Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Bài giảng môn học kiến trúc công trình thuỷ lợi bùi văn dũng...

Tài liệu Bài giảng môn học kiến trúc công trình thuỷ lợi bùi văn dũng

.PDF
249
137
62

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước, nhất là trong giai đoạn xây dựng đất nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, nhà nước và nhân dân đã đầu tư nhiều công sức và của cải vật chất để xây dựng hàng ngàn công trình thuỷ lợi lớn và nhỏ, đến nay đảm bảo tưới cho 3 triệu ha đất canh tác, tiêu cho 1,4 triệu ha, phòng tránh giảm nhẹ thiên tai, cấp nước cho các ngành công nghiệp, du lịch, dân sinh và kinh tế khác. Nhiều công trình thuỷ lợi đã để lại những dấu ấn về ý chí kiên cường, bền bỉ của dân tộc Việt Nam trong quá trình chinh phục thiên nhiên, chiến thắng mọi thiên tai thử thách Cùng với sự đổi mới và phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, các tiến bộ vè khoa học kỹ thuật và văn hoá xã hội làm thay đổi phong phú thêm về công năng cho các công trình thuỷ lợi: ngoài việc phục vụ việc quản lý, khai thác sử dụng hiệu quả nguồn nước, phòng chống thiên tai, còn tham gia vào mạng lưói giao thông, hình thành các điểm du lịch hấp dẫn, các khu điều dưỡng, tham quan vui chơi giải trí, cho hiệu quả kinh tế ngày càng cao. Do đó, các công trình thuỷ lợi không chỉ yêu cầu đảm bảo về kỹ thuật và chất lượng mà còn ngày càng đòi hỏi cao về mỹ thuật Xuất phát từ quan điểm như vậy, trường Đại học Thuỷ lợi đã đưa môn học “Kiến trúc công trình thuỷ lợi” vào giảng dạy cho các ngành đào tạo kỹ sư ngành xây dựng công trình thuỷ lợi và thuỷ điện. Mục đích môn học nhằm trang bị cho các kỹ sư thuỷ lợi những kiến thức cơ bản nhất về những đặc điểm, yêu cầu và các cơ sở của thiết kế tạo hình kiến trúc, từ đó có cái nhìn kiến trúc khi thiết kế công trình thuỷ lợi, đem lại hiệu quả thẩm mỹ và kinh tế cao hơn cho công trình Bài giảng được xây dựng trên cơ sở một số tài liệu kết hợp hai chuyên ngành nguyên lý thiết kế tạo hình kiến trúc và xây dựng các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện, tuy nhiên bước đầu không thể tránh khỏi những thiếu sót về nội dung chương trình, bố cục bài giảng…Rất mong được sự đóng góp của bạn đọc để bài giảng ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được yêu cầu và mục đích môn học Hà Nội, tháng 6/2006 1 CHƯƠNG I :NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG VỀ KIẾN TRÚC I. Kiến trúc và các yếu tố tạo thành: 1.1. Kiến trúc là gì: 1.1.1. Sơ lược lịch sử và sự ra đời của kiến trúc: Con người, lúc đầu sinh sống ở các hang động, như hang Lascanx (Nam Pháp) có tuổi 17.000 năm, hang Chauvet tới 30.000 năm tuổi. Sau đó, cùng với sự phát triển về số lượng cũng như sức mạnh, con người tiến về các đồng bằng và miền ven biển và tìm cách làm nhà để ở. Con người lại có khả năng tư duy và tưởng tượng, những tư duy thực tiễn dẫn đến khoa học, tưởng tượng hư ảo dẫn đến tôn giáo. Họ dùng những tư duy thực tiễn để hiểu biết các quy luật và cấu trúc của vật liệu, vừa xây nhà để ở, vừa xây các cung điện đền đài đồ sộ, lộng lẫy làm nơi trú ngụ cho các hoàng đế, các vị thần linh để thoả mãn các nhu cầu vật chất lẫn tinh thần, và Kiến trúc ra đời. Lịch sử kiến trúc chia ra làm 5 thời kỳ phát triển tương ứng 5 qua hình thái quan hệ sản xuất: Kiến trúc cộng đồng nguyên thuỷ; Kiến trúc thời nô lệ; Kiến trúc xã hội phong kiến; Kiến trúc xã hội tư bản; Kiến trúc xã hội phát triển cao; * Kiến trúc cộng đồng nguyên thuỷ: Thời sơ khai là những hốc núi hay hang có phủ cành cây để che nắng mưa, chống gió tuyết. Sau đó xuất hiện những căn lều bằng cây hay kiểu nhà tren cọc ở ven sông hồ. Các công trình bằng đá chỉ xuất hiện khi con người biết làm các dụng cụ bằng đồng gọi là Đonmen hay Menghia. Đonmen được dựng từ các tảng đá bằng đá tự nhiên dựng đứng nguyên thuỷ, trên gác các tấm ngang nặng hàng chục tấn. Mengia là những cột đá tảng gần tròn dựng đứng cao 20m nặng 300 tấn. Các lều hang đơn giản này chính là cơ sở hình thành hình thức kiến trúc sau này (h.1.1 đến h.1.5) * Kiến trúc thời đại nô lệ: Khoảng năm 5000 – 4000 năm truớc công nguyên những quốc gia nô lệ đầu tiên bắt đầu thành lập ở vùng lưu vực con sông Nil – Ai Cập và vùng Mesopotamie dọc theo lưu vực hai con sông Tigre và Euphrate. Do sự hình thành giai cấp và phân công lao động, kẻ cầm quyền – chủ nô lệ – có khả năng tập trung trong tay một lực lượng lao động nô lệ rất lớn, đã có thể tạo nên những công trình kiến trúc đồ sộ phục vụ cho kẻ thống trị lúc đó. - Kiến trúc Ai cập: Các kiến trúc thời kỳ này đồ sộ, hoành tráng đặc trưng nhất là Kim tự tháp cổ đại Ai cập – lăng tẩm của các Pharaon vua chúa. Kim tự tháp Ai cập được dựng lên bằng những khối đá tự nhiên khổng lồ, hình thức vuông vức chính xác, đặt xít nhau không cần vữa liên kết. Các cột đá bố trí dày đặc, đầu cột có hai thức hoa nở – hoa cúp độc đáo. Bên cạnh kim tự tháp nổi tiếng còn có tượng thần khổng lồ mà nổi tiếng nhất là tượng nhân sư. Công trình tháp nổi tiếng nhất là nhóm 3 kim tự tháp Kieops – Khephren – Mykerinus ở gần làng Gizeh được xây vào năm 2900 – 2700 trước Công nguyên. Tháp to nhất là tháp Kieops cao 147m (h.1.6). - Kiến trúc Lưỡng Hà: chủ yếu cũng là đền đài, cung điện, thành trì của vua chúa với dạng kiểu cũng tương tụ như ở Ai Cập cổ đại. Các vật liệu xây dựng chủ yếu là đất sét hoặc gạch mộc. Đặc biệt của kiến trúc Lưỡng Hà là nhà phủ lợp bằng vòm cuốn gạch và đôi khi 2 bằng các dầm gỗ. Kiến trúc Lưỡng Hà phồn vinh nhất vào thế kỷ IX – VI trước Công nguyên (h.1.7). Khác với chế độ độc tài ở Ai Cập và Lưỡng Hà, chế độ nông nô ở Hi Lạp hình thành trong quá trình phát triển sản xuất, trong chế độ tư hữu cùng với sự tan rã của chế độ công đồng nguyên thuỷ, đã tạo điều kiện cho nghề buôn và nghề thủ công phát triển. - Kiến trúc cổ Hy Lạp: Xã hội cổ Hy Lạp không bị chế độ độc tài kìm hãm, không bị ảnh hưởng nặng nề của tôn giáo, nghệ thuật có xu hướng hiện thực, phát triển một cách tự phát nhằm ca tụng sức mạnh của con người (h.1.8). Kiến trúc Hy Lạp xuất hiện nhiều kiểu nhà mới về chức năng và đặc điểm kiến trúc thể hiện ở các công trình công cộng: phòng họp, nhà hát, sân vận động, aroga, quảng trường… Đền đài không chỉ là nơi tôn thờ mà còn là nơi tụ họp dân chúng khi có lễ hội, đặc trưng nhất trong kiến trúc Hi Lạp là đền Parthenon được xây dựng trên đồi nằm giữa thủ đô của Hy Lạp gọi là Acropole. Hình thức kiến trúc giàu sức biểu cảm, chi tiết phong phú và vật liệu đá cẩm thạch trắng. Tỷ lệ và tỷ xích của công trình so với tầm thước con người toát lên vẻ đẹp hùng vĩ mà không có cảm giác đè nén lên con người, ngược lại tạo cho con người có lòng tự hào và niềm tin tưởng ở sức mạnh của bản thân mình. Kiến trúc cổ Hy Lạp còn được đặc trưng bởi hệ thống “thức” cổ Hy lạp: Dorique, Ionique, Corinthine. Thức Dorique đơn giản, trang nghiêm và vạm vỡ có sức nam tính, Ionique gọn gàng thanh nhã và Corinthien tráng lệ thanh thoát giàu trang trí hiện đại cho vẻ đẹp của nữ giới. Hàng cột “thức” trở thành yếu tố căn bản của kiến trúc cổ Hy Lạp. - Kiến trúc La Mã: Sử dụng thức Hy Lạp một cách có sáng tạo và hoàn chỉnh thêm