Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc...

Tài liệu Biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc

.PDF
25
39847
93

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN VIỆT YÊN TRƯỜNG TIỂU HỌC HƯƠNG MAI ................oo ò................. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC ĐÚNG CHO HỌC SINH LỚP 1 TRONG CẨC TIẾT TẬP ĐỌC Lĩnh vực: Tiếng Việt Tên tác giả: Tông Chức vụ: Giáo viên Thỉ Hoa NĂM HỌC 2012-2013 PHÀN MỞ ĐẦU I-/ LÝ DO CHỌN ĐÈ TÀI Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, là sự nhận thức về thế giới cuộc sống con người và xã hội. Tác phẩm văn học dùng phương tiện ngôn từ để sáng tạo nên những hĩnh tượng về cuộc sống con người, quê hương, xử sở và đem lại cho người đọc những rung cảm thực sự trong sáng. Trong nhà trường tiểu học ở Việt Nam đã coi Tiếng Việt là một môn học trung tâm, làm nền móng các môn học khác. Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe - nói - đọc - viết cho học sinh. Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trinh vì nó đảm nhiệm việc hĩnh thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học đầu tiên. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đàu tiên. Nên việc dạy học phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5. Đặc biệt đối với học sinh lớp 1- lớp đàu cấp - việc dạy đọc cho các em thật vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt. Việc dạy đọc ở lớp lcũng quan trọng bởi từ chỗ các em còn phải đọc đánh vàn từng tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn bản là việc tương đối khó với các em mà mục tiêu của giờ dạy Tiếng Việt là phải hướng đến giáo dục học sinh yêu tiếng Việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế nhưng hiện nay, ở trường tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là một trong những lý do cho học sinh của chúng ta đọc và nói chưa tốt. Đó cũng là ý do khiến cho trong nhiều trường hợp, học sinh không hiểu đúng văn bản được đọc. Cũng như nhiều giáo viên lớp 1 khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về cách dạy tập đọc ở lớp 1. Đặc biệt là rèn cho học sinh không những chỉ đọc thông được văn bản mà còn phải đọc đúng văn bản được đọc. v ấ n đề đặt ra là làm thế nào để giúp các em đọc đúng tiếng, đọc liền tiếng trong từ, trong câu, đọc đúng ngữ điệu, biết cách ngắt nghỉ hơn trong văn bản thơ, cũng như văn bản văn xuôi. Những băn khoăn này chính là lý do tôi chọn đề tài: “M ột số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đoc” 2 II-/ MỤC ĐÍCH NHIỆM v ụ CỦA ĐÈ TÀI Tập đọc là phân môn thực hành vì vậy nhiệm vụ của nó là hình thành kỹ năng đọc cho học sinh. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh. Dạy đọc giáo dục lòng ham đọc sách cho học sinh giúp cho các em thấy được đây chính là con đường đặc biệt để tạo cho minh một cuộc sống trí tuệ phát triển. Tập đọc góp phàn làm giàu vốn kiến thức ngôn ngữ, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các cách tư duy có hình ảnh. Đặc điểm của dạy tập đọc lớp 1 chính là ở chỗ đây là bước chuyển tiếp từ dạy “học vần” sang dạy “tập đọc” (ở lớp 2). Giờ tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả phương pháp học vàn, cả phương pháp tập đọc. Yêu càu của giờ tập đọc lớp 1 là củng cố hệ thống âm vàn đã đọc (nhất là các vàn khó) đọc đúng tiếng, liền tiếng trong từ, trong câu, đoạn, bài. Bước đầu biết cách ngắt hơi ở các dấu câu, biết lên giọng và hạ giọng. Đe làm tốt được những nhiệm vụ nêu trên, đề tài của tôi mục đích đưa ra một số biện pháp để giúp học sinh đọc thông được văn bản và đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng nhằm nâng cao chất lượng của 1 giờ dạy tập đọc ở lớp 1. III-/ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN c ứ u Đối tượng nghiên cứu là thực trạng dạy đọc của lớp 1 ở Trường tiểu học Hương Mai. IV-/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau : - Phương pháp thu nhận tài liệu; - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế; - Dạy thực nghiệm; - Trao đổi, Toạ đàm với đồng nghiệp. 3 CHƯƠNG I C ơ SỞ LÝ LUÂN CHUNG I-/ VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY ĐỌC Ở TIÊU HỌC 1. Vị tr í của dạy đọc ở tiểu học a. Khái niêm đoc: • • Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm) Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm 2 phàn chữ viết và phát âm, nghĩa là nó không phải chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo đúng như các ký hiệu chữ viết mà còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gi được đọc. Trên thực tế, nhiều khi người ta đã không hiểu khái niệm “đọc” một cách đầy đủ. Nhiều chỗ người ta chỉ nói đến đọc như nói đến việc sử dụng bộ mã chữ âm còn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không được chú ý đúng mức. b. Ỷ nghĩa của việc đọc Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Neu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống binh thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây anh ta biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư tưởng tình cảm của người khác, đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tinh cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành động sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn không biết đọc con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hĩnh thành được một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời đại bủng nổ thông tin thi biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học, học nữa học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Vì những lý lẽ trên dạy đọc có ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đàu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. 4 Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó là một khả năng không thể thiếu được của con người văn minh. 2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở tiểu học Những điều vừa nêu trên khẳng định sự càn thiết của việc hình thành và phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh. Tập đọc với tư cách là một phân môn của Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng yê càu này - hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh. Phân môn học vần cũng thực hiện nhiệm vụ dạy đọc nhưng mới dạy đọc ở mức độ sơ bộ nhằm giúp học sinh sử dụng bộ mã chữ âm. Việc thông hiểu văn bản chỉ đặt ra ở mức độ thấp và chưa có hĩnh thức chuyển thẳng từ chữ sang nghĩa (đọc thầm). Như vậy, tập đọc với tư cách là một phân môn tiếng Việt tiếp tục những thành tựu dạy học mà học cần đạt được, nâng lên một mức đày đủ hoàn chỉnh hơn. Tập đọc là một phân môn thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ năng cũng là bốn yêu càu về chất lượng của “đọc” : đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được hình thành trong 2 hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. II-/ NHỮNG C ơ SỞ CỦA VIỆC DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC 1. Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình đọc, nắm bản chất của kỹ năng đọc. Đặc điểm tâm lý sinh lý của học sinh khi đọc hay cơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy học. Như trên đã nói, đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào các hoạt động của cơ quan thị giác. Chúng ta đi vào phân tích đặc điểm của quá trình này. - Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, là việc sử dụng bộ mã gồm hai phương diện. Một mặt đó là quá trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung thành nhưng dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ - nghĩa tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dung những gì được đọc. - Đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt hoạt động của các cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được 5 đọc. Càng ngày những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn. Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa những mặt riêng lẻ này của quá trình đọc, đó là điểm phân tích biết người mới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác, càng biểu cảm bấy nhiêu. Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ "đọc" được sử dụng trong nhiều nghĩa : theo nghĩa hẹp, việc hình thành kỹ năng đọc trùng với nắm kỹ thuật đọc (tức là việc chuyển dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh), theo nghĩa rộng, đọc được hiểu là kỹ thuật đọc của những từ riêng lẻ mà cả câu, cả bài), ý nghĩa hai mặt của thuật ngữ đọc được ghi nhận trong các tài liệu tâm lý học và phương pháp dạy học. Từ đây chúng ta sẽ hiểu đọc với nghĩa thứ hai - đọc được xem như là một hoạt động lời nói trong đó có các thành tố: 1. Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ 2. Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ theo từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc thành từng tiếng tuỳ thuộc vào trinh độ nắm kỹ thuật đọc. 3. Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài) kỹ năng đọc là một kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện lâu dài. T.G.Egorop (dẫn theo 3.101) chia việc hĩnh thành kỹ năng này ra làm 3 giai đoạn : phân tích tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát sinh, hình thành một cấu trúc chỉnh thể của hành động) và giai đoạn tự động hoá. Giai đoạn dạy học vần là sự phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng theo các âm. Giai đoạn tổng hợp thì đọc thành cả từ trọn vẹn, trong đó có sự tiếp nhận từ bằng thị giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo sự thông hiểu ý nghĩa của "từ" trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thực hiện trong sự đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, lớp 3 học sinh bắt đàu đọc tổng hợp. Trong những năm học cuối cấp, đọc càng ngày càng tự động hoá, nghĩa là người đọc ngày càng ít quan tâm đến chính quá trình đọc mà chú ý nhiều đến việc chiếm lĩnh văn hoá (bài khoá), nội dung của sự kiện, cấu trúc chủ đề, các phương tiện biểu đạt của nó. Thời gian gàn đây, người ra đã chú trọng hơn đến những mối quan hệ quy định lẫn nhau của việc hình thành kỹ năng đọc và hình thành kỹ năng làm việc với văn bản. Đe có giờ tập đọc đạt kết quả tốt người giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của học sinh minh nắm được đặc điểm yêu càu, bản chất kỹ năng cơ chế đích càn đạt được của tiết dạy tập đọc. Trên cơ sở đó sử dụng phương pháp cho phù hợp. 2. Cơ sở ngôn ngữ và văn hoc của vỉêc day đoc Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học. Nó liên quan mật thiết với một số vấn đề của ngôn ngữ học như vấn 6 đề chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học), vấn đề nghĩa của từ, của câu, đoạn, bài (thuộc từ vựng học, ngữ nghĩa học), vấn đề dấu câu, các kiểu câu... Phương pháp dạy học tập đọc phải dựa trên những kết quả nghiên cứu của ngôn ngữ học, việt ngữ học về những vấn đề nói trên để xây dựng a. Vẩn đề chính âm trong tiếng Việt Chính âm là các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ có giá trị và hiệu quả về mặt xã hội. v ấ n đề chuẩn mực phát âm tiếng Việt đang là vấn đề thời sự, có nhiều ý kiến khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau như chuẩn hoá ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, mục đích của việc xây dựng chính âm. T 7Ậ 4 ^ _ ____ m t -* • ___ •> _ 1 7 « Ạ , Ố. Vân đê ngữ điệu cua Tiêng Việt Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên cao hay hạ thấp giọng đọc, giọng nói. Ngữ điệu là một trong những thành phần của ngôn điệu. Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói, là yếu tố tham gia tạo thành lời nói. Mỗi ngôn ngữ có một ngữ điệu riêng. Ngữ điệu tiếng Việt, như các ngôn ngữ có thanh điệu khác, chủ yếu được biểu hiện ở sự lên giọng và xuống giọng (cao độ), sự nhấn giọng (cường độ), sự ngừng giọng (trường độ) và sự chuyển giọng (phối hợp cả trường độ và cường độ). Ngữ điệu là một hiện tượng phức tạp có thể tách ra thành các yếu tố cơ bản có quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng) trọng âm, âm điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết làm chủ những yếu tố này. c. Cơ sở lý thuyết cơ bản, phong cách học và văn học của dạy đọc Việc dạy đọc không thể dựa trên lý thuyết về văn bản những tiêu chuẩn để phân tích, đánh giá một văn bản (ở đây muốn nói đến những bài đọc ở tiểu học) nói chung cũng như lý thuyết để phân tích, đánh giá các tác phẩm văn chương nói riêng. Việc hình thành kỹ năng đọc đúng, đọc diễn cảm và đọc hiểu cho học sinh phải dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá một văn bản tốt: tính chính xác, tính đúng đắn và tính thẩm mỹ, dựa trên những đặc điểm vè các kiểu ngôn ngữ, các phong cách chức năng, các thể loại văn bản, các đặc điểm về loại thể của tác phẩm văn chương dùng làm ngữ liệu đọc ở tiểu học. Tất cả những vấn đề trên đều thuộc phạm vi nghiên cứu của lý thuyết văn học. Vì vậy ta dễ dàng nhận thấy phương pháp dạy tập đọc không thể không dựa trên những thành tựu nghiên cứu của lý thuyết văn bản nói chung và nghiên cứu văn học nói riêng. 7 III-/ TỔ CHỨC DẠY ĐỌC THÀNH TIẾNG Ở TIÈU HỌC 1. Chuẩn bi cho vỉêc đoc • • • Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc cần phải ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng 30-35 cm, cổ và đàu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp, khi được cô giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay. Trước khi nói về việc rèn đọc đúng, càn nói về tiêu chí cường độ và tư thế khi đọc, tức là rèn đọc to, đọc đàng hoàng. Trong hoạt động giao tiếp, khi đọc thành tiếng, người đọc một lúc đóng hai vai: một vai - và mặt này thường được nhấn mạnh - là người tiếp nhận thông tin bằng chữ viết; vai thứ hai là người trung gian để truyền thông tin đưa văn bản viết đến người nghe. Khi giữ vai thứ hai này, người đọc đã thực hiện việc tái văn bản. Vì vậy, khi đọc thành tiếng, người đọc có thể đọc cho mình hoặc cho người khác hoặc cho cả hai. Đọc cùng với phát biểu trong lớp là hai hình thức giao tiếp trước đám đông đàu tiên của trẻ em nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo sự thành công, tạo cho các em sự tự tin cần thiết. Khi đọc thành tiếng, các em phải tính đến người nghe. 2. Luyện đọc đúng a. Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là đọc không thừa, không sót tùng âm, vần, tiếng. Đọc đứng phải thể hiện đúng ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm việc đọc đúng các âm thanh (đúng các âm vị) ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu). b. Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị tiếng Việt. - Đọc đúng các phụ âm đầu: TD có ý thức phân biệt để không đọc: “nàm việc”, “khoẻ khan ” mà phải đọc là “làm việc ” , “khỏe khoắn - Đọc đúng các âm chính: TD có ý thức phân biệt để không đọc “iu tin, chai riêu ” mà phải đọc “ưu tiên, chai rượu - Đọc đúng các âm cuối: TD có ý thức không đọc: “luông luông” mà phải đọc “luôn luôn”. - Đọc đúng bao gồm cả đọc tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điều câu. Ngữ điệu là hiện tượng phức tạp, có thể tách ra thành các yếu tố cơ bản có quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng), trọng âm, âm điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy cho học sinh làm chủ những yếu tố này. Đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đứng nói riêng vừa 8 là mục đích của dạy đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc. Khi dạy đọc đúng giáo viên cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một từ ra làm hai. TD không ngắt hơi. “Với em gái bé Phải người / lớn c ơ ” Ông già bẻ gãy từng chiểc đũa một / cách dễ dàng. Không tách giới từ với danh từ đi sau nó. Thí dụ không đọc: “Như con chim chích Nhảy trên / đường vàng” Không tách động từ, hệ từ “/à” với danh từ đi sau nó. Thí dụ: không đọc Cả heo là / tay bơi giỏi nhất của biển Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm càn diễn đạt trong câu cảm. Với câu càu khiến càn nhấn giọng phù hợp để thấy rõ giọng khi đọc bộ phận giải thích của câu. Như vậy đọc đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm. 3. Luyện đọc nhanh a) Đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy) là nói đến phẩm chất đọc về mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, ngắc ngứ. v ấn đề tốc độ đọc chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng. Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn (nhiệm vụ này phàn dạy đọc của phân môn học vàn phải đảm nhận), đọc không ê a, ngắc ngứ, không vừa đọc vừa đánh vần. v ề sau tốc độ đọc phải đi song song với việc tiếp nhận có ý thức bài đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì người đọc phải xác định tốc độ đọc nhanh nhưng để cho người nghe hiểu kịp được. Vì vậy, đọc nhanh không phải là đọc liến thoang. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói. Khi đọc thầm thì tốc độ đọc sẽ nhanh hơn nhiều. b) Biện pháp luyện đọc nhanh Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài ra, còn có biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy, của bạn để điều chỉnh tốc độ. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Định tốc như thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc. 9 IV-/ MỤC ĐÍCH YÊU CÀU CỦA PHÂN MÔN TẬP ĐỌC Ở LỚP 1 - Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có tác dụng hình thành phát triển ngôn ngữ cho học sinh. Tiếng Việt gồm nhiều phân môn: Tập đọc, từ ngữ, ngữ pháp, chính tả, tập làm văn. Phân môn tập đọc có vị trí quan trọng. Dạy tốt phân môn này đáp ứng một trong 4 kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Kỹ năng đọc nhanh, chính xác, rõ ràng, rành mạch và diễn cảm nhờ đó học sinh có những hiểu biết văn học ngôn ngữ và ngược lại. Vì vậy đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm là quá trình có liên quan mật thiết với nhau. Qua việc đọc, học sinh chiếm lĩnh được những tri thức văn hoá của dân tộc và cũng từ đó giáo dục tình cảm đạo đức cao đẹp cho học sinh, đồng thời phát huy tính sáng tạo, khả năng tư duy cho các em. Đối với học sinh lớp 1, các em bắt đàu chuyển từ giai đoạn học vàn sang tập đọc vì vậy giờ tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả phương pháp học vàn, cả phương pháp tập đọc. Yêu cầu của giờ tập đọc lớp 1 là củng cố hệ thống âm vần đã học (nhất là các vần khó), đọc đúng và trơn tiếng, đọc liền từ, đọc cụm từ và câu: tập ngắt nghỉ (hơi) đúng chỗ trong câu. Hiểu các từ thông thường, hiểu được ý diễn đạt đã đọc (độ dài câu khoảng 10 tiếng). Bên cạnh nhiệm vụ ôn vàn cũ, học vàn mới học sinh còn được phát triển vốn từ, tập nói câu đơn giản. V-/ VÀI NÉT VỀ PHÂN MÔN TẬP ĐỌC Ở LỚP 1 - Cấu trúc chung: Phân môn tập đọc gồm 42 bài được bắt đầu từ tuần 5 của học kỳ n (có 14 tuần dạy tập đọc, mỗi tuần có 3 bài, mỗi bài dạy trong 2 tiết). - 7VỔIỆdung: Các bài tập đọc xoay quanh 3 chủ đề: Nhà trường, gia đinh, thiên nhiên đất nước. - Bài tập đọc lớp 1 gồm có các phàn: + Văn bản đọc + Những từ khó càn lưu ý + Các câu hỏi (bài tập) để ôn luyện âm, vàn + Luyện nói: nói về một vấn đề hoặc nhìn tranh để diễn đạt. VI-/ NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC SINH RÈN ĐỌC - Quá trình tìm hiểu thực tế, nhìn chung mỗi giờ tập đọc đều có 2 phần lớn tìm hiểu nội dung bài và luyện đọc, hai phần này có thể tiến hành cùng một lúc, đan xen vào nhau, cũng có thể tách rời nhau tuỳ từng bài và từng giáo viên. Song dù dạy theo cách nào thì hai phàn này luôn có mối quan hệ tương hỗ, khăng khít. Phàn tim hiểu bài giúp học sinh tim hiểu kỹ nội dung nghệ thuật của từng bài, từ đó học sinh đọc đúng, diễn cảm tốt. Ngược lại đọc diễn cảm để thể hiện nội dung bài, thể hiện những hiểu biết của minh xunh quanh bài học. Như vậy phần luyện đọc có vai trò quan trọng, học sinh đọc tốt sẽ giúp các em hoàn thành được năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ của chính bản thân mình. Đọc tốt giúp các em hiểu biết tiếp thu được văn minh của loài người, bồi đưỡng tâm hồn tình cảm, phát triển tư duy. 10 Bên cạnh các yếu tố trên trong giảng dạy phân môn tập đọc giáo viên còn phải chú ý đến một số nguyên tắc sau: + Nguyên tắc phát triển lời nói (nguyên tắc thực hành). Chúng ta ai cũng biết trẻ em không thể lĩnh hội được lời nói nếu chúng không nắm được lời miệng. Do vậy khi giảng dạy càn phải bảo đảm nguyên tắc này. Điều này được thể hiện rõ hơn ở phàn luyện đọc, ở phàn này học sinh được rèn luyện về cách phát âm, cách nghĩ hơi đúng chỗ, cách đọc đúng ngữ điệu. + Để giờ tập đọc đạt kết quả cao thì phải bảo đảm nguyên tắc phát triển tư duy, phát huy tính tích cực, chủ đạo của học sinh. Do vậy phàn luyện đọc giáo viên cần gọi mở, hướng dẫn học sinh tự phát hiện những chỗ càn ngắt giọng hạ, hạ giọng ở những câu thơ, những câu văn trong bài tò đó tìm ra cách đọc hay hơn. Như vậy để học sinh đọc tốt môn tập đọc đặc biệt là vấn đề rèn đọc đúng cho học sinh lớp 1 chúng ta cần đảm bảo tốt các phương pháp và nguyên tắc trên. 11 CHƯƠNG II THựC TRẠNG DẠY HỌC • • • • Qua nhiều năm giảng dạy ở trường tiểu học Đốc Tín và trao đổi với đồng nghiệp tôi đã có những nhận xét chung về thực trạng dạy học như sau: I-/ TÌNH HÌNH GIẢNG DẠY CỦA GIÁO VIÊN 1. Quan điểm của giáo viên về giờ tập đọc Nhìn chung giáo viên tiểu học đều rất coi trọng giờ tập đọc. Giáo viên ở các lớp đàu cấp cho rằng phàn luyện đọc từ, đọc câu là quan trọng hơn còn ở các lớp cuối cấp thi cho rằng phàn luyện đọc và phàn tim hiểu bài quan trong như nhau. Nhưng nhìn chung 70% giáo viên khẳng định việc luyện đọc quan trọng hơn còn về thời gian phân bố trong giờ luyện đọc thi 80% số giáo viên cho rằng thời gian luyện đọc là nhiều hơn còn 20% cho rằng thời gian của 2 phàn này như nhau. Được dự các tiết tập đọc của trường nói chung và của lớp 1 nói riêng tôi nhận thấy phần lớn giáo viên đều chú ý sửa lỗi phát âm cho học sinh song do thời gian bị hạn ché nên việc sửa lỗi do chỉ được thực hiện lướt qua khi luyện đọc từ hoặc câu giáo viên thường chỉ cho học sinh luyện những từ và câu mà sách giáo khoa yêu cầu chứ chưa chọn lọc ra những từ hoặc câu mà học sinh của minh hay nhàm lẫn. 2ếNhững phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc Hiện nay ở tiểu học, về vấn đề rèn đọc cho học sinh, giáo viên sử dụng phương pháp dạy học cụ thể là: phương pháp làm mẫu, phương pháp luyện đọc theo mẫu, phương pháp luyện tập củng cố, phương pháp hỏi đáp (đặt câu hỏi để học sinh tự tìm và phát hiện từ khó, cách ngắt nhịp câu dài...) và phương pháp đóng vai (đối với văn kể chuyện). * Thực trạng phần rèn đọc ở lớp 1 Qua tìm hiểu và dự giờ ở lớp 1 tôi thấy hiện nay nhìn chung giờ tập đọc được tiến hành theo trình tự sau: Tiết 1: 1. Kiểm tra bài cũ Học sinh đọc lại bài của tiết trước và trả lời một số câu hỏi ứng với nội dung bài học. 2. Bài mới: a. Giới thiệu bài: - Giáo viên chép sẵn bài đọc lên bảng lớp - Giáo viên đọc mẫu, học sinh theo dõi b. Hướng dẫn học sinh luyện đọc 12 * Luyện đọc tiếng, từ Giáo viên kể chân những tiếng từ mà SKG yêu càu —> cá nhân học sinh đọc * Luyện đọc câu Giáo viên đưa ra những câu thơ, văn ngắt nhịp, ngắt giọng sẵn và đọc mẫu sau đó học sinh đọc theo cô. Khi cá nhân học sinh đọc các em khác nghe và nhận xét bạn. * Luyên đoc đoan Giáo viên nêu bài đọc chia thành đoạn sau đó cho học sinh đọc nối tiếp đoạn cho đến hết bài. * Luyện đọc cả bài: Cá nhân học sinh đọc —» các em khác nhận xét 3. Ôn vàn: - Dựa vào các câu hỏi và bài tập của SGK. + Tìm tiếng có chứa vần càn ôn + Nói câu chứa tiếng có vàn càn ôn 4. Củng cố: Ghép từ thành câu Tiết 2 4. Tìm hiểu bài và luyện nói a. Tìm hiểu bài - Học sinh đọc trong SGK + Cá nhân học sinh đọc từng đoạn và giáo viên nêu câu hỏi ứng với nội dung của từng đoạn để học sinh trả lời. + Giáo viên giảng giải thêm về nội dung, kết hợp giải nghĩa từ. b. Luyện đọc (mức độ đọc hay) - Giáo viên nêu cách đọc hay: giọng đọc, nhấn giọng, ngắt giọng - Giáo viên đọc mẫu làn 2 - Học sinh đọc (cá nhân —» đồng thanh) c. Luyện nói - Học sinh nhìn vào tranh hoặc ảnh của SGK để luyện nói về những chủ đề mà bài đọc yêu cầu. 5. Củng cố - dặn dò Dặn dò học sinh đọc lại bài nhiều làn và chuẩn bị bài sau Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu điều tra thực trạng, tôi rút ra một số kết luận sau: 13 - Giờ tập đọc có vị trí quan trọng ở tiểu học. - Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc tập đọc và nhiệm vụ chính của dạy đọc. - Trong giờ tập đọc giáo vi en còn làm mẫu nhiều mà chưa để các em tự phát hiện ra cách đọc. Giáo viên còn lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh sửa phát âm sai do học sinh nói ngọng hoặc do tiếng địa phương. - Trong giờ tập đọc nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý đến học sinh yếu vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm giảm tiến độ của tiết dạy. 3. Đối với học sinh Qua nhiều năm dạy học, tôi nhận thấy ở tiểu học các em thường coi nhẹ môn tập đọc vi các em cho rằng môn tập đọc là môn dễ không phải suy nghĩ như môn toán mà chỉ cần đọc trôi chảy, lưu loát là được. Các em cũng chưa để ý đến việc đọc của minh như thế nào. Một số ít học sinh phát âm sai do thói quen đã có từ trước hoặc do tiếng địa phương. Khi đọc các em còn hay mắc lỗi ngắt giọng, các em còn ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện (còn gọi là ngắt giọng sinh lý). Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng phàn lớn các em chỉ biết bắt chước cô một cách tự nhiên. 14 CHƯƠNG III ĐÈ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của việc dạy đọc là nhận thấy nếu dạy như đại trà hiện nay thì chưa đáp ứng được đày đủ yêu cầu dạy đọc ở tiểu học. Do vậy dể khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm hiện có ở thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp hướng dẫn học sinh rèn đọc đúng để nâng cao hiệu quả của giờ tập đọc ở lớp 1 nói riêng và ở tiểu học nói chung. Đó là: 1. Đọc mẫu: - Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích mẫu hình thành kỹ năng đọc của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn, đọc đúng rõ ràng, trôi chảy và diễn cảm. - Đối với học sinh lớp 1 giai đoạn đầu (khoảng 2 —» 3 bài đầu) giáo viên chép bài đọc lên bảng rồi học sinh theo dõi cô đọc ở trên bảng, nhưng ở giai đoạn sau giáo viên nêu yêu cầu học sinh theo dõi bài ở sách giáo khoa để tạo cho các em có thói quen làm việc với sách. 2. Hướng dẫn đọc Sách giáo khoa tập đọc lớp 1 chủ yếu có 2 dạng bài: - Dạng thơ, chủ yếu là thể thơ 4 - 5 tiếng - Dạng văn xuôi Cụ thể là trong 42 bài đọc thì có: - 23 bài dạng văn xuôi - 19 bài dạng thơ Việc hướng dẫn đọc đúng được thể hiện trong tiết 1 a. Luyện đọc từ ngữ Đối với lớp 1 dù ở bất kỳ dạng bài nào văn xuôi hay thơ thì trước khi luyện đọc đúng toàn bài bao giờ học sinh cũng được ôn luyện âm vàn. Trong phần này các em ôn luyện vần trên cơ sở luyện đọc những từ khó, hay nhầm lẫn khi đọc có ở trong bài. Thí dụ: Bài “Hoa Ngọc Lan” Sách giáo khoa chỉ yêu càu luyện đọc các từ sau “ Hoa lan, lá dày, lấp ló ” Khi dạy, dựa vào tinh hình đọc của lớp ngoài những từ trên tôi đã tìm thêm một số từ ngữ khác cần luyện đọc đúng đó là các từ ngữ: “xanh tham, nụ hoa, cảnh xoè ra duyên dáng, ngan ngát, toả khắp vườn, khắp nhà... ” Sở dĩ tôi đã lựa chọn thêm những từ ngữ này bởi vì thực tế ở lóp tôi dạy vần 15 còn một số ít em đọc chưa tốt, các em hay nhầm lẫn vần, phụ âm đầu và dấu thanhỂ Cụ thể như: Từ Hoc sinh đoc nhầm Xanh thầm Xăn thẩm Nụ hoa Lụ hoa Cánh xoè ra duyên dáng Cảnh xèo ra duyên dáng Ngan ngát Ngan ngác Toả khẳp vườn, khắp nhà Toả khắc vườn, khẳc nhà Giáo viên cũng nên để cho học sinh tự nêu những từ mà các em cảm thấy khó đọc trong khi phát âm. Thí dụ: Bài “Chú công” SGK chỉ yêu cầu luyện đọc từ “nâu gạch, rẻ quạt, rực rỡ, ỉóng lánh ” nhưng các em học sinh lớp tôi đã nêu ra được 2 từ mà các em cho là khó đọc đó là: “màu sắc, xoè tròn ” vi khi đọc dễ bị lẫn “màu sắc ” với “mầu sắc ”, “xoè tròn ” với “xèo tròn ” Khi cho các em luyện đọc từ ngữ, giáo viên nên kết hợp phân tích tiếng để giúp học sinh nhớ lại những âm vần đã học. đúng hay say, nếu sai thì ở đâu, các em có thể tự sửa lại cho bạn. Neu học sinh không làm được việc đó, giáo viên phải kịp thời uốn nắn sửa sai ngay cho các em. Nhất thiết phải có khen chê kịp thời. Không chỉ luyện đọc đúng từ trong giờ tập đọc mà trong các tiết tăng cường Tiếng Việt tôi cũng luôn đưa ra những bài tập phân biệt phụ âm đầu và vấn đề giúp các em phát âm tốt hơn. Thí dụ: Dạng bài tập điền vàn hoặc điền phụ âm đàu + Bài tập 1: Điền l hay n , ...o ...ê , , ....áo...ức ....o ..... ắng + Bài tập 2: Điền r, d, gỉ ... ộnễ...ã , ..... ập ....ờn , tháng......iêng + Bài tập 3: Điền s, X ...ản ...uất , ...anh....anh , ...o....ánh ...ung phong , ....ừng...ững + Bài tập 4: Điền vần ăc, ẳt hay ăp m ..... trời , m .......áo , đôi m ......... k h ........... nơi , th .......... nến + Bài tập 5: Điền vàn anh hay ăn ch..... len , c .........đẹp , c.........nhà m ễ.ễễ khoẻ , bức tr........ 16 •V..V và còn nhiều bài tập khác dạng như trên. Sau khi học sinh điền xong giáo viên phải yêu càu và kiểm tra các emđọc. Neu các em đọc sai giáo viên phải kịp thời uốn nắn ngay. Phàn luyện đọc từ nếu giáo viên làm tốt, hướng dẫn học sinh đọc kỹ sẽ giúp cho các em đọc tròn bài đọc tốt hơn. b. Đọc đúng: dạng thơ Thơ là tiếng nói của tình cảm, là sự phản ánh con người và thời đại một cách cao đẹp, thơ rất giàu chất trữ tình. Vi vậy khi đọc thơ càn thể hiện được tình cảm của tác giả gửi gắm trong từ, từng dòng thơ, nhịp thơ để truyền cảm xúc đến người nghe. Vì vậy đọc thơ phải đọc đúng dòng thơ, vàn thơ, thể thơ để thể hiện sắc thái, tình cảm. ngắt nhịp ra sao. Do vậy khi dạy những bài đọc thơ ở giai đoạn đàu tôi thường chép lên bảng các câu thơ cần chú ý ngắt giọng rồi hướng dẫn Thí dụ: Bài “Tặng Cháu” Vở này / ta tặng cháu yêu ta Tỏ chút lòng yêu cháu / gọi là Mong cháu / ra công mà học tập Mai sau / cháu giúp nước non nhà Học sinh sẽ được luyện đọc từng câu rồi đọc nối tiếp nhau cho đến hết bài. Giáo viên có thể cho các em dùng ký hiệu đánh dấu vào sách để khi đọc không bị quên. Đến giai đoạn sau (khoảng từ giữa học kỳ II trở đi) tôi đã để học sinh nhìn vào sách và nêu cách ngắt giọng của mình ở từng câu thơ (vì những bài thơ của lớp 1 thường là ngắn nên công viẹc này cũng không chiếm quá nhiều thời gian trong tiết dạy). Neu học sinh nói đúng giáo viên công nhân ngay và cho các em đánh dấu luôn vào sách. Neu học sinh nói sai giáo viên sửa lại cho học sinh. Thí du 1: Bài “M e và cổ” Học sinh thường ngắt nhịp như sau: Buổi sảng / bé chào mẹ Chạy tới ôm / cồ cô Buổi chiều / bé / chào cô Rồi sào / vào lòng mẹ Mặt trời ỉ mọc ỉ rồi lặn Trên đôi chân / lon ton Hai chân trời / của con Là mẹ / và cô giáo 17 Tôi đã sửa lại những câu học sinh sai và nêu cho các em thấy tại sao ngắt nhịp như vậy lại là sai. c. Đọc đúng: dạng văn xu ô i Tương tự như ở thơ, giáo viên càn chú trong rèn cho các em biết ngắt, nghỉ hơi cho đúng, cà n phải dựa vào nghĩa và các dấu câu để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một từ ra làm hai, tức là không ngắt hơi trong một từ. Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu, nghĩ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Thí dụ: Bài “Trường em” Câu dài trong bài cần hướng dẫn cách ngắt nghỉ hơi là: “Ở trường/ có cô giáo hiền như mẹ/ có nhiầi bè bạn thân thiết như anh em/” Tôi đã chép câu này lên bảng và hướng dẫn cách ngắt hơi như trên (vì đây là bài đàu tiên trong chương trình tập đọc nên tôi hướng dẫn luôn cách đọc). d. Luyện đọc củng cổ và nâng cao Để giúp học sinh đọc bài một cách chắc chắn, giáo viên cần dành thời gian để luyện đọc củng cố và nâng cao. Trong phần này giáo viên cho học sinh luyện đọc cá nhân - giáo viên càn chú ý tới các em đọc yếu để em đó được tham gia đọc - giáo viên càn động viên khích lệ kịp thời. Trong quá trình học sinh đọc giáo viên quan tâm theo dõi, uốn nắn, sửa sai cho các em. Đối với những bài đọc có lời đối thoại nên cho các em đọc theo lối phân vai. Đối với bài thơ càn cho các em đọc nhiều. 18 CHƯƠNG IV DẠY THỰC NGHIỆM • • • Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở khối lớp 1 của mình. Sau đây là 2 bài tập đọc mà tôi xin trình bày giáo án trong đề tài đó là bài “Mẹ và cổ” và bài “Sau cơn m ưa” khi dạy hai bài này tôi đã áp dụng những biện pháp nêu trên để rèn đọc cho học sinh đạt kết quả tốt. Dưới đây là nội dung hai giáo án đó Tiết số 1 - Tuần: 4 Tên bài dạy: Mẹ và cô I - Mục tiêu : Giúp học sinh: + Đọc đúng, phát âm đúng các tiếng có phụ âm đầu l, s, ch, tr + Biết nghỉ hơi đúng trong mỗi dòng thơ + ôn vần uôi, uơi + Hiểu nghĩa từ lon ton, chân trời II - Đồ dùng dạy học : - Giáo viên : Tranh vẽ như SGK. III - Hoat đông day hoc chủ yếu: • • o • V • V T.gian dự kiến Hoạt động của thầy Hoạt động của trò 5’ A ỆBài cũ Đọc bài: Mưu chú s ẻ và trả lời câu hỏi + Khi bị Mèo chộp được sẻ đã nói gì với mèo? + Sẻ đã làm gi khi Mèo đặt nó xuống đất? - 2 học sinh đọc và trả lời câu hỏi (mỗi em trả lời một câu). Lớp nhận xét B. Bài mới 1. Giới thiệu bài: Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giảo Khi đến trường cô giảo như mẹ hiền Mẹ và cô là những người chăm sóc dạy dỗ chúng ta nên người. Bài tập đọc “Mẹ 19 T.gian dự Hoạt động của thầy Hoạt động của trò kiến và Cô” hôm nay sẽ cho chúng ta thấy được tinh cảm của em bé đối với mẹ và cô -» Ghi bảng tên đàu bài 2. Hướng dẫn luyện đọc a. Giáo viên đọc mẫu - Giọng đọc dịu dàng tình cảm Học sinh theo dõi bài đọc ở bảng b. Hướng dẫn học sinh đọc 5’ Giáo viên yêu càu học sinh tìm những từ Cá nhân học sinh tim từ (tiếng) có chứa l, s, ch có trong bài —» (tiếng) và đọc theo yêu cầu của giáo viên Giáo viên ghi lên bảng những từ đó: + Buổi sảng, chào mẹ, chạy tới, buổi chiều, sà vào lòng mẹ - Giáo viên gọi cá nhân học sinh đọc làn lượt từng từ một cho đến hết và kết hợp phân tích những tiếng mà học sinh dễ lẫn khi đọc và viết: buổi, chạy, lặn. Lưu y : Tập trung gọi những em còn đọc yếu Trong khi học sinh đọc, giáo viên kết hợp giải nghĩa từ Lon ton: dáng đi nhanh nhẹn của em bé * Luyẽn đoc câu: Giáo viên yêu càu học sinh theo dõi bài viết ở SGK và cho biết xem bài thơ có mấy dòng thơ? - Giáo viên gọi 1 nhóm đọc nối tiếp nhau từng dòng cho đến hết hài - Giáo viên hướng dẫn cách ngắt giọng ở từng dòng thơ , Buổi sáng / bé chào mẹ / / Chạy tới / ôm cổ cô // Buổi chiều / bé chào cô / / Rồi / sà vào lòng^mẹ // Mặt trời mọc / rồi lặn / / Trên đôi chân / lon ton // Hai chân trời / của con / / Là mẹ / và cô giảo // 20 Cá nhân học sinh nối tiếp từng dòng đến hết bài. Khi đọc những học khác nhận xét bạn đúng hay chưa đọc cho bạn sinh đọc
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất