BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
--------------------
LÊ THỊ THÙY LINH
ẢNH HƯỞNG CỦA SỞ HỮU NƯỚC NGOÀI ĐẾN TÍNH
THANH KHOẢN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2013
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
------------------
LÊ THỊ THÙY LINH
ẢNH HƯỞNG CỦA SỞ HỮU NƯỚC NGOÀI ĐẾN
TÍNH THANH KHOẢN CỦA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ HẢI LÝ
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn ‘‘ẢNH HƯỞNG CỦA SỞ HỮU NƯỚC NGOÀI
ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM’’ là công trình nghiên cứu của chính tác giả, nội dung được đúc kết
từ quá trình học tập và các kết quả nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua, số
liệu sử dụng là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Luận văn được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Thị Hải Lý.
Tp. HCM, ngày 30 tháng 09 năm 2013
Lê Thị Thùy Linh
LỜI CẢM ƠN
Tôi chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu và Khoa Đào tạo Sau Đại học Trường
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
học tập và nghiên cứu trong suốt thời gian qua.
Tôi chân thành cảm ơn các Thầy Cô Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy cho tôi trong suốt quá trình tham gia học tập
tại Trường.
Tôi chân thành cảm ơn Cô - TS. Trần Thị Hải Lý đã tận tình chỉ bảo, góp ý
và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận
lợi nhất để tôi hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn.
Tác giả luận văn
Lê Thị Thùy Linh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
TỪ VIẾT TẮT
SGDCK
VN-Index
TP.HCM
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU
Ký hiệu
Diễn giải Tiếng Anh
S
Spread
D
Depth
PS
Price Sensitivity
K
Kurtosis
Sk
Sknewness
Ln
Natural logarithm
Maximum
Mean
Median
Minimum
FINST
Foreign ownership
ΔFINST
Change in foreign owner
L
Liquidity
Ask
Ask price
Bid
Bid price
Liquidity traders
Q
Quantity
Σ
PH
Highest price
PL
Lowest price
TOVER
Tunover ratio
R
Return
MCAP
Market capital
V
Trading value
Illiqid
Illiquidity
STT
KÝ HIỆU
1
Bảng 1
2
Bảng 2
3
Bảng 3A
4
Bảng 3B
5
Bảng 4A
6
Bảng 4B
7
Bảng 5A
8
Bảng 5B
9
Bảng 6
MỤC LỤC
TÓM TẮT.......................................................................................................................................
1.GIỚI THIỆU..................................................................................
2.TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY...................
3.DỮ LIỆU, PHƯƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ..
3.1Dữ liệu...........................................
3.2Phương pháp nghiên cứu .............
3.3Đo lường sở hữu của nhà đầu tư n
3.4Đo lường tính thanh khoản của cổ
3.5Các biến khác ...............................
3.6Mô hình nghiên cứu .....................
4.NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................................
4.1Thống kê mô tả ............................
4.2Kết quả nghiên cứu ......................
4.2.1 Ảnh hưởng của thanh khoản lên sở hữu nước ngoài ............
4.2.2 Ảnh hưởng của sở hữu nước ngoài lên thanh khoản ............
5.KẾT LUẬN ....................................................................................
5.1Các kết quả chính .........................
5.2Các hàm ý từ kết quả nghiên cứu .
5.2.1 Đối với hoạch định chính sách .............................................
5.2.2 Đối với đầu tư cổ phiếu ........................................................
5.3Hạn chế của đề tài và hướng phát
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................
PHỤ LỤC......................................................................................................................................
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu này được thực hiện nhằm kiểm định mối quan hệ nhân
quả giữa sở hữu nhà đầu tư nước nước ngoài và thanh khoản của thị trường
chứng khoán Việt Nam. Câu hỏi đặt ra là có hay không sở hữu nhà đầu tư
nước ngoài ảnh hưởng lên thanh khoản của thị trường chứng khoán Việt Nam
và ảnh hưởng này là tích cực hay tiêu cực?. Dữ liệu nghiên cứu là số liệu liên
quan cổ phiếu niêm yết tại SGDCK TP.HCM và SGDCK Hà Nội trong
khoảng thời gian từ ngày 01/01/2010 đến15/08/2013. Bộ dữ liệu gồm 703 cổ
phiếu giao dịch trên sàn chứng khoán TP.HCM và Hà Nội. Tổng số mẫu quan
sát được chia thành 5 nhóm dựa trên MCAP trung bình trong giai đoạn nghiên
cứu của từng cổ phiếu: mỗi nhóm gồm 140 mẫu, riêng nhóm 5 là 143 mẫu
quan sát. Tác giả tìm thấy kết quả nghiên cứu như sau:
Nhóm cổ phiếu có lợi nhuận cao thu hút nhà đầu tư nước
ngoài
hơn, trong khi biến động giá cao hơn làm giảm mong muốn nắm giữ cổ phiếu
của nhà đầu tư nước ngoài.
Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài giảm theo chênh lệch giá
mua bán và tăng theo chiều sâu. Điều này có nghĩa là nhà đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam có sở thích đầu tư vào các cổ phiếu có tính thanh khoản cao.
Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài hiện tại có tác động
tích
cực đến thanh khoản cổ phiếu trong tương lai. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ này tăng
đến một mức độ nhất định sẽ gây ra ảnh hưởng xấu đến thanh khoản trong
tương lai của cổ phiếu.
Từ khoá: sở hữu nhà đầu tư nước ngoài, thanh khoản
1
1.
GIỚI THIỆU
Thanh khoản cổ phiếu nhìn có vẻ rất đơn giản và dễ hiểu. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy không đơn giản, có rất nhiều khái niệm khác nhau được nêu
lên bởi những nhà nghiên cứu và những nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Robert F. Stambaugh (2002) đưa ra khái niệm về thanh khoản cổ phiếu
như sau: “Thanh khoản cổ phiếu là một khái niệm rất rộng và không rõ ràng,
nhưng nhìn chung nó phản ánh khả năng giao dịch một khối lượng lớn cổ
phiếu một cách nhanh chóng tại một mức phí thấp và không có sự dịch
chuyển về giá”.
Chiara Coluzzi, Sergio Ginebri và Manuel Turco (2008) cho rằng rất
khó hiểu và giải thích về thanh khoản cổ phiếu và đã đưa ra khái niệm như
sau: “Thanh khoản cổ phiếu là khả năng giao dịch mà không bị ảnh hưởng
đến giá của chúng”.
Như vậy, thanh khoản cổ phiếu là khả năng chuyển đổi cổ phiếu thành
tiền dễ
dàng với sự ảnh hưởng về giá không đáng kể và với một khoản phí tương đối
thấp.
Thanh khoản cổ phiếu được xem như một dòng máu của thị trường
chứng khoán, góp phần đảm bảo thị trường tài chính cũng như nền kinh tế vận
hành một cách thông suốt. Đây là một nội dung rất chung và trừu tượng vì bản
thân nó có nhiều tính chất khác nhau.
Nhìn chung, các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hoạt động giống
như các nhà đầu tư tổ chức bởi theo Coval & Moskowitz (1999); Dahlquist &
Robertsson (2001) tổ chức đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ lớn đầu tư nước
ngoài. Ở Việt Nam, có hạn chế quyền sở hữu nước ngoài, các nhà đầu tư nước
2
ngoài được phép sở hữu đến 30% trong các ngân hàng thương mại và 49%
trong các công ty niêm yết.
Như chúng ta biết, thị trường tài chính tại các nước đang phát triển
không lành mạnh như những nền kinh tế tiên tiến. Thiếu thanh khoản được
coi là một yếu tố quan trọng cho sự biến động cao trong thị trường mới nổi và
là một trở ngại đáng kể cho sự phát triển thị trường tài chính. Theo lý thuyết
được xây dựng bởi Stulz (1999a, 1999b), sự tham gia của các tổ chức tài
chính quốc tế lớn sẽ tăng tính thanh khoản thị trường trong nước thông qua
công bố thông tin tốt hơn và giao dịch sôi động hơn. Vì vậy, mở cửa thị
trường tài chính trong nước cho các nhà đầu tư quốc tế, là một phần của tự do
hóa tài chính, được mong đợi sẽ làm tăng tính thanh khoản của thị trường.
Từ năm 2010 đến năm 2013, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối
với cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam có sự tăng trưởng nhẹ từ
6.1% năm 2010 lên 6.7% năm 2013. Vậy sự tăng trưởng này có tác động như
thế nào đến tính thanh khoản của thị trường chứng khoán Việt Nam? Bài
nghiên cứu này nhằm tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi trên. Bài nghiên cứu tìm
hiểu tác động của sở hữu đầu tư nước ngoài đối với thanh khoản của thị
trường chứng khoán Việt Nam. Kết quả này hỗ trợ cho các chính sách mở cửa
đầu tư nước ngoài nhằm mục đích tăng cường thanh khoản của thị trường
chứng khoán. Ngoài ra, bởi vì tính thanh khoản vốn là một nội dung rất chung
và trừu tượng do bản thân nó có nhiều tính chất khác nhau. Nên kết quả này
rất có ý nghĩa đối với nhà đầu tư trong việc đánh giá và so sánh tính thanh
khoản của các loại cổ phiếu nhằm đưa ra quyết định sáng suốt khi đầu tư.
Kết cấu của bài nghiên cứu như sau:
-Phần 1: Giới thiệu
-Phần 2: Tổng quan các nghiên cứu trước đây
3
-Phần 3: Dữ liệu, phương pháp và mô hình nghiên cứu
-Phần 4: Nội dung và kết quả nghiên cứu
-Phần 5: Kết luận
4
2.
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Marshall E. Blume và Donald B. Keim (2012) đã sử dụng tài liệu
nghiên cứu của Thomson 13F về sở hữu cổ phiếu của các tổ chức tại thị
trường chứng khoán Mỹ từ năm 1982 đến năm 1995 và mở rộng mẫu thêm từ
năm 1996 đến năm 2010. Tác giả thấy rằng sự tham gia của các tổ chức tại thị
trường chứng khoán Mỹ trong những thập kỷ gần đây đóng vai trò ngày càng
tăng trong việc giải thích sự thay đổi trong thanh khoản của thị trường cổ
phiếu. Trong bài nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp của Amihud
(2002) để đo lường chỉ số thiếu tính thanh khoản. Phương pháp đo lường chỉ
số thể hiện thiếu tính thanh khoản của Amihud cho cổ phiếu i trong quý q
được tính như sau:
Illiqidiq =
Với ri,t là lợi nhuận hàng ngày cho cổ phiếu i vào ngày t; dolvolit là khối
lượng đô la giao dịch cho cổ phiếu i vào ngày t; và Niq là số ngày mà cổ
phiếu i được giao dịch trong quý q. Tác giả yêu cầu N lớn hơn bằng 40 ngày
để được lựa chọn vào mẫu đại diện.
Nghiên cứu này tìm thấy:
Số lượng các tổ chức sở hữu và số lượng giao dịch cổ phiếu quan
trọng hơn so với tỷ lệ sở hữu của các tổ chức trong việc giải thích biến động
của thanh khoản.
Số lượng các tổ chức sở hữu tăng là nhân tố giải thích cho sự
thiếu tính thanh khoản mạnh hơn đáng kể trong nửa cuối thời kỳ mẫu (19962010) so với giai đoạn đầu là (1982-1995).
Lilian Ng, Fei Wu, Jing Yu, và Bohui Zhang (2011) cho rằng quyền sở
5
của các tổ chức nước ngoài đã phát triển nhanh chóng như một bước tiến của
tự do hóa thị trường chứng khoán trong thập kỷ qua. Với sự hiện diện đáng kể
của các cổ đông chi phối nước ngoài, tác giả xem xét tác động trực tiếp của
quyền sở của các cổ đông chi phối nước ngoài lên thanh khoản cổ phiếu của
công ty với mẫu xem xét là các công ty quốc tế từ 40 quốc gia trong giai đoạn
từ năm 2002 đến năm 2007. Tác giả đo lường tính thanh khoản cổ phiếu bằng
bốn biện pháp khác nhau: chênh lệch giá mua bán có hiệu lực (effective
spread), chênh lệch giá mua bán niêm yết (quoted spread), chỉ số đo lường
tính thiếu thanh khoản của Amihud (2002) và doanh số của chứng khoán. Tác
giả đã ghi lại các hiệu ứng thanh khoản tiêu cực của quyền sở hữu nước ngoài
trong phần lớn các nước chọn mẫu. Tác giả tiến hành phân tích sâu hơn để tìm
ra những lời giải thích có thể cho tác động tiêu cực của cổ đông chi phối nước
ngoài đến thanh khoản chứng khoán. Nghiên cứu này tìm thấy:
Sự hiện diện của sở hữu tổ chức nước ngoài làm giảm số
lượng
cổ phiếu tự do giao dịch có sẵn cho công chúng, điều này cho thấy sở hữu của
các tổ chức nước ngoài làm suy giảm hoạt động giao dịch cổ phiếu.
Hơn nữa, tác động tiêu cực đến thanh khoản của sở hữu nhà đầu
tư nước ngoài thể hiện rõ nhất ở các công ty với môi trường thông tin không
lành mạnh và ở các công ty tại các nước có thông tin công bố chất lượng thấp.
Những phát hiện này phù hợp với quan điểm cho rằng sở hữu tổ chức nước
ngoài là nguyên nhân gây ra thông tin bất cân xứng và do đó không khuyến
khích sự tham gia của các nhà đầu tư lướt sóng dẫn đến giảm thanh khoản cổ
phiếu.
Prasun Agarwal (2007) xem xét mối quan hệ giữa quyền sở hữu của các
tổ chức và tính thanh khoản của cổ phiếu, tập trung chủ yếu vào lợi thế thông
tin của các tổ chức. Lợi thế thông tin của các tổ chức có thể ảnh hưởng đến
tính thanh khoản thông qua hai kênh: lựa chọn bất lợi và hiệu quả thông
6
tin. “Lựa chọn bất lợi” là kết quả của gia tăng thông tin bất cân xứng. Tuy
nhiên, “hiệu quả thông tin” lại là kết quả của sự cạnh tranh giữa các tổ chức.
Trong bài nghiên cứu, tác giả sử dụng bốn phương pháp sau đây để đo lường
tính thanh khoản: ước tính Gibbs (c_BMA) được đề xuất bởi Hasbrouck
(2004, 2006), Illiqid được đề xuất bởi Amihud (2002), chênh lệch giá mua
bán có hiệu lực (effective spread), chênh lệch giá mua bán niêm yết (quoted
spread). Tác giả tìm thấy bằng chứng của một mối quan hệ phi tuyến giữa
phần nắm giữ cổ phiếu công ty của các tổ chức và các biện pháp đo lường tính
thanh khoản cổ phiếu khác nhau. Bằng chứng về mối quan hệ phi tuyến thể
hiện hai đối tượng trên cùng tồn tại và tương tác với nhau. Kết quả của bài
nghiên cứu cho thấy quyền sở hữu tổ chức có tác động đến tính thanh khoản,
nó có tác động tích cực đến thanh khoản, đến một mức độ nhất định. Cuối
cùng, tác giả ghi nhận rằng đặc điểm tổ chức đầu tư, chẳng hạn điểm giới hạn
đầu tư và e ngại rủi ro, cũng ảnh hưởng đến thanh khoản. Thanh khoản giảm
bởi sự gia tăng các nhà đầu tư tổ chức với kế hoạch đầu tư dài hạn và e ngại
rủi ro. Kết quả đưa ra:
Sự hiện diện của tổ chức đầu tư và sự cạnh tranh giữa chúng
làm
tăng tốc độ truyền dẫn thông tin vào giá cả. Điều này giúp cải thiện tính thanh
khoản của cổ phiếu.
Việc tăng tỷ phần các tổ chức đầu tư nước ngoài cũng làm cho
thông tin bất cân xứng lớn hơn và các nhà giao dịch không có thông tin đối
mặt với rủi ro lựa chọn bất lợi, dẫn đến một sự suy giảm về tính thanh khoản.
Sở hữu của tổ chức đầu tư ảnh hưởng tích cực đến thanh
khoản.
Tuy nhiên, với mức độ sở hữu vượt quá 35% - 40%, tiếp tục gia tăng sở hữu
tổ chức đầu tư gây ra một sự sụt giảm tính thanh khoản (chênh lệch giá tăng).
Bác bỏ giả thiết rằng, quyền sở hữu tổ chức đầu tư không phải là
nguyên nhân gây ra tính thanh khoản, tác giả cho rằng những thay đổi trong
7
sở hữu tổ chức sẽ giúp dự đoán những thanh đổi về tính thanh khoản.
Hơn nữa, khi kiểm tra tính đồng nhất giữa các tổ chức về
tính
thanh khoản, tác giả phát hiện ra rằng:
Tính thanh khoản suy giảm khi gia tăng mở rộng đầu tư và chỉ tìm thấy
bằng chứng yếu về tính thanh khoản của cổ phiếu ảnh hưởng đến loại sở hữu
và việc mở rộng đầu tư của tổ chức đầu tư;
Nhà đầu tư càng tăng lo ngại rủi ro sẽ dẫn đến kết quả là tính thanh
khoản suy giảm cùng với suy giảm hiệu ứng hiệu quả thông tin.
Geert Bekaert, Campbell R. Harvey, Christian Lundblad (2007) xem
xét mối quan hệ giữa thanh khoản và lợi nhuận kỳ vọng. Tác giả tìm thấy có
một mối quan hệ ngày càng rõ về sự thay đổi một cách có hệ thống trong
thanh khoản đối với lợi nhuận kỳ vọng. Tác giả xem xét vấn đề này cho các
thị trường mà thanh khoản đặc biệt giữ vai trò quan trọng, như thị trường mới
nổi. Tác giả sử dụng mô hình VAR và phương pháp hồi qui cho 18 quốc gia
mới nổi. Kết quả đưa ra:
Có sự thay đổi một cách có hệ thống trong thanh khoản đối
với
lợi nhuận kỳ vọng.
Sự tự do hóa có thể làm tăng tính thanh khoản, và ảnh hưởng
đến
mối quan hệ giữa lợi nhuận và tính thanh khoản.
Nếu thanh khoản được định giá, một mô hình hai yếu tố thị
trường và rủi ro thanh khoản có thể là một mô tả tốt về lợi nhuận kỳ vọng.
Augusto de la Torre Juan Carlos Gozzi và Sergio L. Schmukler (2007)
xem xét sự phát triển của thị trường chứng khoán dưới tác động của toàn cầu
hóa.Trong thập kỷ qua, nhiều quốc gia đã thực hiện những cải cách quan
trọng để thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước. Những cải cách này
8
bao gồm tự do hóa thị trường chứng khoán, các chương trình tư nhân hóa, và
thiết lập các khung pháp lý và giám sát. Bất chấp những nỗ lực cải cách mạnh
mẽ, kết quả hoạt động của thị trường vốn ở một số nước đã gây thất vọng. Để
nghiên cứu xem cải cách đã có những tác động trên thị trường vốn, tác giả
phân tích tác động của sáu cải cách thị trường vốn nhằm phát triển thị trường
chứng khoán trong nước và quốc tế hóa. Kết quả đưa ra:
Phân tích thực nghiệm của tác giả cho thấy rằng những cải cách
giúp gia tăng vốn, thương mại, huy động vốn trên thị trường địa phương. Các
bằng chứng như vậy cho thấy những cải cách đang tác động tích cực đến phát
triển thị trường chứng khoán trong nước, trái với tuyên bố rằng chúng không
có hiệu quả.
Tuy nhiên, tác giả cũng thấy rằng quốc tế hóa tăng sau khi cải
cách, liên quan đến cả GDP và hoạt động thị trường trong nước. Điều này đi
ngược lại quan điểm cho rằng môi trường trong nước kém đẩy các công ty
tiếp cận thị trường quốc tế và do đó cải cách làm giảm động cơ hướng ngoại.
Thay vào đó, nó hỗ trợ cho giả thuyết rằng những cải cách làm cho doanh
nghiệp trong nước hấp dẫn hơn, cho phép họ tiếp cận thị trường quốc tế.
Phát hiện của tác giả cũng cho rằng toàn cầu hóa tài chính có
thể
gây ra một thách thức lớn cho các nhà hoạch định chính sách, cũng như những
nỗ lực của họ để thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán trong nước mà
dường như chuyển hoạt động nhiều hơn ở nước ngoài. Sự di cư của giao dịch
sang thị trường quốc tế có thể làm ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các
công ty vẫn còn hoạt động trong thị trường nội địa và khả năng huy động vốn
để thành lập công ty mới.
S. Ghon Rhee và Jianxin Wang (2009) xem xét mối quan hệ giữa sở
hữu của nhà đầu tư nước ngoài và thanh khoản của thị trường chứng khoán tại
Indonesia.Tác giả tìm thấy, từ tháng Một năm 2002 đến tháng Tám năm 2007,
9
tổ chức nước ngoài nắm giữ gần 70% giá trị cổ phiếu tự do chuyển nhượng
của thị trường chứng khoán Indonesia, hoặc 41% tổng vốn thị trường. So với
cùng kỳ, tính thanh khoản trên thị trường chứng khoán Jakarta cải thiện đáng
kể với mức trung bình biên độ giao dịch giảm hơn một nửa và độ sâu trung
bình tăng hơn gấp đôi. Bài nghiên cứu này có ba đặc điểm như sau:
Thứ nhất, sử dụng sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối với từng cổ
phiếu riêng lẻ như một thước đo trực tiếp sự hiện diện của nhà đầu tư nước
ngoài tại thị trường trong nước nhằm phân tích mối quan hệ giữa yếu tố nước
ngoài và tính thanh khoản.
Thứ hai, sử dụng ba phương pháp để đo lường thanh khoản gồm: biên
độ giao dịch, chiều sâu thị trường, và biến động giá của mỗi đơn vị giao dịch.
Thứ ba, kiểm tra quan hệ nhân quả Granger giữa sở hữu nước ngoài và
tính thanh khoản. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng cổ phiếu có tính
thanh khoản thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường mới nổi. Nghiên
cứu này khám phá quan hệ nhân quả này theohướng ngược lại bằng cách kiểm
tra xem sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài có tăng cường tính thanh
khoản thị trường hay không.
Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Sở hữu nhà đầu tư nước ngoài có tác động tiêu cực đến thanh
khoản trong tương lai: một sự gia tăng 10% quyền sở hữu tổ chức nước ngoài
trong tháng hiện tại có liên quan đến khoảng 2% tăng lên trong biên độ giao
dịch, 3% giảm trong chiều sâu, và 4% gia tăng trong độ nhạy cảm của giá
trong tháng tới, điều này thách thức quan điểm cho rằng các tổ chức nước
ngoài tăng tính thanh khoản cho thị trường mới nổi.
Tác giả cũng giải thích nguyên nhân vì sao tự do hóa tài chính
diễn ra đã làm thanh khoản thị trường chứng khoán Jakarta cải thiện đáng kể
10
- Xem thêm -