BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ TUYẾT HƢỜNG
ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ VĨ MÔ
LÊN TỶ SUẤT SINH LỢI CỔ PHIẾU TẠI CÁC
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN MỚI NỔI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ TUYẾT HƢỜNG
ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ VĨ MÔ
LÊN TỶ SUẤT SINH LỢI CỔ PHIẾU TẠI CÁC
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN MỚI NỔI
Chuyên ngành
: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Mã số
: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ UYÊN UYÊN
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ Kinh tế với đề tài “Ảnh hưởng của các
nhân tố vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi cổ phiếu tại các thị trường chứng khoán mới nổi”
là nghiên cứu thực sự của cá nhân, dưới sự hướng dẫn khoa học của cô TS. Nguyễn
Thị Uyên Uyên.
Các số liệu, những kết luận được trình bày trong luận văn này là trung thực và
chưa từng được công bố dưới bất kì hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về bài nghiên cứu của mình.
Sinh viên
Nguyễn Thị Tuyết Hường
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô TS. Nguyễn
Thị Uyên Uyên, đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô đã tận tình truyền đạt kiến thức cho
tôi trong cả khóa học vừa qua. Vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học
không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu luận văn mà còn là hành trang quý
báu để tôi bước vào đời một cách vững chắc và tự tin.
Cuối cùng, tôi xin kính chúc quý Thầy, Cô dồi dào sức khỏe và thành công
trong sự nghiệp.
TP HCM, ngày 25 tháng 11 năm 2013
SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Hường
MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
Tóm tắt...............................................................................................................................................................1
Chƣơng 1. Giới thiệu..............................................................................................................................2
1.1 Lý do chọn đề tài...................................................................................................................................2
1.2 Mục tiêu và vấn đề nghiên cứu.......................................................................................................3
1.3 Phương pháp nghiên cứu...................................................................................................................4
1.4 Bố cục của bài nghiên cứu................................................................................................................4
Chƣơng 2. Tổng quan các nghiên cứu trên trƣớc đây về ảnh hƣởng................6
của các nhân tố vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi cổ phiếu tại các TTCK mới nổi
Chƣơng 3. Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu.............................................................26
3.1 Dữ liệu......................................................................................................................................................26
3.2 Mô hình áp dụng trong bài nghiên cứu.....................................................................................26
3.3 Các giả thiết nghiên cứu...................................................................................................................29
Chƣơng 4. Nội dung và kết quả nghiên cứu........................................................................31
4.1 Tổng quan các nghiên cứu về đặc điểm TTCK mới nổi...................................................31
4.1.1
Đặc điểm chung của các TTCK mới nổi.............................................................................31
4.1.2
Đặc điểm riêng có của TTCK Việt Nam.............................................................................33
4.2 Đặc điểm TTCK các nước mới nổi đại diện trong giai đoạn nghiên cứu.................34
4.2.1
Đặc điểm về quy mô TTCK......................................................................................................34
4.2.2
Diễn biến giá cổ phần..................................................................................................................35
4.3 Kết quả nghiên cứu............................................................................................................................39
4.3.1
Thống kê mô tả...............................................................................................................................39
4.3.2
Kết quả hồi quy đa biến..............................................................................................................44
4.4 Kiểm định tính hiệu quả của mô hình APT............................................................................55
Chƣơng 5. Kết luận...............................................................................................................................57
Phụ lục................................................................................................................................................................60
Tài liệu tham khảo......................................................................................................................................102
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.
APT
2.
CPI
3.
FEX
4.
IPI
5.
JKSE
6.
KLSE
7.
M2
8.
MIR
9.
OIL
10. TTCK
11. VN – Index
12. XU100
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 4.1: Giá trị vốn hóa của các TTCK từ năm 2008 – 2012...............................................34
Bảng 4.2: Tỷ số giá trị vốn hóa/GDP của các TTCK từ năm 2008 – 2012.......................34
Bảng 4.3: Đặc điểm dữ liệu của các biến nghiên cứu ở các TTCK mới nổi.....................39
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị tại các TTCK mới nổi....................................42
Bảng 4.5: Kiểm định nghiệm đơn vị tại sai phân bậc một đối với biến MIR...................43
Bảng 4.6: Kiểm định đồng liên kết giữa biến MIR và JKSE...................................................44
Bảng 4.7: Kết quả hồi quy của mô hình APT cho các TTCK mới nổi................................45
Bảng 4.8: Tỷ lệ lạm phát của các nước mới nổi trong giai đoạn 2008 – 2012.................48
Bảng 4.9: Giá trị xuất - nhập khẩu của các quốc gia mới nổi trong giai đoạn.................50
từ năm 2008 – 2012.
Bảng 4.10: Kiểm định tính hiệu quả của mô hình APT tại các TTCK mới nổi..............55
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Biểu đồ 4.1: Biểu đồ chỉ số chứng khoán tại các TTCK mới nổi từ giai đoạn.................35
2008 – 2012
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu này tiến hành phân tích tác động của các biến kinh tế vĩ mô lên
thị trường chứng khoán (TTCK) mới nổi trong khuôn khổ lý thuyết kinh doanh chênh
lệch giá APT. Cụ thể, nghiên cứu này xem xét tác động của 6 nhân tố vĩ mô gồm chỉ số
giá tiêu dùng, lãi suất, chỉ số sản xuất công nghiệp, tỷ giá hối đoái, cung tiền và giá dầu
lên tỷ suất sinh lợi cổ phiếu tại 4 TTCK là Việt Nam, Indonesia, Malaysia và Thổ Nhĩ
Kỳ trong giai đoạn từ tháng 01/2008 đến tháng 06/2012. Bằng việc sử dụng phương
pháp OLS, kết quả cho thấy chỉ số giá tiêu dùng, tỷ giá hối đoái, giá dầu có ảnh hưởng
đáng kể đến tỷ suất sinh lợi cổ phiếu tại các TTCK này.
Từ khóa: Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá, các nhân tố kinh tế vĩ mô, tỷ suất
sinh lợi cổ phiếu, thị trường chứng khoán mới nổi.
-1-
CHƢƠNG 1 – GIỚI THIỆU
1.1
Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế hiện đại, TTCK đóng vai trò đặc biệt quan trọng tại hầu hết
các quốc gia. Thứ nhất, TTCK là phương tiện huy động vốn, khắc phục tình trạng
không cân xứng giữa nơi thừa và thiếu vốn thông qua việc chu chuyển vốn trung - dài
hạn từ người tiết kiệm sang người cần vốn. Trên phương diện chủ thể cần vốn, TTCK
giúp các doanh nghiệp huy động nguồn vốn lớn với chi phí thấp, chủ động lựa chọn đối
tượng, lượng vốn cần thiết cũng như hình thức huy động nhằm hỗ trợ cho hoạt động
sản xuất – kinh doanh được diễn ra thuận lợi. Trên phương diện nhà đầu tư, TTCK
cung cấp môi trường đầu tư lành mạnh thông qua tạo lập thêm các công cụ tài chính
mới, giúp mở rộng các cơ hội đầu tư và dễ dàng đa dạng hóa rủi ro hơn nhằm thực hiện
một quyết định đầu tư khôn ngoan. Còn đối với nền kinh tế, TTCK hoạt động tốt sẽ
góp phần điều hòa vốn giữa các ngành kinh tế, tạo động lực trong sản xuất kinh doanh,
tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều cho toàn bộ nền kinh tế. Từ đó, TTCK sẽ giúp
tăng trưởng kinh tế và góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Agrawalla &
Tuteja, 2007). Thứ hai, TTCK còn là công cụ thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của
quốc gia và chính sách vĩ mô khác vì giá chứng khoán là hình thức hiệu quả để phản
ánh tình hình hoạt động của các doanh nghiệp và các ngành kinh tế. Do đó, chính phủ
có thể dựa vào TTCK để sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường
này nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
Xuất phát từ vai trò thứ hai của TTCK được xem như phong vũ biểu của nền
kinh tế, từ đó việc đo lường ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô lên giá chứng khoán sẽ là
cần thiết đối với chính phủ, các nhà đầu tư và những chủ thể huy động vốn. Để phản
ánh mối quan hệ trên, mô hình APT với nền tảng cơ sở lí luận vững chắc đang trở
thành một trong những công cụ hiệu quả trong nghiên cứu. Mô hình kinh doanh chênh
lệch giá APT - được đề xuất bởi Ross (1976) - tiến hành xem xét tỷ suất sinh lợi của
-2-
danh mục chứng khoán được đa dạng hóa tốt thông qua một tập hợp các nhân tố vĩ mô
nền tảng. Một trong những đặc điểm đáng chú ý của mô hình này là các nhân tố vĩ mô
được lựa chọn sẽ không tuân theo một khuôn khổ cụ thể nào mà tùy thuộc nhà nghiên
cứu lựa chọn phù hợp cho từng mẫu nghiên cứu riêng biệt. Với rất nhiều nghiên cứu
trước đây xem xét ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô lên giá chứng khoán thông qua mô
hình này, kết quả cho thấy sự khác biệt trong mức độ và chiều ảnh hưởng với lý do bắt
nguồn từ đặc điểm của từng quốc gia trong những khoảng thời gian cụ thể.
Trong các TTCK trên thế giới, TTCK mới nổi trong những năm gần đây đã có
sự tăng trưởng khá tốt và thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân
là các TTCK mới nổi có tỷ suất sinh lợi hấp dẫn và một bộ phận nhà đầu tư dịch
chuyển sang các thị trường này do sự khó khăn của TTCK các nước phát triển như Mỹ
và các nước EU. Nhưng các TTCK này lại chứa đựng rủi ro dễ bị tổn thương hơn bởi
các yếu tố kinh tế vĩ mô từ nội tại quốc gia và các nhân tố vĩ mô toàn cầu. Điều này
khiến các nhà đầu tư quốc tế cũng phải cân nhắc kĩ lưỡng nhiều mặt hơn khi có ý định
đầu tư vào những thị trường này. Tuy nhiên, những tài liệu nghiên cứu đo lường ảnh
hưởng của các biến vĩ mô lên giá cổ phần tại các thị trường này, đặc biệt là giai đoạn kể
từ sau khủng hoảng tài chính tại Mỹ vào quý III năm 2007, vẫn còn khá hạn chế. Đồng
thời, câu trả lời cho từng quốc gia lại không rõ ràng, đòi hỏi phải tiến hành nghiên cứu
định lượng chi tiết. Đây chính là lý do tác giả chọn đề tài “Ảnh hưởng của các nhân tố
vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi cổ phiếu tại các thị trường chứng khoán mới nổi ” cho luận
văn của mình.
1.2
Mục tiêu và vấn đề nghiên cứu
Mục tiêu của bài nghiên cứu là xem xét tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô
lên tỷ suất sinh lợi cổ phiếu tại các TTCK mới nổi thông qua mô hình APT. Với mục
tiêu này, các vấn đề nghiên cứu được đặt ra là:
Thứ nhất, tìm hiểu xem những nhân tố vĩ mô nào đóng vai trò quan trọng đến tỷ
-3-
suất sinh lợi cổ phiếu tại các TTCK mới nổi trước đây? Từ đó, lựa chọn các nhân tố
trọng yếu để đưa vào mô hình, hỗ trợ đưa ra lời giải thích cho tỷ suất sinh lợi cổ phiếu
trong bối cảnh biến động của các nhân tố vĩ mô.
Thứ hai, tìm hiểu đặc điểm TTCK mới nổi và những đặc điểm riêng có tại
TTCK Việt Nam.
Thứ ba, xem các nhân tố vĩ mô nào tác động đến tỷ suất sinh lợi cổ phiếu tại các
TTCK mới nổi. Và tác động theo chiều hướng như thế nào? Liệu TTCK Việt Nam có
sự khác biệt nào trong phản ứng của tỷ suất sinh lợi cổ phiếu với những biến động vĩ
mô so với các TTCK còn lại hay không?
Thứ tư, liệu mô hình giả định gồm các nhân tố vĩ mô được đề xuất có phản ánh
hiệu quả tỷ suất sinh lợi cổ phiếu tại các TTCK mới nổi hay không?
1.3
Phƣơng pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng mô hình APT để kiểm định sự tác động của các nhân tố
vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi cổ phiếu.
Mẫu nghiên cứu bao gồm 4 chỉ số chứng khoán tại TTCK Việt Nam, Indonesia,
Malaysia, Thổ Nhĩ Kỳ, cùng với 6 biến vĩ mô gồm chỉ số giá tiêu dùng, tỷ giá hối đoái,
chỉ số sản xuất công nghiệp, cung tiền, lãi suất và giá dầu. Khoảng thời gian được xem
xét là từ tháng 01/2008 đến tháng 06/2012.
Dữ liệu trong bài nghiên cứu được trình bày dưới dạng dữ liệu chuỗi thời gian
hàng tháng. Tất cả các kết quả thống kê và hồi quy được thực hiện bằng phần mềm
Eviews.
1.4
Bố cục của bài nghiên cứu
Ngoài phần tóm tắt, danh mục bảng biểu, danh mục các từ viết tắt, phụ lục, tài
liệu tham khảo, luận văn gồm 5 chương, bao gồm:
-4-
Chương 1 trình bày lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu và phương pháp
nghiên cứu.
Chương 2 trình bày tổng quan các nghiên cứu trước đây về mối quan hệ từ các
nhân tố vĩ mô đến tỷ suất sinh lợi cổ phiếu tại các nước mới nổi.
Chương 3 trình bày phương pháp nghiên cứu, trong đó nêu rõ mẫu dữ liệu, mô
hình giả định và các giả thiết nghiên cứu.
Chương 4 trình bày đặc điểm thị trường, biến động giá của các TTCK mới nổi
này trong giai đoạn nghiên cứu và cung cấp kết quả hồi quy cùng kiểm định giả thiết.
Chương 5 trình bày kết luận của bài nghiên cứu.
-5-
CHƢƠNG 2 – TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY VỀ
ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC NHÂN TÔ VĨ MÔ LÊN TỶ SUẤT SINH LỢI
CỔ PHIẾU TẠI CÁC TTCK MỚI
Al-Sharkas (2004) trong bài nghiên cứu “The Dynamic Relationship Between
Macroeconomic Factors and the Jordanian stock market”, với mục tiêu xem xét mối
quan hệ dài hạn giữa giá cổ phần và các biến số vĩ mô trên TTCK Jordan. Biến phụ
thuộc là chỉ số TTCK Amman (Jordan) và các biến vĩ mô được sử dụng bao gồm chỉ số
giá tiêu dùng, cung tiền M2, chỉ số sản xuất công nghiệp, lãi suất tín phiếu kho bạc.
Các dữ liệu được thu thập hàng tháng trong giai đoạn từ tháng 03/1980 đến tháng
12/2003. Thông qua mô hình VECM, kết quả cho thấy sự gia tăng lạm phát và lãi suất
làm giảm đáng kể giá cổ phần. Trong khi, sự gia tăng chỉ số sản xuất công nghiệp,
cung tiền làm gia tăng đáng kể trong giá cổ phần.
Esen Erdogan và Umit Ozlale (2005) trong bài nghiên cứu “Effect Of
Macroeconomic Dynamics On Stock Return: The Case Of The Turkish Stock Exchange
Market”, với mục tiêu phân tích những ảnh hưởng của các biến vĩ mô lên TTCK Thổ
Nhĩ Kỳ. Biến phụ thuộc là chỉ số chứng khoán ISE, trong khi các biến đôc lập bao gồm
cung tiền M1, tỷ giá hối đoái danh nghĩa, chỉ số sản xuất công nghiệp, lãi suất được cụ
thể hóa hơn gồm lãi suất thị trường thứ cấp và lãi suất liên ngân hàng. Dữ liệu được thu
thập hàng tuần trong giai đoạn từ ngày 28/06/1991 đến 24/03/2000. Đầu tiên, thông
qua thống kê mô tả cho thấy sự phá giá đồng nội tệ dẫn đến giảm giá cổ phần trước
năm 1994 thì sau năm 1994, sự phá giảm đã làm gia tăng trong giá cổ phần. Cung tiền
không có ảnh hưởng đến giá cổ phần. Sự gia tăng chỉ số sản xuất công nghiệp làm gia
tăng giá cổ phần, ngoại trừ giai đoạn 1994 - 1997. Lãi suất gia tăng từng góp phần làm
gia tăng giá cổ phần trước khủng hoảng năm 1994 nhưng đã không tồn tại trong giai
đoạn sau đó. Sự gia tăng trong lãi suất liên ngân hàng có tác động làm giảm giá cổ
phần, ngoại trừ năm 1994. Thứ hai, thông qua mô hình GARCH với đặc điểm cho phép
-6-
phương sai thay đổi, được xem như một hàm của các sai số quá khứ và giá trị có độ trễ
của phương sai có điều kiện. Kết quả cho thấy các biến vĩ mô này có thể giải thích hiệu
2
quả tỷ suất sinh lợi cổ phiếu với R hiệu chỉnh khá cao 55%.
Yusof và Razali (2006) trong bài nghiên cứu “Macroeconomic Variables and
Stock Returns in the Post 1997 Financial Crisis: An Application of the ARDL Model”,
với mục tiêu khám phá mức độ mà các biến kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến hành vi giá cổ
phần của TTCK Malaysia trong giai đoạn sau khủng hoảng tài chính 1997. Biến phụ
thuộc là chỉ số Kuala Lumpur (KLCI), trong khi các biến độc lập là cung tiền M3, chỉ
số sản xuất công nghiệp, tỷ giá hối đoái thực hiệu lực (REER), lãi suất tín phiếu kho
bạc và bổ sung thêm biến dự trữ ngoại hối. Dữ liệu được thu thập trên cơ sở hàng tháng
từ tháng 05/1995 đến tháng 02/2006. Bài nghiên cứu thực hiện hồi quy lần lượt theo 2
dạng khác nhau. Dạng 1 là từ biến cung tiền, chỉ số sản xuất công nghiệp, dự trữ ngoại
hối đến KLCI và dạng 2 là từ lãi suất tín phiếu kho bạc, chỉ số sản xuất công nghiệp, dự
trữ ngoại hối đến KLCI. Đầu tiên, thông qua kiểm định đồng liên kết, kết quả cho thấy
sự gia tăng trong cung tiền và dự trữ ngoại hối sẽ làm tăng đáng kể trong chỉ số KLCI.
Sự gia tăng trong lãi suất làm giảm chỉ số KLCI nhưng không có ý nghĩa thống kê. Sự
gia tăng tỷ giá hối đoái làm giảm đáng kể chỉ số KLCI tại dạng 1, nhưng sự gia tăng tỷ
giá hối đoái làm giảm chỉ số KLCI và không có ý nghĩa thống kê được tìm thấy tại
dạng 2. Sự gia tăng trong chỉ số sản xuất công nghiệp sẽ làm giảm chỉ số KLCI nhưng
không có ý nghĩa thống kê tại dạng 1, nhưng lại làm tăng đáng kể chỉ số KLCI khi hồi
quy theo dạng 2. Thứ hai, thông qua mô hình phân phối có độ trễ tự hồi quy (ARDL),
kết quả cho thấy hệ số sửa lỗi mang dấu âm và có ý nghĩa cao đối với 2 dạng. Tốc độ
điều chỉnh ở 2 dạng là khá nhanh từ 26 - 65% /tháng. Sức giải thích của mô hình thông
2
qua R hiệu chỉnh là từ 16 - 51%.
Basher và Sadorsky (2006) trong bài nghiên cứu “Oil price risk and emerging
stock markets”, với mục tiêu nghiên cứu tác động của thay đổi giá dầu trên một số
lượng lớn các tỷ suất sinh lợi của TTCK mới nổi. Đây là một trong những nghiên cứu
-7-
toàn diện đầu tiên xem xét về tác động của rủi ro về giá dầu trên thị trường chứng
khoán mới nổi. Biến phụ thuộc là tỷ suất sinh lợi vượt trội, được định nghĩa là sự khác
biệt giữa tỷ suất sinh lợi của chỉ số cổ phiếu thông thường trừ lãi kép liên tục hàng
ngày từ T-bill Mỹ 3 tháng của 21 TTCK mới nổi gồm Argentina, Brazil, Chile,
Colombia, Ấn Độ, Indonesia, Israel, Jordan, Hàn Quốc, Malaysia, Mexico, Pakistan,
Peru, Philippines, Ba Lan, Nam Phi, Sri Lanka, Đài Loan, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, và
Venezuela. Biến độc lập là tỷ suất sinh lợi của giá dầu, tỷ suất sinh lợi của tỷ giá hối
đoái, tỷ suất sinh lợi vượt trội của chỉ số TTCK thế giới MSCI. Dữ liệu được thu thập
hàng ngày từ ngày 31/12/1992 đến ngày 31/10/2005. Bài nghiên cứu sử dụng phương
pháp OLS dữ liệu chéo với 6 mô hình không điều kiện và 6 mô hình có điều kiện. Điều
kiện ở đây được hiểu là thêm các biến giả cho các giá trị của biến. Kết quả cho thấy sự
gia tăng giá dầu làm gia tăng tỷ suất sinh lợi cổ phiếu đáng kể tại 5 trong 6 mô hình
không điều kiện. Đối với 6 mô hình có điều kiện, sự gia tăng giá dầu làm gia tăng đáng
kể tỷ suất sinh lợi cổ phiếu chỉ trong TTCK giá lên, trong khi ảnh hưởng tiêu cực và
không có ý nghĩa thống kê của sự gia tăng giá dầu lên tỷ suất sinh lợi cổ phiếu khi
TTCK giảm giá được tìm thấy tại 5 trong 6 mô hình.
Yusof và Majid (2007) trong bài nghiên cứu “Stock Market Volatility
Transmission in Malaysia: Islamic Versus Conventional Stock Market”, với mục tiêu
xem xét mức độ biến động của thị trường chứng khoán thông thường và Hồi giáo ở
Malaysia từ những biến động có điều kiện của chính sách tiền tệ. Các biến phụ thuộc là
chỉ số Kuala Lumpur (KLCI) và chỉ số Rashid Hussain Berhad Hồi giáo (RHBII),
trong khi các biến độc lập là cung tiền hẹp (M1), cung tiền mở rộng (M2), lãi suất tín
phiếu kho bạc, tỷ giá hối đoái và chỉ số sản xuất công nghiệp được thu thập hàng tháng
từ tháng 01/1992 đến tháng 12/2000. Nghiên cứu thực hiện thông qua mô hình VAR,
thực hiện lần lượt trên 2 TTCK thông thường với Hồi Giáo và với 2 dạng của cung tiền
(M1, M2). Kết quả nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của các biến vĩ mô lên 2 TTCK này
là khá tương đồng. Sự gia tăng cung tiền M1 và chỉ số sản xuất công nghiệp làm giảm
-8-
đáng kể chỉ số KLCI. Sự gia tăng trong tỷ giá hối đoái và lãi suất làm gia tăng đáng kể
chỉ số KLCI. Trong khi, dự trữ ngoại hối và cung tiền M2 không có ảnh hưởng đáng kể
lên chỉ số KLCI. Tuy nhiên, sức giải thích của mô hình khá thấp chỉ từ 14.9% đến
28.7%.
Robert Gay (2008) trong bài nghiên cứu “Effect Of Macroeconomic Variables
On Stock Market Returns For Four Emerging Economies: Brazil, Russia, India, And
China”, với mục tiêu xem xét ảnh hưởng của các biến vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi cổ
phiếu tại TTCK Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc (BRIC). Các biến phụ thuộc là 4
chỉ số chứng khoán tại 4 TTCK, trong khi 2 biến kinh tế vĩ mô gồm tỷ giá hối đoái
danh nghĩa và giá dầu. Dữ liệu cho các biến được thu thập trên cơ sở hàng tháng từ
tháng 03/1999 đến tháng 06/2006. Bằng cách hồi quy từ mô hình ARIMA Box Jenkins tại từng nước, kết quả cho thấy không tồn tại mối quan hệ đáng kể giữa tỷ giá
hối đoái, giá dầu lên chỉ số giá cổ phiếu tại các nước này. Tuy nhiên, sức giải thích
trong mô hình cho các nước này là khá thấp.
Abdul Rahman và Hanim Tafri (2009) trong bài nghiên cứu “Macroeconomic
determinants of Malaysia stock market”, với mục tiêu nghiên cứu sự ảnh hưởng giữa
các biến vĩ mô và giá cổ phiếu tại Malaysia thông qua mô hình VAR. Biến phụ thuộc là
chỉ số Kuala Lumpur (KLCI), trong khi các biến độc lập là chỉ số sản xuất công
nghiệp, tỷ giá hối đoái thực, cung tiền M2, dự trữ ngoại hối, lãi suất T-bill 3 tháng
được thu thập hàng tháng từ tháng 01/1986 đến tháng 03/2008. Kết quả chỉ ra rằng sự
gia tăng trong lãi suất, cung tiền và tỷ giá hối đoái sẽ làm giảm chỉ số KLCI. Trong khi,
sự gia tăng trong dự trữ ngoại hối và sản xuất công nghiệp làm gia tăng chỉ số KLCI.
Tất cả các hệ số đều có ý nghĩa, ngoại trừ biến lãi suất.
Jaafar Pyeman và Ismail Ahmad (2009) trong bài nghiên cứu “The Kuala
Lumpur stock market and economic factors: A generalto- specific error correction
modeling test”, với mục tiêu nghiên cứu mối quan hệ dài hạn và ngắn hạn giữa các chỉ
số lĩnh vực cụ thể trên TTCK Malaysia và các biến kinh tế vĩ mô. Các lĩnh vực được
-9-
đưa vào hồi quy gồm ngành xây dựng, nông nghiệp, sản phẩm tiêu dùng, tài chính, sản
phẩm công nghiệp, khai thác khoáng sản, khách sạn, bất động sản, thương mại - dịch
vụ. Các biến độc lập gồm GDP, chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất trái phiếu chính phủ, cung
tiền M1, quyền rút vốn đặc biệt, tỷ giá hối đoái danh nghĩa được thu thập hàng tháng từ
tháng 01/1993 đến tháng 12/2006. Kiểm định nhân quả Granger được thực hiện nhằm
đưa ra mối tương quan ngắn hạn giữa các chỉ số ngành và các nhân tố vĩ mô. Kết quả
cho thấy sự gia tăng trong các biến vĩ mô đều làm gia tăng trong chỉ số chứng khoán.
Tuy nhiên, ảnh hưởng đáng kể chỉ từ biến GDP và cung tiền tại một số ít ngành.
Husam Rjoub và Nil Gunsel (2009) trong bài nghiên cứu “The effects of
macroeconomic factors on stock returns: Istanbul Stock Market”, với mục tiêu xem xét
ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi tại TTCK Thổ Nhĩ Kỳ. Các biến
phụ thuộc là tỷ suất sinh lợi của 13 danh mục ngành, trong khi 6 biến độc lập bao gồm
cấu trúc kỳ hạn của lãi suất, lạm phát không kì vọng, phần bù rủi ro, tỷ giá hối đoái
thực, cung tiền M1 và tỷ lệ thất nghiệp. Các dữ liệu được thu thập hàng tháng từ tháng
01/2001 đến tháng 12/2005. Thông qua phương pháp ước lượng OLS, kết quả cho thấy
cấu trúc kì hạn của lãi suất có tác động cùng chiều lên tỷ suất sinh lợi của 9 danh mục.
Sự gia tăng trong lạm phát không kì vọng làm gia tăng tỷ suất sinh lợi của 13 danh
mục. Sự gia tăng trong phần bù rủi ro làm gia tăng tỷ suất sinh lợi của 8 danh mục. Sự
gia tăng trong tỷ giá hối đoái làm gia tăng tỷ suất sinh lợi của 2 danh mục và làm giảm
tỷ suất sinh lợi trong 6 danh mục. Sự gia tăng trong cung tiền làm gia tăng tỷ suất sinh
lợi của 7 danh mục. Các biến chỉ có ý nghĩa trong giải thích ở một số ít danh mục, đặc
biệt tỷ giá hối đoái thực và tỷ lệ thất nghiệp không có ảnh hưởng đáng kể lên bất kì
danh mục nào. Mức giải thích của mô hình là khá thấp từ 9.3% đến 30.9%.
Gazi Hassan và Al Hisham (2010) trong bài nghiên cứu “Can Macroeconomic
Factors Explain Equity Returns in the Long Run? The Case of Jordan”, với mục tiêu
kiểm định mối quan hệ dài hạn giữa các biến vĩ mô và tỷ suất sinh lợi cổ phiếu tại
Jordan. Biến phụ thuộc là chỉ số chứng khoán Jordan (MSCI), các biến độc lập là thặng
-10-
dư thương mại, dự trữ ngoại hối, cung tiền M2, giá dầu và lãi suất tiền gửi được thu
thập trên cơ sở hàng tháng từ tháng 03/1997 đến tháng 01/2010. Thông qua cách tiếp
cận đồng liên kết, kết quả cho thấy tồn tại mối quan hệ đồng liên kết giữa MSCI và các
biến vĩ mô. Thông qua mô hình ARDL với tiêu chí được tự lựa chọn, kết quả cho thấy
sự gia tăng trong thặng dư thương mại, dự trữ ngoại hối, giá dầu góp phần làm tăng chỉ
số MSCI. Sự gia tăng cung tiền làm tăng chỉ số MSCI. Lãi suất không có ảnh hưởng
đáng kể lên MSCI. Với tiêu chí AIC, sự gia tăng trong dự trữ ngoại hối và cung tiền
làm suy giảm đáng kể chỉ số MSCI. Sự gia tăng cung tiền làm tăng đáng kể chỉ số
MSCI. Dữ trữ ngoại hối và lãi suất không có ảnh hưởng đáng kể lên MSCI. Với tiêu
chí SBC, chỉ có dự trữ ngoại hối và cung tiền có ảnh hưởng đáng kể trong dài hạn đến
MSCI. Cụ thể, sự gia tăng trong dự trữ ngoại hối làm giảm chỉ số MSCI, trong khi sự
gia tăng trong cung tiền sẽ góp phần tăng chỉ số MSCI. Hay mức ảnh hưởng của các
nhân tố còn phụ thuộc khá lớn vào cách lựa chọn tiêu chí trong mô hình.
Ahmet Buyuksalvarci (2010) trong bài nghiên cứu “The Effects of
Macroeconomics Variable on Stock Returns: Evidence from Turkey”, với mục tiêu
nghiên cứu tác động của các biến kinh tế vĩ mô lên TTCK Thổ Nhĩ Kỳ trong khuôn
khổ lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá APT. Biến phụ thuộc là chỉ số ISE -100, trong
khi các biến độc lập bao gồm chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất tiền gửi, giá vàng, chỉ số sản
xuất công nghiệp, giá dầu, tỷ giá hối đoái danh nghĩa và cung tiền M2. Các dữ liệu
được thu thập trên cơ sở hàng tháng từ tháng 01/2000 đến tháng 03/2010. Thông qua
hồi quy OLS, kết quả cho thấy sự gia tăng trong chỉ số giá tiêu dùng làm gia tăng
nhưng không có ý nghĩa thống kê đến tỷ suất sinh lợi cổ phiếu. Sự gia tăng trong giá
vàng làm giảm tỷ suất sinh lợi cổ phiếu nhưng không có ý nghĩa thống kê. Sự gia tăng
trong lãi suất, chỉ số sản xuất công nghiệp, tỷ giá hối đoái và giá dầu làm giảm đáng kể
tỷ suất sinh lợi cổ phiếu. Sự gia tăng trong cung tiền làm gia tăng đáng kể tỷ suất sinh
lợi cổ phiếu.
-11-
Mohamed Asmy và Fouad Bin Amin (2010) trong bài nghiên cứu “Effects of
Macroeconomic Variables on Stock Prices in Malaysia: An Approach of Error
Correction Model”, với mục tiêu kiểm tra các mối quan hệ nhân quả ngắn hạn và dài
hạn giữa chỉ số Kuala Lumpur (KLCI) - Malaysia và biến kinh tế vĩ mô được lựa chọn
gồm chỉ số giá tiêu dùng, cung tiền M2 và tỷ giá hối đoái hiệu lực danh nghĩa trong
giai đoạn trước khủng hoảng (từ năm 1987 - 1995) và sau giai đoạn khủng hoảng (từ
năm 1999 - 2007) bằng cách sử dụng dữ liệu hàng tháng. Bằng kiểm định đồng liên
kết, kết quả cho thấy tồn tại mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa giá cổ phần và các biến
vĩ mô trong giai đoạn trước khủng hoảng nhưng không tồn tại quan hệ này trong giai
đoạn sau khủng hoảng. Kết quả cho thấy trong giai đoạn trước khủng hoảng, sự gia
tăng trong chỉ số giá tiêu dùng làm tăng giá cổ phần. Sự gia tăng trong cung tiền làm
giảm giá cổ phần. Sự gia tăng trong tỷ giá hối đoái làm tăng giá cổ phần. Còn trong
giai đoạn sau khủng hoảng, sự gia tăng trong tỷ giá hối đoái làm giảm giá cổ phần,
trong khi chiều hướng ảnh hưởng của các biến còn lại lên giá cổ phần là không thay
đổi. Thông qua mô hình sửa lỗi vector (VECM), kết quả cho thấy tốc độ điều chỉnh của
giá cổ phần trước khủng hoảng là 30.28% theo tháng, trong khi tốc độ điều chỉnh sau
khủng hoảng thì thấp hơn chỉ là 27.6% theo tháng.
Imdad Akash và Imdad Khan (2011) trong bài nghiên cứu “Co-integration and
causality analysis of dynamic linkage between economic forces and equity market: An
empirical study of stock returns (KSE) and macroeconomic variables (money supply,
inflation, interest rate, exchange rate, industrial production and reserves)”, với mục
tiêu nghiên cứu mối quan hệ ngắn hạn và dài hạn của các biến vĩ mô đến tỷ suất sinh
lợi cổ phiếu tại Pakistan. Biến phụ thuộc là tỷ suất sinh lợi của chỉ số KSE - 100, trong
khi các biến độc lập bao gồm cung tiền M2, chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất T-bill, tỷ giá
hối đoái danh nghĩa, chỉ số sản xuất công nghiệp và dự trữ ngoại hối. Các dữ liệu được
thu thập trên cơ sở hàng tháng từ ngày 01/01/1999 đến 31/12/2008. Thông qua kiểm
định đồng liên kết, kết quả cho thấy chỉ số KSE có quan hệ dài hạn với cung tiền, chỉ
-12-
- Xem thêm -