tạo ra hình thức mới như cột bao vây sân, nhà hát, sân vận động. Đền đài trước kia đứng đầu trong kiến trúc Hy Lạp nay đưa xuống hàng thứ yếu ở La Mã (h.1.9) Kiến trúc La Mã có lối xây dùng đá vôi kích thước nhỏ, hình thù tự nhiên có vữa liên kết đất vào giữa hai lớp tường mỏng. Sân đấu súc vật có khán đài lộ thiên Colisce xây dựng vào cuối thế kỷ I có hình thức hoành tráng, thuần khiết nhất quán, sử dụng thuận tiện, kết cấu hợp lý tiết kiệm. Công trình nổi tiếng nhất ở La Mã là điện Patheon – lần đầu tiên trong lịch sử con người sáng tạo ra một không gian bên trong rộng lớn mang hình trụ tròn trên phủ mái bán cầu bằng bê tông nhẹ . Diện tích nền nhà rộng 1500m2. Partheon là công trình đỉnh cao của Kiến trúc La Mã cả về phương diện nghệ thuật cũng như phương diện xây dựng, là công trình đi trước thời đại, có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của kiến trúc Phục Hưng Ý. * Kiến trúc chế độ phong kiến: Chế độ nô lệ sụp đổ, chế độ phong kiến phát sinh thay đổi cả quan hệ xã hội vì vậy nó kéo theo sự thay đổi cả về nhiệm vụ kiến trúc và dạng kiểu công trình như trang trại có công hào luỹ, cung điện lâu đài của vua quan, công hầu… - Kiến trúc Byzantine: Sự phát triển của đạo mới chính thống là đạo thiên chúa giáo có nhiều công trình lớn như nhà thờ, lâu đài, công sự…tạo điều kiện cho kiến trúc phát triển. Thế kỷ VI là thời kỳ mà kiến trúc Byzantine thịnh vượng nhất đặc trưng là nhà thờ Sophie xây năm 532 – 537 ở thủ đô Constantinopol lợp bằng cupon có đường kính 33m trên một hệ thống phức tạp các trụ lớn và cuốn. Kiến trúc Byzantine hoàn chỉnh truyền thống kiến trúc Phương Đông như Tiểu á, Xyri…(h.1.10) - Kiến trúc nhân dân Ả rập – Hồi giáo: có nhiều kết cấu độc đáo và giải pháp biểu hiện nghệ thuật đặc biệt như cuốn hình mũi tên, vòm cầu hình nón, tường trang trí hoa văn độc đáo. Vật liệu chủ yếu là đá thiên nhiên và gạch nung. - Kiến trúc Ấn độ: công trình đền đài đồ sộ vững chãi, sử dụng nhiều trang trí điêu khắc (h.1.11) 3 - Kiến trúc Trung Quốc: là nền kiến trúc độc đáo nổi bật với nhiều đặc điểm dân tộc được phát triển đến mức nghệ thuật cao. Kiến trúc chủ yếu là đá gỗ với nhiều trang trí sơn vẽ, giàu màu sắc, gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên nổi bật là hình thức mái cong nhẹ nhàng tựa trên hệ đấu củng ở đầu cột, giàu chi tiết trang trí và đường nét nghệ thuật tạo hình. - Kiến trúc Romane: xuất hiện vào thế kỷ X ở các nước Tây Âu, có các hình thức kiến trúc như biệt trang của chúa đất phong kiến có tháp canh, nhà thờ và tu viện. Chung quanh lâu đài phong kiến và tu viện là nhà ở của thợ thủ công và thương gia. Các công trình có đặc điểm tường dày đặc và có các cột trụ lớn, nhà thường có nhiều tháp mặt bằng vuông hay tròn, các cửa sổ hẹp hình lỗ châu mai (h.1.12) Công trình nổi tiếng ở Pháp là nhà thờ Stephalt, Saint, Etiênn, ở Đức có nhà thờ Michel, ở ý có nhà thờ Pise…kiến trúc các tu viện có sân trong được vây kín bằng các hàng cột thức. - Kiến trúc Gothique: xuất hiện ở Pháp vào thể kỷ XII. Cơ cấu cơ bản là lối cuốn nhọn và mái cuốn có mũi mác, trang trí nhiều bằng các hình khắc vào đá, tượng điêu khắc, và những bức tranh kính cửa sổ. Kiến trúc Gothique phản ánh tư tưởng của xã hội đương thời, thời đại mà thiên chúa giáo làm bá chủ, thể hiện khuynh hướng vươn lên thoát ly trần thế có tác dụng tốt đối với tôn giáo (h.1.13) Những di tích nổi tiếng của kiến trúc nhà thờ Gothique như Notre Dame ở Pari, nhà thờ Cologne ở Đức, nhà thờ Lincoln ở Anh… Vật liệu chủ yếu là đá địa phương. * Kiến trúc xã hội tiền tư bản chủ nghĩa (trước 1880): Sự phát triển thương nghiệp và xản xuất tạo nên một thế lực xã hội mới vào cuối thế kỷ XIV – giai cấp tư sản chống lại giai cấp phong kiến với hệ thống lý tưởng tôn giáo của nó và đấu tranh cho một nền văn hoá mới tiến bộ. Đây là cuộc vận dộng có tính chất nhân đạo phá bỏ hình thức trung cổ và tôn giáo, đạo lý và pháp quyền, nó dựa trên cơ sở di sản văn hoá cần được phục hồi, giải phóng con người. Cuộc đấu tranh này đã mở ra một thời đại mới – Thời đại Phục Hưng – một bước ngoặt tiến bộ từ trước đến nay của xã hội loài người. Nền kiến trúc phản ánh rõ chiều hướng mới này: đó là sự tìm tòi một nền kiến trúc với chí hướng phục hồi theo tinh thần mới những nguyên tắc và hình thức của nghệ thuật cổ điển thể hiện ở sự cân bằng trong bố cục hình khối với các chi tiết nghiên cứu thận trọng, đơn giản, tỷ lệ rõ ràng, kết hợp đúng mức các phương tiện hội hoạ, điêu khắc… - Kiến trúc Phục Hưng: chia làm ba giai đoạn chính Tiền phục hưng – Phục hưng hoàn thịnh – Hậu Phục hưng. Kiến trúc thời kỳ Tiền phục hưng thường là nhà ở của các nhà giàu thành thị, biệt thự ngoại ô, trường học, nhà văn hoá… với một số đặc điểm: nhà chia làm ba tầng, tầng dưới ốp đá lớn, mặt sần làm tăng vẻ kiên cố, tầng hai mặt tường đá làm đỡ thô kệch hơn, còn tầng ba mặt tường hoàn toàn nhẵn. Công trình nổi tiếng là nhà thờ Richelieu ở Florênc. Thời kỳ Phục hưng hoàn thịnh phát triển kiến trúc cổ, kết cấu nhẹ nhàng, kích thước phù hợp với con người như nhà thờ Pietro ở La Mã. Các lâu đài mất dần vẻ thành luỹ mà có tính chất của những công trình công cộng đồ sộ đặt trên những quảng trường thành phố, thường có phố xá bao quanh, với những cửa vào chính trang trọng như lâu đài Vatican, và một số công thự ở Venise. Kiến trúc thời kỳ Hậu phục hưng thiên về biểu hiện nhiều hơn, hình thức đẹp như tranh, gây được cảm xúc dồi dào như quảng trường Capitol (h.1.14). Hình thức kiến trúc mái vòm vẫn là hình ảnh quen thuộc phổ biến. - Kiến trúc Baroque: sử dụng phương tiện mỹ thuật và trang trí hoàn toàn trái ngược với kiến trúc Phục Hưng, chi tiết trang trí rườm rà, phức tạp lộn xộn, mất sự cân đối nhịp nhàng 4 của kiến trúc và sự hợp lý cùng tính chân thật của kết cấu. Kiến trúc này được áp dụng rộng rãi trong các công trình tôn giáo nổi bật là nhà thờ Saint – Carlo (h.1.15) - Kiến trúc Roccoco: tiếp tục chiều hướng của kiến trúc Baroc và còn vượt xa hơn nữa. * Kiến trúc cận đại tư bản chủ nghĩa giai đoạn phát triển (1880 – cuối thế kỷ XX) (h.1.16). Từ những năm 80 của thế kỷ XIX cho đến thế kỷ XX là thời gian quá độ để chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Có ba trào lưu chính: - Phái nghệ thuật mới quan niệm kiến trúc phải bắt đầu cải cách từ mặt hình thức như dùng sắt trang trí, dùng các đường cong lưu hoạt, giàu nhịp điệu … tạo ra vẻ đẹp mang đậm tính chất ngẫu nhiên, tính thực dụng và tính kinh tế trong kiến trúc. - Học phái Chicago quan niệm kiến trúc bắt đầu từ công lợi, căn cứ vào mục đích và yêu cầu của kiến trúc nhà cao tầng, những loại nhà làm việc và trụ sở công ty, nhà ở, khách sạn 14,16 20 tầng, đề ra các biện pháp giải quyết công năng, sử dụng các kiểu kết cấu và vật liệu mới thép và kính - Hội liên hiệp công tác Đức quan niệm kiến trúc bắt đầu từ kỹ thuật. Từ năm 1917 đến kiến trúc hiện đại phương Tây được chia làm các giai đoạn sau: - Giai đoạn I (từ 1917 – 1920): đây là giai đoạn ra đời những dấu hiệu dự báo cho việc hình thành một quá trình phát triển liên tục và ở mức cao hơn của nền kiến trúc hiện đại với các kiến trúc sư nổi tiếng như Le Corbusier, Mies van der Role, Frank Lloyd Wright… - Giai đoạn II (từ 1930 – 1939): Kiến trúc thay đổi triệt để, đây cũng là thời kỳ chủ nghĩa công năng phát huy ảnh hưởng rộng khắp trên thế giới và phong cách kiến trúc quốc tê lên ngôi với các kiến trúc sư danh tiếng như Alfred Roth, Junzo Sakakura… - Giai đoạn III (từ 1945 – 1960): từ năm 1949 xuất hiện trào lưu “hoàn thiện kỹ thuật”, đến năm 1958, hình thức kiến trúc thay đổi với sự tham gia của chủ nghĩa thô mộc. Các kiến trúc sư nổi tiếng như Kisho Kurokawa, Kenzo tange… Xuất hiện những xu hướng: chủ nghĩa biểu hiện, vị lai, kết cấu, hữu cơ, hình thức… - Giai đoạn IV (từ 1960 – 1986): đánh dấu bằng sự ra đời của chủ nghĩa cấu trúc – trào lưu tiên phong quan trọng. - Giai đoạn V (hai thập kỷ cuối thế kỷ XX): Kiến trúc hậu hiện đại lên ngôi . Tóm lại lịch sử kiến trúc Thế giới rất phức tạp và phong phú, với tốc độ nhanh hơn nhiều so với các thế kỷ trước, chịu ảnh hưởng rõ rệt của các cuộc cách mạng vĩ đại của nhân loại. 5 6 7 8 9 1.1.2. Sơ lược lịch sử kiến trúc VIệt Nam Kiến trúc Việt Nam có thể chia ra làm các giai đoạn loại nổi bật sau đây: + Kiến trúc cổ Việt Nam (h.1.17) Kiến trúc cổ truyền Việt Nam đa phần sử dụng kết cấu khung gỗ như nhà gỗ truyền thống Việt Nam kết hợp với các vật liệu bổ trợ khác như gạch, đá, ngói, đất, rơm, tre... Trong thể loại kiến trúc này, thực sự không có sự khác biệt hoặc phân chia hoặc khác biệt nhiều về kết cấu của các thể loại công trình khác nhau. Dựa trên đặc điểm cũng như tính chất của hệ kết cấu cũng như vật liệu này, trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam không thực sự tồn tại các công trình có kích thước lớn như ở các quốc gia khác. Trong suốt lịch sử, kiến trúc cổ truyền Việt Nam thực sự không có nhiều thay đổi hoặc có xuất hiện những trường phái như ở châu Âu. Vì là một quốc gia phải liên tục chịu đựng chiến tranh trải dài theo lịch sử, thời gian để hòa bình xây dựng rất ngắn, nên kiến trúc lớn hay bền vững tồn tại không có nhiều. Có thể phân loại kiến trúc Việt Nam ra các công trình hạng mục theo: Chức năng sử dụng: kiến trúc cung điện, tôn giáo (đình, chùa, miếu thờ...), văn hóa (bia, đền...), nhà ở dân gian,... Vật liệu xây dựng thì cũng ít có tính cách lâu dài, chỉ trừ các công trình công cộng: gạch, đá, gỗ quý (thiết mộc)... mà đa số dùng các vật liệu địa phương sẵn có như lá, tranh, tre, gỗ đẽo, đá kê nền cột, đất sét nung hoặc không nung, bùn trộn rơm,... Kết cấu: khung sườn gỗ, mộng và lỗ mộng (không dùng đinh), vĩ kèo gỗ đòn tay, rui mè, đòn vong, cột kê tán (không móng, cừ...) tùy theo điều kiện địa lý mà có thể nhà kết cấu nâng sàn, nửa nhà sàn nửa nền đất, hay trên nền đất, nhưng không có lầu hay nhiều tầng như 10 các nước khác. Mái nhà thường có độ dốc cao do hay dùng lá, tranh, ngói (dốc lớn hơn 45 độ). Trang trí: công trình công cộng thì thường lợp ngói (hoàng cung, đình, miếu...), mái công ở góc mái có trang trí đầu đao, rồng, cá,... chạm trổ hoa văn trang trí các đầu đà xà gồ gỗ, các hình tượng trang trí thường từ thú họ tứ linh (Long, Ly, Qui, Phượng) hay cọp, cá, ... Thiết kế bình đồ: công trình công cộng như chùa, đình thường có bình đồ dùng theo chiết tự Hán như nội công ngoại quốc, ... còn nhà ở thì thường là 3 gian, 2 chái, hình chữ đinh, nhà chính (nhà trên) và nhà phụ (nhà dưới) có sân nước (sân thiên tỉnh)... và thường không ngăn chia ra các phòng nhỏ như ở tây phương, 1 cửa chính và 1 cửa đi phụ và rất ít cửa sổ. Nhà ở miền Nam nhiều sông rạch nên phương tiện đi lại chính là xuồng nên công trình phụ như nhà để ghe xuồng thường ở mé sông (xẽo) hay ụ tàu, và phía ngoài nhà có chuồng trâu bò, còn kho lúa thì thường đặt trong nhà. Vật lý kiến trúc: thông gió tự nhiên, tường và mái nhà thường trùm kín nhà do mưa rất nhiều, hơn nữa cửa đi và cửa sổ mở rất ít do an ninh ngừa trộm cắp nên chiếu sáng tự nhiên rất tối và kém sáng sủa, nhà ở thường hướng nam (đón gió nồm thổi mát vào mùa hè) và 2 chái phụ ở 2 đầu nhà sẽ là hướng đông tây chống hơi nóng mặt trời sáng và chiều. Trồng cây: trước nhà trồng cau (cau để đón gió nam mát) sau nhà trồng chuối (lá chuối ngăn bớt gió bấc lạnh mùa đông). + Kiến trúc thuộc địa (h.1.18) Thể loại kiến trúc này được du nhập từ các nước phương Tây, cùng với sự xuất hiện của người Pháp tại Việt Nam vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Loại hình kiến trúc này phát triển song song với quá trình khai thác thuộc địa của người Pháp. Do đặc điểm của riêng của điều kiện địa lý, khí hậu khác biệt nên các phong cách kiến trúc châu Âu đã phải có những chuyển biến nhất định để hòa hợp với điều kiện Việt Nam. + Kiến trúc mới Thể loại kiến trúc này được hình thành từ giữa thế kỷ 20, sau khi nước Việt Nam thoát khỏi giai đoạn thuộc địa của thực dân Pháp. Dựa trên điều kiện lịch sử khác biệt, kiến trúc hai miền Nam và Bắc cũng phải chịu những ảnh hưởng nhất định. + Kiến trúc đương đại (h.1.19) Cùng với sự phát triển của kinh tế cũng như quá trình mở của hội nhập quốc tế sau giai đoạn đổi mới và sự du nhập nhiều luồng kiến trúc khác nhau vào Việt Nam đã hình thành nên một khuynh hướng kiến trúc mới. Vào giai đoạn của mở cửa, phong cách kiến trúc này phần nhiều mang tính lai tạp sao chép các đặc điểm kiến trúc nước ngoài còn mang tính hỗn loạn. Hiện nay, các kiến trúc sư Việt Nam vẫn đang lần tìm một con đường cho riêng họ. Tuy nhiên, từ năm 2003 đến nay một số trào lưu kiến trúc mới theo phong cách hiện đại đã được hình thành. Tuy chưa rõ nét nhưng đã một phần thể hiện được sự hội nhập với thế giới của các kiến trúc sư Việt Nam. Bên cạnh các hình thức thường thấy ngoài đường phố, công năng sử dụng cũng được nghiên cứu nghiêm túc hơn, tạo tiện nghi cho người sử dụng tốt hơn. 11 12 1.2. Khái niệm Kiến trúc: Kiến trúc là một nghệ thuật nhằm kết hợp cái đẹp với cái thực dụng để sáng tạo không gian sinh tồn cho con người. Hiểu theo nghĩa thực dụng thì kiến trúc thoả mãn nhu cầu của vật chất: nhà ở, cửa hàng, bến xe, bến cảng, nhà máy, xí nghiệp ..v..v. Hiểu theo nghĩa sáng tạo kiến trúc thoả mãn các nhu cầu văn hoá như: rạp hát, quảng trường, công viên, đền chùa, tháp, nhà thờ… Vậy kiến trúc có thể định nghĩa như sau: Kiến trúc là nghệ thuật kết hợp cái Đẹp với Khoa học và Kỹ thuật xây dựng tổ chức không gian – một trong những hoạt động sáng tạo quan trọng nhất - để nhằm thoả mãn những nhu cầu sinh hoạt văn hoá và tinh thần của con người, để đáp ứng những yêu cầu kinh tế, xã hội, chính trị. Như vậy, kiến trúc chính là sáng tạo không gian sống (hiểu theo nghĩa rộng) cho con người, bao gồm hệ thống công việc sau: + Quy hoạch vùng và thiết kế môi trường; + Thiết kế quy hoạch đô thị; + Thiết kế đơn thể và quần thể kiến trúc; + Thiết kế, trang trí nội thất và design; Nghệ thuật kiến trúc khác với các nghành nghệ thuật khác bởi ngoài là nghệ thuật biểu hiện, có tác dụng phản ánh thực tế thì kiến trúc còn là: + Kiến trúc là biện pháp tổ chức cuộc sống (h.1.20) ; + Kiến trúc là trung tâm văn hoá và tinh thần (h.1.21); + Kiến trúc là phương tiện giáo dục (h.1.22); + Kiến trúc là phương tiện thông tin (h.1.23); Kiến trúc luôn được các kiến trúc sư sử dụng là công cụ để cải tạo xã hội bởi: + Kiến trúc gắn liền với không gian, cấu trúc và vỏ bọc bên ngoài, với quy luật tổ hợp không gian, tỷ lệ, tỷ xích… + Kiến trúc được nhận thức quan chuyển động của không gian và thời gian; + Kiến trúc được thực hiện bởi các biện pháp kỹ thuật; + Kiến trúc phải phù hợp với một khung cảnh nhất định như môi trường, khí hậu, địa hình, địa lý, cảnh quan… Cùng với sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật xây dựng, con người đã sáng tạo nên các công trình Kiến trúc các công đa dạng, phong phú, tạo môi trường sống thiết thực hơn thỏa mãn các nhu cầu sử dụng ngày càng tăng của con người. 13 1.2.1 Các yếu tố tạo thành kiến trúc: Có 3 yếu tố tạo thành kiến trúc: + Yếu tố công năng (sử dụng tiện nghi) + Yếu tố kỹ thuật ( điều kiện vật liệu kết cấu, kỹ thuật xây dựng) + Yếu tố mỹ thuật (sự biểu cảm thẩm mỹ) 1.2.1.1 Yếu tố công năng Yếu tố công năng là yêu cầu tiện ích hay sự thích nghi đảm bảo cho quá trình sống nhằm đáp ứng nhu cầu khai thác và sử dụng công trình kiến trúc của con người một cách thuận tiện, hiệu quả cao. Đó là yêu cầu cơ bản của kiến trúc. Nếu tách khỏi yếu tố đầu tiên này thì sẽ không có kiến trúc. Nhu cầu sử dụng của con người rất phong phú và đa dạng từ nhu cầu làm việc, nghiên cứu, học tập đến nhu cầu vui chơi, giải trí; từ nhu cầu về vật chất đến nhu cầu về văn hoá tinh thần. Mỗi một nhu cầu sử dụng của con người trong cuộc sống đều gắn với một không gian khác nhau - tạo ra những yếu tố công năng đa dạng và phong phú gồm công năng vật chất (với hai yếu tố chức năng sử dụng và chức năng cấu trúc) và công năng tinh thần (với hai chức năng biểu hiện và thông tin). Ví dụ: nhà máy thuỷ điện phải đảm bảo khả năng phát điện, điều kiện an toàn lao động; bảo tàng phải đảm sự lưu thông luồng người, tránh chồng chéo, đảm bảo điều kiện vệ sinh, các công trình thuỷ lợi phải dẫn nước tốt… Tất cả các yêu cầu về công năng trong công trình kiến trúc đều nhằm mục đích cải thiện đời sống của con người tiện nghi hơn (h.1.24 đến h.1.27) Căn cứ vào yếu tố công năng mà kiến trúc được chia ra các loại hình cơ bản với những yêu cầu công năng không giống nhau, gồm 5 nhóm lớn: 14 + Nhà dân dụng gồm nhà ở, nhà công cộng như biệt thự, nhà công cộng, nhà liền kề, chung cư, trường học, bệnh viện… + Nhà công nghiệp bao gồm các loại nhà xưởng sản xuất thuộc lĩnh vực công nghiệp. + Công trình giao thông gồm các công trình đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, hầm, sân bay, bến cảnh… + Công trình thuỷ lợi bao gồm hồ chứa nước, đập, cống, trạm bơm, giếng, đường ống dẫn nước, kênh, công trình trên kênh, công trình kè bờ… + Công trình hạ tầng kỹ thuật gồm các công trình cấp thoát nước, nhà máy xử lý nước thải, công trình chiếu sáng đô thị… Yếu tố công năng của công trình kiến trúc sẽ thay đổi theo tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật, trình độ sản xuất, trình độ văn hoá, phong tục tập quán của mỗi dân tộc. Đời sống xã hội không ngừng nâng cao, nhu cầu vật chất của con người không ngừng tăng lên do đó yêu cầu công năng của công trình kiến trúc luôn thay đổi. Tuy nhiên từng loại công trình kiến trúc đều có những những tiêu chuẩn yêu cầu về công năng nhất định để tạo nên đặc thù riêng của từng kiểu công trình. Ví dụ như tổ chức không gian kiến trúc trong tháp cống khác trạm bơm, nhà máy thuỷ điện khác công trình cửa cống …. Ví dụ: Không gian kiến trỳc của tháp cống khác với trạm bơm (h.1.28, h.1.29): 15 Chính yếu tố công năng đóng vai trò quyết định hình thức, diện mạo, hình khối, cách thức tổ chức không gian của từng loại kiến trúc không giống nhau, đồng thời mang lại sự phong phú và thống nhất trong hình thức các loại công trình kiến trúc (h.1.32 đến h.1.35). Ví dụ: Hình thức kiến trúc của nhà làm việc khác nhà hát, 16 Cùng với sự phát triển của xã hội, của tiến bộ KHKT và nhu cầu của con người, yếu tố công năng luôn thay đổi và không ngừng đòi hỏi những yêu cầu mới, những giải pháp “không gian - hình khối” hợp lý hơn. Bởi vậy, yếu tố công năng được xem như mục đích của kiến trúc, kiến trúc không tôn trọng và thoả mãn công năng sẽ không có lý lẽ tồn tại, thiếu sức thuyết phục và sức sống bền vững. Như vậy, kiến trúc luôn gắn bó chặt chẽ với nhu cầu của cuộc sống con người, gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội. 1.2.2. Yếu tố kỹ thuật Yếu tố kỹ thuật là các điều kiện vật chất kỹ thuật, vật liệu, giải pháp kết cấu, bao gồm cả sự lựa chọn vật liệu xây dựng, hình thức kiến trúc, phương thức kỹ thuật thi công thích hợp để biến ý đồ tổ chức không gian hình khối trên bản vẽ thành công trình cụ thể (như nhà hát, công viên, nhà ở….) tạo ra các không gian phù hợp với yêu cầu công năng sử dụng. Yếu tố kỹ thuật đóng vai trò rất quan trọng trong sự hình thành kiến trúc. Có thể nói không có yếu tố này sẽ không thể có kiến trúc. Đây là các các yếu tố cần thiết và quan trọng để xây dựng được công trình: 17 + Vật liệu xây dựng rất phong phú và đa dạng từ những vật liệu truyền thống như gạch, đất nung, gỗ…. đến các vật liệu mới như kính, thép, vật liệu ứng lực trước, chất dẻo tổng hợp, bê tông cốt thép… (h.1.36) + Kết cấu của công trình gồm các kết cấu chịu lực và kết cấu bao che. Kết cấu chịu lực như kết cấu gạch, khung bê tông cốt thép, kết cấu gỗ… đảm bảo sự bền vững và ổn định của công trình còn kết cấu bao che làm nhiệm vụ vỏ ngăn che tạo không gian riêng biệt, cần phải đảm bảo các yêu cầu tiện nghi sinh hoạt vệ sinh và an toàn cho con người bằng các biện pháp tự nhiên và nhân tạo như che mưa che nắng, cách âm, cách nhiệt, lấy ánh sáng, chống ẩm, chống bụi, tạo lập các điều kiện vi khí hậu nội thất… Ứng với mỗi loại vật liệu thì có một kiểu kết cấu riêng, tuy nhiên người ta cũng có thể kết hợp các loại vật liệu khác nhau lại để tạo thành những loại kết cấu hỗn hợp: kết cấu gỗ – thép, kết cấu gạch – đá… + Phương pháp tổ chức thi công để hình thành nên các không gian – hình khối hoàn chỉnh, có điều kiện diễn ra được bên trong kiến trúc các quá trình hoạt động của con người. Phương pháp này rất phong phú và đa dạng. + Trang thiết bị nội thất như hệ thống chiếu sáng, thiết bị thông gió, điều hoà không khí, trang thiết bị làm việc, nhà bếp…những trang thiết bị này ảnh hưởng đến cả hình thức bên trong và bên ngoài của công trình. 18 Cùng với sự phát triển của KHKT, kiến trúc ngày càng thực hiện được nhiều ý tưởng táo bạo đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng cao của con người. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp vật liệu xây dựng – thừa hưởng kết quả nghiên cứu của nghành hoá vật liệu mà ngày nay vật liệu xây dựng rất phong phú và đa dạng đồng thời cũng tìm ra nhiều phương pháp tính toán, tổ hợp các hình thức kiến trúc hiện đại. Vì thế cấu trúc không gian, hình khối và hình thức mỹ thuật cũng phong phú hơn làm tăng khả năng sáng tạo của kiến trúc sư tạo ra các công trình có quy mô bề thế ổn định, bền vững về kinh tế. Ví dụ: Công nghệ bê tông đầm lăn sử dụng vật liệu tro bay và bê tông trọng lực đã thay đổi diện mạo công trình thuỷ điện (h.1.37, h.1.40). 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan