VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THÙY DUNG
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN HÀNH CHÍNH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 9.38.01.02
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI,
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Hương
Phản biện 1: GS.TS. Phạm Hồng Thái
Phản biện 2: PGS.TS. Đinh Xuân Thảo
Phản biện 3: TS. Nguyễn Văn Thuận
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ
cấp Học viện tại Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội Việt Nam.
Vào hồi:
giờ
ngày
tháng
năm 2020
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Biện pháp ngăn chặn (BPNC) hành chính là nhóm các biện pháp do
chủ thể có thẩm quyền áp dụng nhằm làm chấm dứt vi phạm pháp luật,
ngăn chặn hậu quả, thiệt hại và bảo đảm việc xử lý VPHC đúng pháp luật.
Việc áp dụng các BPNC hành chính sẽ hạn chế một số quyền và tự do cá
nhân được Hiến pháp, pháp luật ghi nhận. Trong trường hợp áp dụng BPNC
hành chính không đúng người, đúng việc sẽ làm ảnh hưởng đến quyền con
người của đối tượng bị áp dụng, đồng thời làm giảm uy tín của cơ quan nhà
nước và giảm sút lòng tin của nhân dân vào chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước. Mặt khác, biện pháp này còn là phương tiện
pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Ngoài ra, để thi hành
được các BPNC hành chính, nhà nước phải bỏ ra những chi phí không nhỏ
cho bộ máy này hoạt động … Chính vì vậy, các BPNC hành chính và việc thi
hành chúng luôn gắn liền với pháp luật, xã hội, kinh tế mà nhà nước, tổ chức
và cá nhân đều đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, trong khoa học luật hành chính
hiện nay, BPNC hành chính vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách
thỏa đáng đối với tầm quan trọng của nó. Đồng thời, các quy định của pháp
luật hiện hành về BPNC hành chính còn thể hiện nhiều bất cập; việc áp dụng
BPNC hành chính trên thực tế lại luôn chứa đựng nguy cơ xâm hại đến quyền
con người, quyền công dân từ phía các chủ thể có thẩm quyền.
Từ tất cả những điều trên, đồng thời để đáp ứng những yêu cầu của
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong
đó trọng tâm là cải cách nền hành chính, cần thiết nghiên cứu chuyên sâu, đầy
đủ, hệ thống về BPNC hành chính Chính vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài
“Biện pháp ngăn chặn hành chính theo pháp luật Việt Nam” làm luận án tiến
sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải cơ sở khoa học để đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng BPNC hành chính ở Việt Nam
1
hiện nay trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về BPNC hành chính và
đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn hoạt động áp dụng các BPNC hành
chính. Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án tập trung giải
quyết các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, khái quát, đánh giá các công trình khoa
học về BPNC hành chính, từ đó xác định các vấn đề cần được làm rõ về
mặt lý thuyết liên quan đến BPNC hành chính. Thứ hai, phân tích sự phát
triển pháp luật về các BPNC hành chính qua các thời kỳ, từ đó chỉ ra tính quy
luật của sự phát triển và tính kế thừa; đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về
BPNC hành chính cũng như việc áp dụng các BPNC hành chính trong thực
tiễn, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế; nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế. Thứ ba,
xác định rõ các nhu cầu và quan điểm hoàn thiện pháp luật về BPNC hành
chính trong bối cảnh hiện nay; từ đó đưa ra các khuyến nghị, giải pháp hoàn
thiện pháp luật về BPNC hành chính và một số biện pháp bảo đảm cho việc
áp dụng các BPNC hành chính.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác
định là những vấn đề lý luận và thực tiễn về BPNC hành chính ở Việt Nam
trên cả phương diện pháp luật thực định và tổ chức thực hiện pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi về nội dung: Do tính chất phức tạp cũng
như tính cưỡng chế đặc biệt của hoạt động xử lý hành chính mà trong khuôn
khổ của luận án không thể phân tích hết tất cả các biện pháp ngăn chặn hành
chính nhằm bảo đảm mục đích này, theo đó, nội dung luận án chỉ tập trung
nghiên cứu và đánh giá các biện pháp ngăn chặn nhằm bảo đảm cho hoạt động
xử phạt vi phạm hành chính. Phạm vi về không gian: Luận án triển khai nghiên
cứu đánh giá trên phạm vi cả nước. Phạm vi về thời gian: Đề tài nghiên cứu nội
dung về biện pháp ngăn chặn hành chính từ năm 2013 đến nay (từ khi Luật Xử
lý VPHC 2012 có hiệu lực).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác- Lê Nin, luận án còn dựa trên các cơ
sở lý luận sau khi nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến BPNC hành chính:
2
Lý luận về quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước; lý luận về
cưỡng chế nhà nước; Lý luận về quyền con người, quyền công dân tiếp cận
dưới góc độ xã hội học, luật học; Lý luận về bản chất, vai trò và giá trị của
pháp luật trong thời kì mới.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là các phương pháp nghiên cứu
cơ bản của khoa học pháp lý như: Phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp,
phương pháp hệ thống, dự báo, giải thích, diễn dịch, tiếp cận đa ngành và
liên ngành luật học.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án tổng quan, phân tích các quan điểm đã và đang
tồn tại về BPNC hành chính, trên cơ sở đó, xây dựng khái niệm BPNC hành
chính, đồng thời chỉ ra các đặc điểm, vai trò cũng như phân loại các BPNC
hành chính và các bảo đảm thực hiện BPNC hành chính. Thứ hai, trên cơ sở
phân tích một cách toàn diện về thực trạng quy định pháp luật hiện hành và
thực trạng áp dụng pháp luật về BPNC hành chính, luận án chỉ ra những tồn
tại, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó, để từ đó đánh giá thực
trạng thực hiện pháp luật về các BPNC hành chính. Thứ ba, từ việc xác
định nhu cầu hoàn thiện pháp luật BPNC hành chính, luận án đã đưa ra hệ
thống các quan điểm và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về BPNC
hành chính cũng như những quan điểm, giải pháp bảo đảm cho việc áp
dụng BPNC hành chính.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận: góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về
ngăn chặn hành chính cũng như góp phần hoàn thiện pháp luật về BPNC hành
chính. Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy, học tập
tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật. Về mặt thực tiễn: có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu áp
dụng hoàn thiện pháp luật, vào hoạt động xử lý các VPHC.
7. Kết cấu của luận án
3
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chương 2. Những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn hành chính
Chương 3. Thực trạng biện pháp ngăn chặn hành chính ở Việt Nam
Chương 4. Hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng biện pháp ngăn chặn
hành chính ở Việt Nam hiện nay.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨULIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
1.1.1. Các nghiên cứu về lý luận biện pháp ngăn chặn hành chính
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về bản chất, khái niệm, đặc
điểm của BPNC hành chính: Sách chuyên khảo “Chế tài hành chính: Lý
luận và thực tiễn”, Hà Nội, 1996 do PGS.TS Vũ Thư chủ biên; `Giáo trình
Luật hành chính Việt Nam của PGS TS Nguyễn Cửu Việt, 2010; Giáo trình
Luật hành chính Việt Nam” NXB Đại học quốc gia Hà Nôi, do GS.TS
Phạm Hồng Thái chủ biên; Luận án tiến sĩ Luật học, “Cưỡng chế hành
chính: Lý luận và thực tiễn”, Học viện Khoa học xã hội 2015 của tác giả
Trần Thị Lâm Thi; “Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật Việt
Nam”, 2017 của tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc
Thứ hai, về phân loại BPNC hành chính: Nhóm công trình nghiên
cứu như: Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2010 chia BPNC hành chính ra làm 3 nhóm: (1) các BPNC hành chính
nhằm đình chỉ vi phạm pháp luật; (2) các BPNC hành chính nhằm bảo đảm
việc xử phạt VPHC; (3) các biện pháp ngăn ngừa những hậu quả thiệt hại do
vi phạm gây ra; Trong giáo trình luật hành chính của Nga: Pháp luật hành
chính xô viết, Nxb Matxcơva, 1981. L.P. Iuzkov; ngăn chặn hành chính được
xếp trong các biện pháp cưỡng chế hành chính với 4 nhóm cơ bản là: Phòng
ngừa hành chính, ngăn chặn hành chính, xử phạt VPHC và các biện pháp hỗ
trợ tố tụng hành chính
4
1.1.2. Các nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng biện
pháp ngăn chặn hành chính
Thứ nhất, các nghiên cứu về thực trạng quy định pháp luật về BPNC hành
chính: Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb Công an nhân nhân, 2013; Sách chuyên khảo “Bình luận khoa học
Luật xử lý VPHC 2012” (tập 2), Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, 2015 do Nguyễn Cảnh Hợp chủ biên; Sách Pháp luật hành chính
của Cộng hòa Pháp của tác giả Martine Lombard và Gilles Dumont, Nhà
xuất bản tư pháp, 2007; các bài viết: “ Hoàn thiện pháp luật về các biện
pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và vảo đảm việc xử lý vi phạm hành
chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 20/2011 của tác giả Trương Thị
Phương Lan; Bài viết “Vấn đề bảo đảm quyền công dân trong pháp luật về
tạm giữ người theo thủ tục hành chính” Tạp chí Luật học số 4/2011 của
PGS.TS Bùi Thị Đào; Bài viết “Luật xử lý vi phạm hành chính với việc bảo
đảm quyền, lợi ích của công dân” Tạp chí Luật học số 5/2014 của PGS.TS
Lê Vương Long; bài viết “Hoàn thiện các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm
xử lý vi phạm hành chính trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012
theo tinh thần công ước của liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình
thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người”
của TS. Cao Vũ Minh
Thứ hai, các nghiên cứu về thực tiễn áp dụng BPNC hành chính: Các
công trình nghiên cứu về thực tiễn áp dụng BPNC hành chính không nhiều.
Bài viết “Về căn cứ pháp lý của biện pháp tạm giữ phương tiện giao thông”
tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2007 của tác giả Nguyễn Hoài Nam;
những đánh giá về tình trạng áp dụng BPNC hành chính trong Luận án tiến
sĩ “Cưỡng chế hành chính: Lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Thị Lâm
Thi; Sách chuyên khảo“ Hình thức xử phạt trục xuất trong pháp luật Việt
Nam”, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2018 của TS. Cao Vũ Minh.
1.1.3. Các nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về
biện pháp ngăn chặn hành chính
5
Các bài viết như: “Comments and recommendations on bill on
handling of administrative violations of Vietnam” (Nhận xét và kiến nghị về
dự luật xử lý VPHC ở Việt Nam) United Nations, Workshop agenda to get
feedback on regulations on administrative handling measures in bill on
handling of administrative violations, 8/2011; “Vấn đề bảo đảm quyền công
dân trong pháp luật về tạm giữ người theo thủ tục hành chính” Tạp chí Luật
học số 4/2011 của PGS.TS Bùi Thị Đào; bài viết “Hoàn thiện các BPNC và
bảo đảm xử lý VPHC trong Luật xử lý VPHC năm 2012 theo tinh thần công
ước của liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người” của TS. Cao Vũ Minh;
Sách “ Bình luận khoa học Luật xử lý VPHC 2012” (tập 2), Nguyễn Cảnh
Hợp (chủ biên), Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2015 cũng
đưa ra các kiến nghị hoàn thiện cho các quy định liên quan đến từng BPNC
hành chính cụ thể.
1.2. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.2.1. Những kết quả nghiên cứu được luận án kế thừa
Về phương diện lý luận: Các nghiên cứu đã làm rõ được mối quan
hệ giữa cưỡng chế hành chính và ngăn chặn hành chính; Một số công trình
nghiên cứu đã chỉ ra một vài đặc điểm của biện pháp ngăn chặn hành chính.
Đồng thời, các nhà nghiên cứu đã tiến hành phân loại các BPNC hành chính
trên cơ sở mục đích áp dụng. Về thực trạng pháp luật về ngăn chặn hành
chính: Các nghiên cứu được thực hiện đã đánh giá một cách cơ bản các quy
định của pháp luật trước đây, pháp luật hiện hành về các BPNC hành chính.
Trên cơ sở đó, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra những bất cập trong các quy
định của pháp luật cũng như những vướng mắc trong quá trình áp dụng các
BPNC hành chính. Về giải pháp hoàn thiện pháp luật về ngăn chặn hành chính:
Các kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về từng BPNC
hành chính: cách thức thực hiện, thủ tục và thẩm quyền áp dụng. Trong đó đáng
chú ý là kiến nghị bổ sung các biện pháp cưỡng chế ngăn chặn hành chính. Đồng
thời, các công trình còn chỉ ra các kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện các BPNC
hành chính như: hoạt động tập huấn, phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng hệ
6
thống văn bản hướng dẫn thi hành; công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra; huy
động các nguồn lực về tài chính, nhân lực, chế độ, chính sách, cơ sở vật chất…
1.2.2. Những vấn đề đặt ra mà luận án cần giải quyết
Về mặt lý luận: đưa ra quan niệm về BPNC hành chính, đồng thời
làm rõ bản chất của BPNC hành chính; phát triển thêm một bước để làm rõ,
sâu sắc và toàn diện những đặc trưng của nhóm biện pháp này. Đồng thời,
trên cơ sở kế thừa cách phân loại theo mục đích áp dụng, luận án cần thiết
nhận thức rõ và sâu hơn về mỗi nhóm ngăn chặn hành chính và sự khác biệt
giữa các nhóm BPNC hành chính; làm rõ vai trò của nhóm BPNC hành
chính trong xu hướng xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay; Phân tích
vấn đề có liên quan, ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân trong
quá trình thực hiện BPNC hành chính gồm: các nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục
thực hiện BPNC hành chính cũng như thực tiễn thi hành các biện pháp này trên
thực tế; nghiên cứu các yếu tố tác động bảo đảm áp dụng pháp luật về ngăn chặn
hành chính. Về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn
hành chính: cần thiết làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về BPNC hành
chính, đồng thời chỉ ra các số liệu trên thực tế phản ánh những ưu điểm cũng như
bất cập hiện hành trong quy định về BPNC hành chính. Từ đó, đưa ra những
nhận xét toàn diện, sâu sắc hơn về hoạt động áp dụng pháp luật nhóm biện pháp
này trên thực tế. Về giải pháp hoàn thiện pháp luật về biện pháp ngăn chặn hành
chính: đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BPNC hành
chính. Bên cạnh đó, khuyến nghị các giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật về
BPNC hành chính vừa đảm bảo lợi ích trật tự xã hội, lợi ích hoạt động quản lý
hành chính nhà nước vừa đảm bảo quyền con người, quyền công dân.
1.3. Giả thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu
1.3.1. Giả thuyết nghiên cứu
Biện pháp ngăn chặn hành chính theo pháp luật Việt Nam đã được
định hình nhưng vẫn còn những khoảng trống và thiếu khả năng hiện thực
hóa. Trước sự biến đổi của đời sống xã hội và yêu cầu cải cách hành chính
cũng như bảo đảm tính pháp quyền, các BPNC hành chính đang bộc lộ rõ
những bất cập, hạn chế trên cả phương diện nhận thức và thực tiễn quy định
7
cũng như thực hiện. Yêu cầu nhận thức đầy đủ và bảo đảm thực hiện các
BPNC hành chính đang đặt ra một cách cấp bách, là một trong những yếu tố
quyết định trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật Việt Nam, góp
phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước ở Việt
Nam hiện nay.
1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu
(1) Các BPNC hành chính? Vai trò của BPNC hành chính? Các
bảo đảm thực hiện BPNC hành chính là gì? (2) Thực trạng quy định pháp
luật về BPNC hành chính cũng như thực tiễn áp dụng các BPNC hành chính
ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Có ưu điểm, hạn chế gì? Và nguyên
nhân của ưu điểm, hạn chế đó? (3)Việc tiếp tục hoàn thiện quy định pháp
luật về BPNC hành chính và bảo đảm áp dụng các BPNC hành chính ở Việt
Nam cần dựa trên cơ sở quan điểm nào? Có những giải pháp nào để tiếp tục
hoàn thiện quy định pháp luật về BPNC hành chính và bảo đảm áp dụng các
BPNC hành chính ở Việt Nam hiện nay?
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN HÀNH CHÍNH
2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của biện pháp ngăn chặn hành chính
2.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn hành chính
Biện pháp ngăn chặn hành chính là biện pháp cưỡng chế nhà nước
do chủ thể có thẩm quyền được pháp luật hành chính quy định tác động lên cá
nhân, tổ chức khi có căn cứ áp dụng nhằm làm chấm dứt hành vi VPPL, ngăn
ngừa hậu quả do VPHC gây ra và bảo đảm cho việc xử lý VPHC
2.1.2. Đặc điểm của biện pháp ngăn chặn hành chính
Một là, BPNC hành chính là biện pháp cưỡng chế được áp dụng trong
lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước; Hai là, mục đích của BPNC hành chính là
nhằm làm chấm dứt kịp thời hành vi VPPL, ngăn ngừa hậu quả do vi phạm gây
ra và bảo đảm cho việc xử lý VPHC đạt hiệu quả; Ba là, chủ thể có thẩm quyền
áp dụng BPNC hành chính chỉ có thể là các cá nhân có thẩm quyền trong các cơ
quan nhà nước theo quy định của pháp luật; Bốn là, phạm vi các quan hệ xã hội
8
được bảo vệ bởi các BPNC hành chính rộng và phong phú; Năm là, căn cứ để áp
dụng BPNC hành chính là các thông tin có đầy đủ cơ sở về việc thực hiện hành
vi vi phạm của chủ thể; Sáu là, các BPNC hành chính có thủ tục áp dụng mang
đặc điểm riêng.
2.1.3. Vai trò của biện pháp ngăn chặn hành chính
Thứ nhất, ngăn chặn hành chính là một trong biện pháp thực thi quyền lực
nhà nước, thể hiện ý chí của nhà nước trong công cuộc đấu tranh với vi phạm pháp
luật bằng sức mạnh cưỡng chế. Thứ hai, ngăn chặn hành chính là biện pháp bổ trợ
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước, bảo đảm trật tự
quản lý hành chính nhà nước. Thứ ba, ngăn chặn hành chính là phương tiện để bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; đồng thời có vai trò to lớn
trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thứ tư, ngăn chặn
hành chính là biện pháp có tính cách thủ tục nhằm bảo đảm cho hoạt động xử phạt
VPHC. Thứ năm, ngăn chặn hành chính có vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý
thức pháp luật, ngăn chặn, hạn chế khả năng gây tổn hại tới lợi ích của xã hội, nhà
nước, cá nhân, tổ chức, qua đó củng cố trật tự xã hội.
2.2. Phân loại biện pháp ngăn chặn hành chính
2.2.1. Nhóm biện pháp ngăn chặn nhằm làm chấm dứt vi phạm pháp luật
hoặc ngăn ngừa hậu quả, thiệt hại do vi phạm pháp luật gây ra.
Tính cưỡng chế của nhóm biện pháp này thể hiện ở chỗ: Nhà nước tác
động lên đối tượng bằng yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm đang diễn ra, trong
nhiều trường hợp có thể dùng vũ lực, vũ khí để làm chấm dứt vi phạm trên thực tế.
2.2.2. Nhóm biện pháp ngăn chặn nhằm bảo đảm xử phạt vi phạm hành
chính.
Tính cưỡng chế của nhóm biện pháp này thể hiện ở chỗ: nhóm BPNC
này tác động lên đối tượng có hành vi vi phạm nhằm buộc họ phải thực hiện
đúng theo yêu cầu, ý chí của nhà nước, như: buộc không được tự do đi lại trong
một thời gian nhất định, buộc ở trong một khuôn viên nhất định hoặc tác động
lên đối tượng có dấu hiệu của hành vi vi phạm bằng hoạt động kiểm tra nhằm
phát hiện thông tin làm chứng cứ cho hành vi vi phạm.
9
2.2.3. Nhóm biện pháp ngăn chặn hỗn hợp. Nhóm BPNC này được đặt ra
đối với các BPNC có các mục đích khác nhau, cụ thể như: BPNC vừa có
mục đích làm chấm dứt VPHC đồng thời vừa nhằm bảo đảm cho hoạt động
xử lý vi phạm; hoặc có BPNC hành chính có cả ba mục đích: làm chấm dứt
vi phạm đang xảy ra, ngăn ngừa hậu quả của vi phạm đối với xã hội và
nhằm đảm bảo thi hành quyết định xử phạt.
2.3. Sự điều chỉnh của pháp luật về biện pháp ngăn chặn hành chính
2.3.1. Nguyên tắc áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính
Việc định ra các nguyên tắc áp dụng các BPNC hành chính cần
xuất phát từ các lí do sau: Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của ngăn chặn
hành chính là nhóm biện pháp cưỡng chế hành chính và tính độc quyền
cưỡng chế của nhà nước. Thứ hai, xuất phát từ vấn đề “tùy nghi hành
chính”. Thứ ba, xuất phát từ bản chất Người của Nhà nước. Thứ tư, xuất
phát từ hậu quả về một xã hội bạo lực. Thứ năm, xuất phát từ nhận thức mới
về vai trò, giá trị của pháp luật. Các nguyên tắc áp dụng biện pháp ngăn
chặn hành chính gồm: Nguyên tắc pháp chế; Nguyên tắc nghiêm minh, kịp
thời; Nguyên tắc công khai, minh bạch; Nguyên tắc chỉ áp dụng các BPNC
hành chính đối với các vi phạm xảy ra trong hoạt động quản lý hành chính nhà
nước; Nguyên tắc về trách nhiệm giải trình; Nguyên tắc bảo đảm các quyền
con người, quyền công dân và các giá trị công bằng, nhân đạo trong quá
trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành chính.
2.3.2. Thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính
Thẩm quyền áp dụng BPNC hành chính được quy định cho cá nhân
cụ thể được nhà nước trao quyền. Các cá nhân có thẩm quyền áp dụng
BPNC hành chính gồm: Cấp trưởng, cấp phó hoặc một số nhân viên đang
thi hành công vụ của các cơ quan như: Cơ quan có thẩm quyền chung, lực
lượng công an nhân dân, cơ quan kiểm lâm, hải quan, biên phòng, tòa án…
Cấp trưởng được quyền áp dụng BPNC hành chính gồm: Chủ tịch UBND
cấp xã; Trưởng công an phường; Trưởng công an cấp huyện; Đội trưởng
đội quản lý thị trường; Thẩm phán chủ tọa phiên tòa… Trong những điều
kiện nhất định, thẩm quyền áp dụng BPNC hành chính có thể được giao cho
10
cấp phó thực hiện. Ngoài ra, thẩm quyền áp dụng BPNC hành chính còn
thuộc về người có thẩm quyền đang thi hành công vụ trong trường hợp cần
phải áp dụng BPNC hành chính ngay.
2.3.3. Thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính
Nhìn chung, trình tự các bước trong thủ tục áp dụng biện pháp này
được quy định trên cơ sở căn cứ, thẩm quyền, mục đích áp dụng của mỗi
BPNC hành chính cụ thể, đồng thời trải qua các giai đoạn của thủ tục hành
chính nói chung như: Khởi xướng vụ việc, xem xét và ra quyết định giải
quyết vụ việc, thi hành quyết định, khiếu nại, giải quyết khiếu nại, xem xét lại
quyết định đã ban hành.
2.4. Các bảo đảm thực hiện biện pháp ngăn chặn hành chính
2.4.1. Bảo đảm pháp lý
Luận án tập trung đi vào những yếu tố cơ bản nhất trong hệ thống
bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện ngăn chặn hành chính, đó là: (1) Thủ
tục ngăn chặn hành chính; (2) Thẩm quyền ngăn chặn hành chính; (3) Tổ
chức bộ máy và cơ chế phối hợp thực hiện ngăn chặn hành chính giữa các
cơ quan; (4) Năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, của người có thẩm
quyền trong xây dựng và thực thi pháp luật về ngăn chặn hành chính; (5)
Cơ chế giám sát, kiểm tra; (6) Trách nhiệm pháp lý và cơ chế xử lý vi phạm
trong thực hiện ngăn chặn hành chính
2.4.2. Các bảo đảm khác
Bao gồm: bảo đảm về nhận thức và bảo đảm về kinh tế, cơ sở vật chất
Chương 3
THỰC TRẠNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN HÀNH CHÍNH
Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng pháp luật về biện pháp ngăn chặn hành chính
3.1.1. Pháp luật về biện pháp ngăn chặn hành chính từ năm 1945 đến
trước khi ban hành Luật xử lý vi phạm hành chính 2012
3.1.1.1. Biện pháp ngăn chặn hành chính giai đoạn 1945-1954. Các BPNC
hành chính giai đoạn này được hình thành trong điều kiện thời chiến, công tác
11
xây dựng pháp luật còn mới mẻ. Mặt khác, nhận thức của các nhà làm luật lúc
bấy giờ về các BPNC hành chính còn rời rạc, đơn giản. Ranh giới trong áp
dụng BPNC hành chính với trừng phạt còn chưa có sự phân biệt rõ ràng.
3.1.1.2. Biện pháp ngăn chặn hành chính giai đoạn 1954-1986. Hệ thống
BPNC hành chính giai đoạn này đầy đủ, chặt chẽ và thống nhất hơn. Tuy
nhiên, pháp luật chưa có văn bản thống nhất quy định chung về các BPNC
hành chính; ranh giới giữa BPNC hành chính với BPNC hình sự cũng chưa
có sự phân biệt rõ ràng và thường được quy định trong một văn bản giống
như hệ thống ngăn chặn hành chính trước đây.
3.1.1.3. Biện pháp ngăn chặn hành chính giai đoạn từ năm 1986 đến khi
ban hành Luật Xử lý vi phạm hành chính. Sự ra đời Pháp lệnh xử phạt
VPHC ngày 7/12/1989 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hệ
thống pháp luật về BPNC hành chính, tạo tiền đề cho sự ra đời các văn bản
pháp lý quy định về các BPNC hành chính sau này. Ngày 20/6/2012 Quốc
hội đã thông qua Luật XLVPHC- đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử
các quy định về biện pháp ngăn chặn hành chính. Theo đó, các BPNC hành
chính được phân biệt với biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và được
quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ hơn
3.1.2. Pháp luật hiện hành về biện pháp ngăn chặn hành chính
3.1.2.1 Nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính
Trong bốn nguyên tắc được quy định trong Luật XLVPHC 2012 thì
nguyên tắc thứ hai được pháp luật quy định khá chung chung. Nội dung của
nguyên tắc này đặt ra nhằm mục đích ngăn ngừa tình trạng người có thẩm
quyền áp dụng một cách tùy tiện dẫn đến việc xâm phạm quyền, lợi ích chính
đáng của đối tượng VPHC. Về mặt nội dung, “trường hợp cần thiết” hay “khi
thấy không còn cần thiết” khá chung chung, khó xác định, quy định này sẽ dẫn
đến việc áp dụng tràn lan, tùy tiện, có thể vi phạm đến nguyên tắc bảo đảm
quyền con người trong hoạt động áp dụng BPNC hành chính.
Các hạn chế về mặt thủ tục, thẩm quyền ngăn chặn hành chính
được biểu hiện cụ thể theo từng biện pháp nhất định.
3.1.2.2. Tạm giữ người
12
Các quy định của pháp luật hiện hành về tạm giữ người theo thủ tục
hành chính có một số điểm hạn chế, như: quy định hiện hành đã bổ sung
các hành vi là cơ sở để tạm giữ người nhưng vẫn chưa đủ; pháp luật quy
định còn chung chung, thiếu tính cụ thể dẫn đến khó áp dụng trên thực tế;
một số nội dung khó khả thi trên thực tế; Luật không quy định trách nhiệm
của người giao quyền (cấp trưởng) khi người được giao quyền (cấp phó) vi
phạm pháp luật…
3.1.2.3. Áp giải người vi phạm
Điều luật về BPNC hành chính này vẫn còn một số hạn chế như:
Pháp luật hiện hành chưa có quy định đầy đủ về biện pháp áp giải người vi
phạm; mặc dù được liệt kê khá cụ thể, rõ ràng tại Điều 25 Nghị định:
112/2013/NĐ-CP về thẩm quyền áp giải người vi phạm nhưng sự liệt kê
này chưa thực sự đầy đủ; pháp luật quy định về thủ tục áp giải người vi
phạm chưa cụ thể, rõ ràng, đồng thời, pháp luật hiện hành chưa quy định cụ
thể trường hợp được sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ trong quá trình áp giải
người vi phạm.
3.1.2.4. Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép,
chứng chỉ hành nghề
So với Pháp lệnh XLVPHC 2002, Luật đã mở rộng phạm vi áp dụng
biện pháp tạm giữ đối với cả giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành
chính. Bên cạnh những điểm tiến bộ, điều luật vẫn còn tồn tại một số bất cập
như: Một số nội dung chưa được quy định cụ thể, rõ ràng trong điều luật; đồng
thời, các quy định của điều luật vẫn còn chỗ chưa phù phợp với thực tế.
3.1.2.5. Khám người
Trường hợp cần khám ngay thì người có thẩm quyền không cần ra
quyết định bằng văn bản nhưng sau đó phải báo cáo bằng văn bản cho thủ
trưởng của mình là một trong những người được quy định có quyền áp dụng
biện pháp tạm giữ người, Tuy nhiên, điều luật lại không quy định rõ thời
hạn để thực hiệc việc báo cáo này là bao lâu. Ngoài ra, cán bộ, chiến sỹ
thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng khi thực hiện nhiệm vụ được khám
người theo thủ tục hành chính và phải báo cáo ngay bằng văn bản cho thủ
13
trưởng của mình, tuy nhiên, thủ trưởng của những người này là Đội trưởng,
Trưởng phòng hoặc cao hơn là Chỉ huy trưởng - là những chức danh được
quy định có thẩm quyền xử phạt VPHC nhưng lại không thuộc những người
được quy định tại Khoản 1, Điều 123 của Luật XLVPHC.
3.1.2.6. Khám phương tiện vận tải, đồ vật theo thủ tục hành chính
Thẩm quyền áp dụng biện pháp này thuộc về những người có thẩm
quyền khám người. Pháp luật cũng mở rộng thẩm quyền khám phương tiện, vận
tải đồ vật trong trường hợp cấp thiết khi “cho rằng nếu không tiến hành khám
ngay thì tang vật VPHC sẽ bị tẩu tán tiêu hủy” cho những người trực tiếp thi
hành nhiệm vụ. Tuy nhiên, có thể thấy một điểm hạn chế của pháp luật hiện hành
là chưa có quy định cụ thể về thời gian khám là bựao lâu và chủ thể có thẩm
quyền có được quyền khám phương tiện vận tải, đồ vật vào ban đêm hay không.
3.1.2.7. Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
Điểm hạn chế, bất cập của điều luật này thể hiện ở chỗ: điều luật
chưa quy định cụ thể rõ ràng nơi nào được coi là nơi cất giấu tang vật,
phương tiện VPHC thuộc phạm vi của điều luật. Ngoài ra, quy định về sự
đồng ý của Chủ tịch UBND cấp huyện khi khám xét chỗ ở là khó khả thi,
trong nhiều trường hợp có thể được xem là trở ngại cho việc khám xét.
3.1.2.8. Quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời
gian làm thủ tục trục xuất
Pháp luật hiện hành thể hiện tính nhân văn trong các quy định về
quyền của người bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất trong thời gian bị
quản lý. Tuy nhiên, việc Chính phủ quy định thêm biện pháp “bắt buộc lưu
trú tại cơ sở lưu trú do Bộ công an quản lý” trong Nghị định số
112/2013/NĐ-CP ít nhiều trái với quy định của Luật XLVPHC. Ngoài ra,
một trong các điều kiện để áp dụng các biện pháp quản lý trên đối với người
nước ngoài trong thời gian làm thủ tục trục xuất là khi có căn cứ cho rằng
người đó sẽ trốn tránh hoặc cản trở việc thi hành quyết định xử phạt trục
xuất, tuy nhiên, hiện nay pháp luật chưa quy định cụ thể chủ thể nào sẽ có
thẩm quyền chứng minh căn cứ này.
Ngoài các biện pháp ngăn chặn hành chính nói trên theo quy định
pháp luật, còn một số biện pháp ngăn chặn hành chính mà Luật không quy
14
định, cụ thể như: Biện pháp buộc chấm dứt hành vi vi phạm. Việc Luật hiện
hành chưa ghi nhận biện pháp này với tư cách là một biện pháp ngăn chặn
hành chính cho thấy sự thiếu hụt trong quy định hiện hành của Việt Nam về
các biện pháp cưỡng chế ngăn chặn hành chính.
3.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính ở Việt Nam
3.2.1. Thực tiễn áp dụng nhóm biện pháp ngăn chặn nhằm chấm dứt vi
phạm pháp luật, ngăn ngừa hậu quả do vi phạm gây ra
Tạm giữ người theo thủ tục hành chính. Số liệu báo cáo về BPNC
này ít một phần xuất phát từ thực tiễn là biện pháp này ít được sử dụng do
quy định của Luật XLVPHC giới hạn hành vi vi phạm để áp dụng biện
pháp này. Bên cạnh đó, thực tế còn cho thấy đội ngũ công chức trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật hiện nay vẫn còn
thiếu về số lượng và bất cập trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về tạm giữ người theo thủ tục hành chính. Ngoài ra, một bất cập khác trong
thực tế là việc tuân thủ các quy định của pháp luật về mặt thủ tục tạm giữ
người: để đảm bảo thời gian tạm giữ, người có thẩm quyền đã phải cố tình
“bắt người buổi sáng nhưng đến buổi chiều mới lập biên bản”; tại nhiều địa
phương, chế độ dành cho người bị tạm giữ, cơ sở vật chất cho công tác tạm
giữ chưa được chú trọng, quyền của người bị tạm giữ chưa được chú trọng.
Áp giải người vi phạm . Việc áp dụng biện pháp áp giải người vi
phạm theo thủ tục hành chính chưa đảm bảo đúng thủ tục, quy trình. Trên
thực tế, với đặc thù bộ đội biên phòng, hoạt động công vụ phải thường
xuyên bám địa bàn, vì vậy có những địa điểm phát hiện vi phạm thường xa
đơn vị, khi đối tượng vi phạm không tự nguyện chấp hành yêu cầu của
chiến sĩ bộ đội biên phòng thì cần áp dụng biện pháp áp giải người vi phạm.
Để thực hiện thẩm quyền này, chiến sĩ bộ đội biên phòng đang thi hành
công vụ phải ban hành quyết định áp giải người vi phạm bằng văn bản và
phải giao cho người bị áp giải một bản. Thực tế, việc ban hành quyết định
này không phát huy được hiệu lực pháp lý vì đồn biên phòng ở xa nơi phát
hiện vi phạm nên không thể lấy được dấu của đơn vị kịp thời để thực hiện
áp giải VPHC.
15
Buộc chấm dứt hành vi vi phạm. Thực tế phổ biến hiện nay các tổ
chức, doanh nghiệp khi vi phạm chỉ thực hiện việc nộp phạt cho xong nghĩa
vụ mà không tuân theo việc tạm chấm dứt hoạt động cũng như thực hiện
việc khắc phục hậu quả do vi phạm gây ra, điều này đã làm cho mục đích
của nhà nước chưa đạt được một cách hiệu quả. Quy định hiện hành chưa
có các biện pháp cưỡng chế thi hành việc ngăn chặn hành chính, dẫn đến
thực tế trong những trường hợp như thế này cơ quan thi hành pháp luật phải
thực hiện việc ngừng cung cấp điện, nước. Tuy nhiên, biện pháp này lại
chưa được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
3.2.2. Thực tiễn áp dụng nhóm biện pháp ngăn chặn nhằm bảo đảm xử
phạt vi phạm hành chính
Khám người; Khám phương tiện, vận tải, đồ vật; Khám nơi cất
giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
Vướng mắc lớn nhất là sự chồng chéo, mẫu thuẫn, thiếu chặt chẽ
trong quy định về thẩm quyền, thủ tục, đối tượng áp dụng, đồng thời việc áp
dụng của cơ quan có chức năng còn làm ảnh hưởng đến quyền con người,
quyền công dân; Khi tiến hành việc khám cũng gặp nhiều vướng mắc về
thẩm quyền và thủ tục, còn chưa được thực hiện theo quy định của pháp
luật và không phù hợp với mục đích là đảm bảo xử phạt VPHC.
Quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật trong thời gian làm
thủ tục trục xuất. Số liệu về vấn đề quản lý người nước ngoài trong thời
gian làm thủ tục trục xuất hầu như không có. Điều này xuất phát từ thực tế
việc áp dụng biện pháp xử phạt trục xuất cũng hạn chế bởi nhiều lí do.
3.2.3. Thực tiễn áp dụng nhóm biện pháp ngăn chặn hỗn hợp
Liên quan đến vấn đề xử lý tang vật, phương tiện giao thông bị tạm
giữ, hiện nay số lượng hồ sơ tồn đọng khá nhiều và tình trạng quá tải ở các
bãi trông giữ phương tiện ngày càng tăng, kéo dài nhiều năm gây lãng phí lớn
cho xã hội. Công tác XLVPHC trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông chưa
có phần mềm để theo dõi và kết nối công tác xử phạt vi phạm với công tác
đăng ký xe và chưa kết nối giữa Công an các đơn vị, địa phương trên toàn
quốc. Ngoài ra, một số địa phương chưa đáp ứng đúng thủ tục giấy tờ về tạm
16
giữ theo quy định của pháp luật; Do kiến thức pháp luật, kĩ năng ứng xử, giải
quyết tình huống của một số lực lượng chức năng có thẩm quyền chưa cao dẫn
đến một số trường hợp lực lượng xử lý đã có những hành vi chưa phù hợp
nhằm mục đích ngăn chặn VPHC.
3.3. Đánh giá chung về pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn
chặn hành chính ở Việt Nam hiện nay
Sự điều chỉnh pháp luật đối với các BPNC hành chính ngày càng
hoàn thiện hơn cả về căn cứ áp dụng, thẩm quyền cũng như thủ tục áp dụng;
đã thể hiện sự ghi nhận các quyền cơ bản của công dân; ngày càng bảo đảm
tính dân chủ, công khai, minh bạch trong quản lý hành chính nhà nước. Tuy
nhiên, vẫn còn một số khiếm khuyết. Cụ thể: Trong các quy định pháp luật
về BPNC hành chính: Thứ nhất, một số quy định về BPNC hành chính chưa
phù hợp với thực tế dẫn đến việc áp dụng pháp luật thiếu tính khả thi; Thứ
hai, một số quy định về BPNC hành chính chưa cụ thể, rõ ràng dẫn đến
nhiều cách hiểu khác nhau; Thứ ba, các BPNC hành chính hiện hành còn
nghèo nàn về số lượng và các quy định còn hạn hẹp về các căn cứ áp dụng
cũng như thẩm quyền áp dụng; Thứ tư, ranh giới giữa các BPNC hành
chính cũng như giữa BPNC hành chính và biện pháp cưỡng chế khác chưa
rõ ràng; Thứ năm, các quy định pháp luật hiện hành về BPNC hành chính
còn mang tính tùy nghi khá nhiều, đặc biệt liên quan đến thẩm quyền ngăn
chặn hành chính; Thứ sáu, các quy định về BPNC hành chính còn mâu thuẫn,
không thống nhất; Thứ bảy, quy định pháp luật hiện hành chưa có sự phân hóa
cụ thể các BPNC áp dụng với các loại đối tượng đặc thù khác nhau. Trong thực
tiễn áp dụng BPNC hành chính: việc áp dụng của cơ quan có thẩm quyền chưa
triệt để tuân theo nguyên tắc “chỉ áp dụng khi có căn cứ và cần thiết”; Đồng
thời việc áp dụng BPNC hành chính còn không đúng mục đích của từng biện
pháp cụ thể.
Thực trạng về quy định và áp dụng BPNC hành chính nói trên, theo
đánh giá của NCS xuất phát từ những nguyên nhân sau: Một là, vấn đề nhận
thức của những người có thẩm quyền. Hai là, vấn đề quản lý, thể chế. Ba là,
công tác tổ chức, con người. Bốn là, do hạn chế về mặt kinh tế.
17
Chương 4
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng biện pháp ngăn
chặn hành chính
4.1.1. Yêu cầu tăng cường quản lý và cải cách hành chính nhà nước. Cải
cách hành chính là xu hướng chung của nhiều nước trên thế giới. Yêu cầu
cải cách hành chính đòi hỏi trước hết cải cách thể chế cưỡng chế hành
chính, trong đó có ngăn chặn hành chính.
4.1.2. Xuất phát từ thực trạng quy định pháp luật và hoạt động áp dụng
biện pháp ngăn chặn hành chính ở Việt Nam hiện nay. Nhu cầu hoàn
thiện còn xuất phát từ chính những bất cập nội tại bên trong của hệ thống
biện pháp cưỡng chế này, đòi hỏi phải có sự thay đổi để khắc phục những
bất cập, hạn chế đó.
4.1.3. Đòi hỏi bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong áp dụng biện
pháp ngăn chặn hành chính. Hoàn thiện quy định pháp luật và việc bảo đảm
thực thi ngăn chặn hành chính gắn với quyền công dân, quyền con người trong
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tất yếu.
4.1.4. Xuất phát từ dự báo tình hình vi phạm hành chính và nhu cầu bảo
đảm sự an toàn của các quan hệ xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
Dự báo trong thời gian tới các vi phạm hành chính sẽ có khả năng
tiếp tục gia tăng về số lượng và phổ biến ở mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Từ
dự báo tình hình vi phạm hành chính cũng như thực trạng áp dụng biện
pháp ngăn chặn hành chính thì việc đề cao sự an toàn các quan hệ xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết.
4.2. Quan điểm hoàn thiện quy định pháp luật và bảo đảm áp dụng
biện pháp ngăn chặn hành chính
4.2.1. Đảm bảo tính đồng bộ, khả thi của các giải pháp hoàn thiện
pháp luật và bảo đảm áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính
Quá trình hoàn thiện pháp luật về BPNC hành chính phải đảm bảo
sự thống nhất giữa Luật quy định BPNC hành chính với các văn bản cụ thể
hóa, hướng dẫn thi hành Luật trong các lĩnh vực quản lý nhà nước; sự thống
18
- Xem thêm -