩa là khống chế, điều khiển nghiêng về nghĩa xấu, mang sắc thái âm tính thường chỉ về quyền hành, quyền hạn. Hoặc từ triệt để có nghĩa là tột mức, đến nơi đến chốn; còn từ triệt hạ có nghĩa là trừ bỏ. 3.3. Hai từ trở lên giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng thuộc về các trường nghĩa khác nhau Hai từ trở lên được xem là đồng âm khi chúng giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng cũng thường thuộc về các trường nghĩa khác nhau. Ví dụ như các từ duyên - duyên phận - duyên cớ - duyên hải đều có từ hay tiếng vị đồng âm: Từ duyên có nghĩa là vẻ đẹp của người con gái sẽ thuộc về trường nghĩa với các từ: duyên, duyên dáng. Tiếng vị duyên trong từ duyên phận có nghĩa là số phận được trời định trước giữa người con trai và người con gái kết thành đôi lứa, vợ chồng sẽ thuộc về trường nghĩa với các từ: duyên phận, duyên số. Tiếng vị duyên trong từ duyên cớ có nghĩa là nguyên nhân sẽ thuộc về trường nghĩa với các từ: duyên cớ, duyên do. Tiếng vị duyên trong từ duyên hải có nghĩa là noi theo, men theo sẽ thuộc về trường nghĩa với các từ: duyên hải, duyên bộ. 3.4. Hai từ trở lên giống nhau về hình thức ngữ âm cũng có thể thuộc về các từ loại hay tiểu loại khác nhau Hai từ trở lên được xem là đồng âm khi chúng giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng cũng thường thuộc về các từ loại hay tiểu loại khác nhau. Ví dụ như các từ đau đáu - đau điếng đều có tiếng vị đồng âm: Tiếng vị đau trong từ đau đáu có nghĩa là áy náy, không yên lòng, luôn nhớ về sẽ thuộc về từ loại động từ. Tiếng vị đau trong từ đau điếng có nghĩa là đau đến mức lặng người đi, không thể nói được thành lời sẽ thuộc về từ loại tính từ. 88 3.5. Tính đồng âm có thể ở các cấp độ khác nhau Một đặc điểm khác của từ đồng âm là tính đồng nhất về ngữ âm giữa các từ có sự khác nhau về cấp độ. Nghĩa là tính đồng nhất này có thể trùng lắp vỏ ngữ âm cùng cấp độ hay khác cấp độ: Giữa từ với tiếng vị (từ hôi trong cụm từ tanh hôi đồng âm với tiếng vị hôi trong từ ghép kết hợp mồ hôi/ bồ hôi). Giữa tiếng vị với tiếng vị (đãi bôi/ giao bôi/ ly bôi/ quỳnh bôi). Hoặc ví dụ bồng - bồng bế - bồng bột được phân tích như sau: từ bồng (1. là cái trống nhỏ, eo ở giữa; 2. ẵm, bế, ôm lên, trong tay, thường là đứa trẻ) đồng âm với tiếng bồng trong từ ghép đẳng lập bồng bế (cũng có nghĩa là ẵm, bế, ôm, nhưng nói khái quát); và đồng âm với tiếng bồng trong từ láy bồng bột (1. tinh thần, khí thế, trạng thái bừng bừng sôi nổi; 2. sự thiếu chín chắn, thiếu suy nghĩ, không lâu bền). 3.6. Từ đồng âm/ gần âm có đặc điểm thường đồng âm với các tiếng trong từ Hán Việt Ví dụ như tiếng vị châm trong từ châm ngôn đồng âm với tiếng vị châm trong từ phương châm. Tiếng vị này có xuất phát từ từ Hán Việt với các nghĩa khác nhau. Tiếng vị châm trong từ châm ngôn có nghĩa là lời khuyên răn, thường ở trong các cách cư xử, hành động. Còn tiếng vị châm trong từ phương châm có nghĩa là 1. cái kim dùng để chỉ phương hướng; 2. phương hướng hay cách để hành động cho đúng. Ví dụ 3 từ: dơ dáy - dơ dáng - dơ duốc đều có tiếng vị đồng âm. Tiếng vị dơ trong từ láy dơ dáy có nghĩa là bẩn thỉu. Tiếng vị dơ trong từ dơ dáng có nghĩa là trơ trẽn, thường ở trong các cách cư xử, hành động. Còn tiếng vị dơ trong từ dơ duốc có nghĩa là xấu xa, nhục nhã. Hoặc khác 3 từ: dung tục - thô tục - thông tục đều có tiếng vị đồng âm. Tiếng vị tục trong từ ghép dung tục có nghĩa là tầm thường. Tiếng vị tục trong từ thô tục có nghĩa là không mềm mại, thiếu tế nhị, không lịch sự, không nhã nhặn thường ở trong các cách cư xử, hành động. Còn tiếng vị tục trong từ thông tục có nghĩa là thói quen hay những cái thông thường, phổ biến trong dân gian. 89 IV. ĐIỀU KIỆN ĐỂ TẠO TỪ ĐỒNG ÂM / GẦN ÂM TỪ VỰNG Khi tạo nên từ đồng âm bằng phương thức loại này, chúng phải thỏa mãn các điều kiện cần và đủ sau đây: 4.1. Các từ đồng âm trong nhóm thường phải thuộc về các trường nghĩa khác nhau Điều kiện bắt buộc đầu tiên là chúng phải thuộc về các trường nghĩa khác nhau. Các từ đồng âm tuy có vỏ ngữ âm giống nhau nhưng về bản chất thì chúng có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau hay khác nhau ở mức độ cao nhất. Ý nghĩa của các từ đồng âm thường là không trái nghĩa hoặc không đối lập nhau nhưng có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, điều kiện để các từ đồng âm tồn tại là bắt buộc chúng phải thuộc về các trường nghĩa khác nhau tùy thuộc vào mức độ đồng âm khác nhau. Nói cách khác, từ đồng âm là hiện tượng ngữ nghĩa thuộc về các trường nghĩa khác nhau. Ví dụ hai từ bay sau đây là hai từ đồng âm khác nghĩa hoàn toàn thì sẽ thuộc về hai trường nghĩa khác nhau hoàn toàn: - bay (1): (chim bay: hoạt động di chuyển ở trên không của loại động vật thuộc lớp lông vũ); - bay (2): (cái bay: dụng cụ của thợ xây, gồm có một miếng thép mỏng, hình lá lắp vào cán, dùng để xây, trát, láng). Ví dụ 4 từ bay sau đây lại là 4 từ đồng âm khác nghĩa ở mức độ thấp hay từ đa nghĩa thuộc một từ loại thì sẽ thuộc về 4 trường nghĩa nhỏ cụ thể hơn: - bay (1): (cái bay: dụng cụ của thợ xây, gồm có một miếng thép mỏng, hình lá lắp vào cán, dùng để xây, trát, láng); - bay (2): (cái bay: dụng cụ của họa sĩ, có hình dạng như một con dao mỏng, hình lá trúc, dùng để trát hoặc cạo những lớp sơn dầu khi vẽ); - bay (3): (cái bay: dụng cụ của thợ làm tượng, có thể bằng gỗ hoặc bằng kim loại, có hình dạng là thân tròn, hai đầu dẹt, mỏng và vát, dùng để gọt, miết, khoét, vạt khi nặn tượng hay tạt tượng); 90 - bay (4): (cái bay: dụng cụ của thợ khảm trai ốc, có hình dạng như một con dao mỏng, hình tam giác, dùng để đục hoặc cạo những lớp gỗ trước khi bôi keo gắn ốc hoặc xà cừ); 4.2. Các từ đồng âm trong nhóm, nếu hoàn toàn không có quan hệ với nhau về ý nghĩa thì thường thuộc về các từ loại khác nhau hay có thể thuộc về một từ loại Điều kiện thứ hai là chúng không còn giữ nguyên những đặc điểm từ loại của từ đồng âm cũ. Điều kiện thứ hai này là hệ quả của điều kiện đầu tiên. Vì từ đồng âm khác nghĩa hoàn toàn là hiện tượng ngữ nghĩa thuộc về các trường nghĩa khác nhau hoàn toàn nên chúng hoàn toàn không có quan hệ với nhau về ý nghĩa. Mà giữa các từ đã không có quan hệ với nhau về ý nghĩa thì thông thường chúng thuộc về những loại từ loại khác nhau. Trở lại ví dụ hai từ bay trên đây là hai từ đồng âm khác nghĩa hoàn toàn thì sẽ thuộc về hai trường nghĩa khác nhau hoàn toàn và thuộc về hai loại từ loại khác nhau hoàn toàn: - Từ bay (1): (chim bay: hoạt động di chuyển ở trên không của loại động vật thuộc lớp lông vũ) -> động từ. - Từ bay (2): (cái bay: dụng cụ của thợ xây, gồm có một miếng thép mỏng, hình lá lắp vào cán, dùng để xây, trát, láng)-> danh từ. Trong trường hợp, nếu chúng cùng thuộc về một từ loại lớn thì bắt buộc chúng cũng sẽ thuộc về các tiểu loại khác nhau, ví dụ như: - đường (danh từ chỉ sự vật): cái bàn - đường (danh từ chỉ chất liệu): bàn công việc 4.3. Các từ đồng âm trong nhóm nếu ít nhiều có quan hệ với nhau về ý nghĩa thì có thể thuộc về một từ loại hoặc có thể khác từ loại Khi giữa các từ đồng âm vẫn còn có chút ít sự quan hệ với nhau về ý nghĩa thì có thể thuộc về một từ loại hoặc có thể khác từ loại. Trở lại ví dụ 4 từ bay trên đây là 4 từ đồng âm khác nghĩa ở mức độ thấp 91 thì sẽ thuộc về 4 trường nghĩa nhỏ hơn hay 4 trường nghĩa cụ thể hơn nhưng chúng có thể thuộc về cùng 1 loại từ loại: - Từ bay (1): (cái bay: dụng cụ của thợ xây, gồm có một miếng thép mỏng, hình lá lắp vào cán, dùng để xây, trát, láng) -> danh từ. - Từ bay (2): (cái bay: dụng cụ của họa sĩ, có hình dạng như một con dao mỏng, hình lá trúc, dùng để trát hoặc cạo những lớp sơn dầu khi vẽ) -> danh từ. - Từ bay (3): (cái bay: dụng cụ của thợ làm tượng, có thể bằng gỗ hoặc bằng kim loại, có hình dạng là thân tròn, hai đầu dẹt, mỏng và vát, dùng để gọt, miết, khoét, vạt khi nặn tượng hay tạt tượng) -> danh từ. - Từ bay (4): (cái bay: dụng cụ của thợ khảm, có hình dạng như một con dao mỏng, hình tam giác, dùng để đục hoặc cạo những lớp gỗ trước khi bôi keo gắn ốc hoặc xà cừ) -> danh từ. Hoặc một ví dụ về các từ đồng âm vẫn còn có chút ít sự quan hệ với nhau về ý nghĩa thì có thể khác từ loại như: + Từ bay (1): (chim bay -> có các nét nghĩa gốc như sau: hoạt động di chuyển ở trên không của loại động vật thuộc lớp lông vũ; theo cảm nhận chủ quan của con người là loài chim bay thường có tốc độ nhanh) -> động từ. + Từ bay (2): (áo bay màu; nước hoa đã bay mùi -> dựa vào nét nghĩa gốc của bay (1): có tốc độ nhanh, ta có từ đồng âm bay (2) với nét nghĩa chuyển: phai mất, bạc màu) -> tính từ. + Từ bay (3): (nước hoa đã bay mùi; nốt ruồi tự dưng bay mất → dựa vào nét nghĩa gốc của bay (1): có tốc độ nhanh, ta có từ đồng âm bay (3) với nét nghĩa chuyển: phai mất, biến mất) → động từ. + Từ bay (4): (chối bay; cãi bay; gánh bay ngay → dựa vào nét nghĩa gốc của bay (1): có tốc độ nhanh, ta có từ đồng âm bay (4) với nét nghĩa chuyển: biểu thị hành động diễn ra rất nhanh và dễ dàng) → phụ từ (dùng phụ sau động từ). 92 4.4. Các từ đồng âm trong nhóm nếu ít nhiều có quan hệ với nhau về ý nghĩa thì phải thuộc về hiện tượng chuyển loại của từ Trong giáo trình này, khi trình bày về vấn đề phương thức cấu tạo từ tiếng Việt, chúng tôi đã nói về phương thức cấu tạo từ ở mặt ngữ pháp bằng sự chuyển loại của từ. Như vậy, một trong những cách có được các từ đồng âm tiếng Việt chính là nhờ phương thức chuyển loại của từ. Bởi vì, ở cấp độ ngữ pháp, biến thể ngữ pháp của từ tiếng Việt chủ yếu là biểu hiện ở vấn đề chuyển loại từ. Hiện tượng chuyển loại từ là sự chuyển hóa từ ở một phạm trù từ loại này sang một phạm trù từ loại khác kết hợp với điều kiện ngữ nghĩa trong ngữ cảnh. Lí do, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập, phân tiết tính, không biến hình nên từ tiếng Việt không có hình thức đánh dấu sự chuyển loại từ. Đặc điểm ngữ pháp của sự chuyển loại từ bắt buộc phải dựa vào khả năng kết hợp và chức vụ ngữ pháp của từ trong văn cảnh. Phương thức này được thực hiện để tạo nên từ đồng âm là do khi từ có sự chuyển loại thì ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp, chức vụ cú pháp và ý nghĩa từ vựng của từ cũng thay đổi theo. Có thể thấy ở tiếng Việt, hiện tượng chuyển loại cũng rất phổ biến theo cơ chế sau đây: Những từ tiếng Việt có thể được chuyển từ từ loại này sang từ loại khác thường không có sự thay đổi gì về hình thức ngữ âm mà chỉ là thay đổi những đặc điểm nội dung trong ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp và hoạt động ngữ pháp của chúng. Nói rõ hơn, cơ chế chuyển loại của phương thức cấu tạo từ mang 5 đặc điểm chính như sau: Một là các từ khi chuyển loại vẫn giữ nguyên vỏ âm thanh của từ khi chưa chuyển loại hay gọi là từ xuất phát. Đồng thời, nó sẽ mang ý nghĩa mới và ý nghĩa mới này thường phải có mối quan hệ nhất định với nghĩa của từ xuất phát. 93 Song song với hai đặc điểm trên, từ chuyển loại còn mang những đặc trưng ngữ pháp mới. So với từ xuất phát, từ mới sau khi được chuyển loại đã mang ý nghĩa mới, đặc trưng ngữ pháp mới nhưng vẫn nằm trong hệ thống với từ xuất phát, nghĩa là chúng vẫn có mối quan hệ với nhau chứ không phải hoàn toàn tách biệt. Chính vì lí do này mà những từ đồng âm có được từ phương thức chuyển loại từ thường ít nhiều có quan hệ với nhau về ý nghĩa. Ví dụ như: (Cái cuốc này sắc quá!) (danh từ) (1) sẽ khác với (2) (Nó đang cuốc đất.) (động từ). Hoặc một ví dụ khác: kiến bò (động từ) trên lưng bò (danh từ)... Ở các ví dụ này, hình thức ngữ âm của các từ không thay đổi, nhưng rõ ràng ý nghĩa ngữ pháp khái quát (sự vật, hiện tượng, hoạt động, tính chất…) và các đặc điểm trong hoạt động ngữ pháp của từ (danh từ thường có thể sử dụng đối với từ chỉ loại, chỉ số, chỉ định; động từ thường chỉ hoạt động thì có thể có bổ ngữ chỉ đối tượng của hoạt động; tính từ thì có thể sử dụng với từ chỉ mức độ …) đã thay đổi. Cho nên, chúng là những từ đồng âm ít nhiều có quan hệ với nhau về ý nghĩa. 4.5. Ý nghĩa của tiếng vị mới của từ đồng âm mới phải biến đổi hoàn toàn Điều kiện tiếp theo là ý nghĩa của tiếng vị mới phải biến đổi hoàn toàn. Nói cách khác, ban đầu, nó xuất phát từ hệ thống các nét nghĩa của tiếng vị trong một từ đa nghĩa. Sau đó, một trong các ý nghĩa vốn có của từ đa nghĩa ban đầu đã được phát triển xa hơn và tách ra khỏi hoàn toàn với các ý nghĩa còn lại, thậm chí, nó không còn có mối quan hệ về nghĩa nữa. Kết quả là sẽ xuất hiện từ đồng âm. 4.6. Các từ đồng âm trong nhóm nếu ít nhiều có quan hệ với nhau về ý nghĩa thì phải thuộc về từ đa nghĩa cùng từ loại nào đó Sở dĩ chúng ta khẳng định rằng như vậy là bởi các lí do sau đây: 94 Từ đồng âm và từ đa nghĩa đều là quan hệ với tính đẳng danh: cùng một vỏ ngữ âm liên hệ với nhiều ý nghĩa khác nhau. Ta cần phân biệt rõ ràng hai hiện tượng này. Truyền thống ngôn ngữ học trước đây cho rằng các từ khác nhau về nguồn gốc, giống nhau về ngữ âm là các từ đồng âm, còn các từ giống nhau cả về nguồn gốc lẫn ngữ âm là các từ đa nghĩa. Cách phân biệt này đòi hỏi phải hiểu rõ từ nguyên của các từ mà điều này không phải bao giờ cũng thực hiện được. Gần đây, các nhà ngôn ngữ học quan niệm từ đồng âm không những bao gồm các từ khác nhau về nguồn gốc, trùng nhau ngẫu nhiên về ngữ âm mà còn bao gồm cả các trường hợp khi các ý nghĩa khác nhau của từ đa nghĩa bị phân hóa xa đến mức độ chúng ta không thể nào nhận ra được mối quan hệ giữa chúng. Từ đó, chúng đã là hai từ đồng âm độc lập. Sự phân biệt chủ yếu giữa từ đồng âm và từ đa nghĩa là ở chỗ: các ý nghĩa của những từ đồng âm hoặc cấu trúc ý nghĩa của những từ đồng âm là hoàn toàn khác nhau, giữa chúng không hề có mối quan hệ nào hay liên hệ nào. Còn những ý nghĩa khác nhau trong cấu trúc ý nghĩa của một từ đa nghĩa luôn luôn có sự quan hệ, sự quy định lẫn nhau. Nói cách khác, ý nghĩa này được phái sinh từ ý nghĩa kia hoặc ý nghĩa gốc của từ đa nghĩa. Ví dụ như trong tiếng Việt, ta có cầu 1 (quán ở giữa đồng hay giữa đường cái để người qua lại nghỉ chân); cầu 2 (công trình bắc qua mặt nước hay một nơi đất trũng để tiện việc qua lại); cầu 3 (công trình xây dựng ở các bến, nhô ra xa bờ để cho tàu cập bến); cầu 4 (mong mỏi). Rõ ràng, những ý nghĩa của bốn từ trên đây không hề có liên quan gì với nhau. Vì vậy, chúng là những từ đồng âm. Cho nên, các điều kiện trước đã kéo theo điều kiện tiếp theo là hễ từ đồng âm thuộc về một nhóm nếu ít nhiều có quan hệ với nhau ở mức độ thấp về ý nghĩa thì có thể sẽ phải thuộc về từ đa nghĩa nào đó. Nói rõ hơn, giữa các từ đồng âm loại này có chung một nét nghĩa đồng nhất cơ sở nào đó. Nói như vậy để chúng ta có thể thấy rõ vai trò quan 95 trọng nhất của quan hệ đồng nhất trong các hiện tượng ngữ nghĩa, kể cả các từ đồng âm ít nhiều có quan hệ với nhau về ý nghĩa. Ở chương trước, chúng tôi đã từng chứng minh từ đa nghĩa chính là hệ thống các từ đồng âm cùng nghĩa ở mức độ thấp. Trong một số trường hợp, từ đa nghĩa với một hệ thống các nét nghĩa có liên quan với nhau, hay giống nhau ở một nghĩa vị gốc nào đó. Sau đó, trong quá trình chuyển nghĩa, một số nét nghĩa phái sinh phát triển quá xa so với nghĩa gốc ban đầu và đã trở thành từ đồng âm. Như vậy, từ đồng âm khác với từ đa nghĩa ở chỗ: từ đa nghĩa là những từ đồng âm, cùng nghĩa ở mức độ thấp. Còn từ đồng âm là những từ đồng âm, khác nghĩa ở mức độ cao. Ví dụ từ đa nghĩa mũ là hai từ đồng âm, cùng nghĩa ở mức độ thấp sau đây: mũ (1): (cái mũ đội đầu: khi sử dụng, nó nằm ở vị trí cao nhất); mũ (2): (mũ lũy thừa: khi sử dụng trong kí hiệu toán học, nó cũng nằm ở vị trí cao nhất bên góc phải của chữ số). Nhưng mũ (2) trong mũ lũy thừa trở thành từ đồng âm bởi vì nó chứa đựng nét nghĩa: (chỉ số lũy thừa trong toán học), khác nhau hoàn toàn với mũ (1) trong cái mũ đội đầu sẽ chứa đựng nét nghĩa: (vật dụng dùng để che mưa nắng hay làm đồ trang sức). Hoặc ví dụ khác về từ đồng âm trong nhóm nếu ít nhiều có quan hệ với nhau về ý nghĩa thì hoặc phải thuộc về từ đa nghĩa cùng một từ loại nào đó. Đó là 4 từ bay sau đây là 4 từ đồng âm khác nghĩa ở mức độ thấp cùng thuộc về từ đa nghĩa bay: + Từ bay (1): (chim bay -> có các nét nghĩa gốc như sau: hoạt động di chuyển ở trên không của loại động vật thuộc lớp lông vũ; theo cảm nhận chủ quan của con người là loài chim bay thường có tốc độ nhanh). + Từ bay (2): (áo bay màu; nước hoa đã bay mùi; nốt ruồi tự dưng bay mất -> dựa vào nét nghĩa gốc của bay (1): có tốc độ nhanh, ta có từ đồng âm bay (2) với nét nghĩa chuyển: phai mất, biến mất). + Từ bay (3): (nước hoa đã bay mùi; nốt ruồi tự dưng bay mất -> dựa vào nét nghĩa gốc của bay (1): có tốc độ nhanh, ta có từ đồng âm bay (3) với nét nghĩa chuyển: phai mất, biến mất). 96 + Từ bay (4): (chối bay; cãi bay; gánh bay -> dựa vào nét nghĩa gốc của bay (1): có tốc độ nhanh, ta có từ đồng âm bay (4) với nét nghĩa chuyển: biểu thị hành động diễn ra rất nhanh và dễ dàng). 4.7. Các từ đồng âm cũng dựa vào phương thức tư duy ẩn dụ Từ đồng âm muốn được tạo nên hay được hiểu thì bắt buộc cũng phải dựa trên sự biến đổi ý nghĩa của từ trong hệ thống và trong văn cảnh. Mà mọi sự biến đổi ý nghĩa của từ bắt buộc đều phải dựa trên phép ẩn dụ. Như vậy, muốn tạo lập hay xác định được các từ đồng âm thì cũng đều là sử dụng phương thức tư duy ẩn dụ. Con đường chuyển nghĩa bằng phép ẩn dụ hiểu theo nghĩa mở rộng đã tạo thành các từ đồng âm. Bởi vì, từ đồng âm cũng phải có phần dựa theo sự biến đổi ý nghĩa của từ. Con đường chuyển nghĩa bằng phép ẩn dụ hiểu theo nghĩa mở rộng đã tạo thành các từ đa nghĩa, cũng như các từ đồng âm. Bởi vì như trên đã nói, các nét nghĩa trong cấu trúc từ đa nghĩa có mối quan hệ với nghĩa gốc ban đầu của từ đa nghĩa. Nếu như các nét nghĩa này theo quy luật thời gian, với sự quá cách xa hoặc không còn mối quan hệ hoặc không có tính lí do với nghĩa gốc ban đầu nữa hoặc do tính chất ngẫu nhiên thì nó sẽ là từ đồng âm. Ví dụ như trong tiếng Việt: cầu 1 (quán ở giữa đồng hay giữa đường cái để người qua lại nghỉ chân); cầu 2 (công trình bắc qua mặt nước hay một nơi đất trũng để tiện việc qua lại); cầu 3 (công trình xây dựng ở các bến, nhô ra xa bờ để cho tàu cập bến); cầu 4 (mong mỏi). Rõ ràng, những ý nghĩa của 4 từ trên đây không hề có liên quan gì với nhau. Vì vậy, chúng là những từ đồng âm. V. CƠ SỞ ĐỂ NHẬN BIẾT TỪ ĐỒNG TỰ/ ĐỒNG ÂM / GẦN ÂM TỪ VỰNG Để nhận biết từ đồng âm, chúng ta dựa vào cơ sở quan trọng nhất là ngữ cảnh. Ngữ cảnh có chức năng hiện thực hóa giá trị của các từ đồng âm và giúp cho người sử dụng ngôn ngữ tránh nhầm lẫn. 97 Một cách khác để nhận biết từ đồng âm là dựa vào ý nghĩa của từ. Nếu như ta không thể xác lập được mối liên hệ giữa nó với các nghĩa của một hoặc nhiều từ có vỏ ngữ âm giống nhau thì chúng ta coi đó là từ đồng âm. VI. PHƯƠNG THỨC TẠO TỪ ĐỒNG TỰ/ĐỒNG ÂM/GẦN ÂM TỪ VỰNG Đây là một phương thức cấu tạo từ tồn tại trong tiếng Việt. Từ đồng âm/ gần âm từ vựng được tạo nên chủ yếu bằng phương thức đồng âm khác nghĩa chuyển theo hướng ít nghĩa hơn và mang tính độc lập hơn. Nói cách khác, phương thức cấu tạo từ bằng phương thức đồng âm khác nghĩa chuyển theo hướng ít nghĩa hơn và mang tính độc lập hơn sẽ tạo nên hệ thống từ đồng âm. Phương thức cấu tạo từ này sẽ được thực hiện bằng cách: giữ nguyên hình thức âm thanh hay vỏ ngữ âm của tiếng vị và chuyển sang biểu đạt một nét nghĩa khác. Nét nghĩa mới này không còn quan hệ với nghĩa gốc của tiếng vị cũ để tạo nên từ đồng âm. Chẳng hạn như: tiếng vị đầu trải qua phương thức cấu tạo từ đồng âm khác nghĩa chuyển theo hướng ít nghĩa hơn và mang tính độc lập hơn tạo nên tiếng vị đầu trong các từ đồng âm đầu người, đầu đơn, đầu độc, đầu đinh... Tuy nhiên, phương thức này còn phải cần chú ý đến mức độ của sự chuyển đổi. Nếu sự chuyển đổi, sự phát triển về ý nghĩa chưa thật sự đi quá xa mà chúng ta vẫn tìm thấy một mối liên hệ nào đó về nội dung ý nghĩa thì vẫn chưa thể coi đó là các từ khác nhau, mà đây mới chỉ là sự khác nhau của các nghĩa trong cùng một từ: đó là từ đa nghĩa. Chỉ khi nào ý nghĩa đã đi quá xa, không còn tìm thấy mối liên quan nào nữa thì mới có thể khẳng định đích thực là có các từ đồng âm. VII. PHÂN LOẠI TỪ ĐỒNG ÂM / GẦN ÂM TỪ VỰNG Chúng tôi cũng vận dụng từ nhiều tiêu chí khác nhau, với nhiều góc độ khác nhau để phân loại từ đồng âm. Đó là các tiêu chí sau đây: 98
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan