Phương pháp dạy Đạo đức tiểu học
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
ĐẠO ĐỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY ĐẠO ĐỨC
PHẦN 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC, ĐẠO ĐỨC HỌC
1.Một số vấn đề cơ bản về đạo đức
1.1. Khái niệm đạo đức:
Một trong những đặc trưng của loài người là con người sống trong cộng
đồng, xã hội với những mối quan hệ rất đa dạng với những người xung quanh. Để
xã hội tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân trong xã hội cần thực hiện những hành vi,
thể hiện thái độ phù hợp trên cơ sở lợi ích của cộng đồng, xã hội, lợi ích của người
khác và của bản thân mình. Những cách cư xử thích hợp được sự tán đồng của đa
số thành viên trong cộng đồng, xã hội và được nhiều người khác noi theo. Dần
dần, chúng sẽ trở thành những quy tắc ứng xử chung của những cá nhân trong
cộng đồng xã hội đó. Những hành vi cử xử theo các quy tắc này được coi là thiện,
là đạo đức. Những hành động ngược lại – có hại cho lợi ích cộng đồng, xã hội, của
người khác, bị coi là ác, vô đạo đức và do đó, bị lên án, phê phán.
Khi nói đến giá trị đạo đức, chỉ có thể là tích cực hoặc tiêu cực, không có
giá trị trung hòa. Có thể chia ra 4 loại hành động: hành động đạo đức, không thực
hiện hành động đạo đức, hành động vô đạo đức và không thực hiện hành động vô
đạo đức. Trong thực tế cuộc sống, khó có thể nói một con người là hoàn toàn đạo
đức hay vô đạo đức. Vì vậy, đánh giá một con người là đạo đức hay vô đạo đức là
việc rất khó, phức tạp. Nói chính xác hơn, đánh giá một hành động là đạo đức hay
không, dễ hơn là đánh giá đạo đức của con người nói chung.
Đạo đức của con người biểu hiện ở năng lực hành động tự giác vì lợi ích
của người khác và lợi ích của cộng đồng, xã hội, phù hợp với những quy định,
những chuẩn mực đạo đức xã hội. Đạo đức xã hội là tổng hợp những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực được xã hội thừa nhận và đòi hỏi các thành viên thực hiện sao
cho phù hợp với lợi ích của xã hội, cộng đồng, bản thân, nhằm đảm bảo sự tồn tại
và phát triển của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con
người với cộng đồng, xã hội.
-1-
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, có tác dụng điều chỉnh
hành vi của con người trên cơ sở sự đối lập thiện và ác. Đặc trưng của đạo đức là
nó phản ánh tồn tại xã hội bằng các quy tắc, chuẩn mực về lối ứng xử giữa con
người với các thành viên trong xã hội và xã hội nói chung liên quan đến lợi của
con người, cộng đồng, xã hội.
Đạo đức của con người còn mang tính tự giác. Sự đánh giá của cá nhân về
mối quan hệ giữa lợi ích của mình với lợi ích của những người xung quanh, của
cộng đồng, xã hội có tác dụng định hướng cho con người hành động.
Sự đánh giá biểu hiện qua thái độ của chủ thể liên quan đến một quan hệ
xác định – tích cực hay tiêu cực, tán thành hay phản đối, chấp nhận hay phủ nhận.
Đạo đức của con người thể hiện qua hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức do ý
thức đạo đức quy định, khi có sự thống nhất giữa hành vi và ý thức. Trong thực tế,
không phải điều đó luôn luôn xảy ra, đặc biệt là trong trường hợp có sự xung đột
giữa lợi ích cá nhân với lợi ích người khác và với lợi ích cộng đồng, xã hội.
1.2. Chức năng của đạo đức:
1.2.1. Chức năng nhận thức:
Đạo đức giúp con người nhận thức về thế giới xung quanh liên quan đến
cách ứng xử của mình với người khác, với cộng đồng, xã hội. Với nhận thức đúng
đắn, con người biết được sự cần thiết của việc thực hiện hành vi đạo đức phù hợp,
những hành vi, việc làm được khuyến khích, nhận được sự đồng tình của những
người xung quanh, của cộng đồng, xã hội; những hành vi bị lên án…
Đạo đức giúp con người hiểu được vai trò của đạo đức trong sự phát triển
xã hội, trong việc mang lại hạnh phúc cho cá nhân, cho gia đình và cả xã hội nói
chung; những phẩm chất đạo đức mà mỗi con người chân chính cần rèn luyện.
Các cá nhân trong xã hội nhận thức không như nhau. Nói cách khác, chức
năng nhận thức của đạo đức được thực hiện qua quá trình giáo dục và tự giáo dục,
trải nghiệm cuộc sống của từng cá nhân.
-2-
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
Nhận thức đúng đắn có tác dụng định hướng, điều chỉnh hành vi và giúp
con người đánh giá hành vi của người khác và hành vi của bản thân một cách
khách quan.
1.2.2. Chức năng định hướng, điều chỉnh hành vi của đạo đức:
Đạo đức giúp con người hành động đúng trong các tình huống khác nhau
trong cuộc sống hằng ngày của mình sao cho không làm tổn lợi ích của những
người xung quanh, của cộng đồng, xã hội.
Khi mình làm điều chưa phù hợp với các quy tắc đạo đức, con người tự
điều chỉnh hành vi của mình
Khi làm được việc tốt, con người tiếp tục thực hiện hành vi tương tự.
Sự định hướng hành vi của đạo đức phụ thuộc phần lớn vào nhận thức, sự
điều chỉnh phụ thuộc vào sự đánh giá của nó (từ xã hội và từ bản thân ).
1.2.3. Chức năng đánh giá của đạo đức:
“Thước đo” cơ bản của sự đánh giá này là những quy tắc, chuẩn mực đạo
đức, xã hội.
Đánh giá từ xã hội có thể là khen ngợi, đồng tình, hay ngược lại, lên án, phê
phán.
Đánh giá từ phía bản thân là “tòa án lương tâm”.
Đạo đức còn giúp con người đánh giá hành vi của những người khác.
2. Đạo đức học là một khoa học
2.1. Đối tượng của đạo đức học:
Vào thế kỉ thứ III trước Công nguyên, Aristote dùng èthica để chỉ ngành Đạo
đức học, tên gọi này được dùng đến ngày nay.
Đạo đức học nghiên cứu những nguyên tắc, chuẩn mực, quy tắc về cách ứng
xử, những tập quán, tục lệ thể hiện mối tương quan giữa con người với nhau, giữa
con người với xã hội, xác định những quy luật nảy sinh, tồn tại, phát triển, chúng
làm rõ bản chất đạo đức trong xã hội loài người. Nói cách khác, Đạo đức học là
khoa học nghiên cứu về đạo đức. Do đó, tất cả những gì liên quan đến đạo đức
điều là đối tượng nghiên cứu của Đạo đức học.
-3-
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
Cụ thể Đạo đức học nghiên cứu:
- Các học thuyết về đạo đức của các nhà lí luận về đạo đức, trong đó, coi
trọng việc nghiên cứu các khái niệm, các quan điểm, các nguyên tắc, các chuẩn
mực đạo đức…
- Sự khác nhau cơ bản giữa đạo đức về ý thức, quan hệ, thực tiễn đạo đức ở
các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, từ đó, xác định tính quy luật của sự xuất
hiện, thay đổi, phát triển đạo đức, đặc biệt về sự tác động qua lại giữa tồn tại xã
hội và đạo đức.
- Dự báo sự phát triển đạo đức xã hội tương lai – đạo đức trong nền kinh tế
thị trường, trong nền kinh tế tri thức, trong xu thế toàn cầu hóa…
2.2. Một số phạm trù đạo đức học cơ bản:
2.2.1. Thiện và ác:
Cái thiện là cái tốt lành, cái có lợi, có ích, mang lại những điều tốt đẹp cho
xã hội, cộng đồng, con người, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Nó phù hợp với chuẩn
mực đạo đức xã hội, được bộc lộ qua hành động, việc làm trong thực tiễn cuộc
sống.
Cái ác là cái xấu, cái có hại, mang lại nhiều điều đau khổ cho con người, có
khi còn gây ra sự bất ổn trong cộng đồng, xã hội, chống lại sự tiến bộ xã hội,
chống lại loài người nên bị lên án, phê phán. Nó được biểu hiện không chỉ qua
hành vi cụ thể, mà có khi được thể hiện qua suy nghĩ, ý nghĩ, động cơ xấu xa, ích
kỉ, hèn hạ…
Cái thiện và cái ác luôn biến đổi theo sự phát triển của xã hội loài người, và
mỗi một dân tộc, một giai cấp, xã hội…đều có quan niệm của mình về cái thiện và
cái ác.
Ở nước ta, theo các giai đoạn lịch sử, quan niệm về cái thiện và cái ác cũng
thay đổi: Cái thiện ngày càng được hiểu một cách “cởi mở” hơn, biểu hiện đa dạng
hơn. Cái thiện lớn nhất của đất nước ta hiện nay là biết đặt quyền lợi, lợi ích của
dân tộc, của nhân dân lên trên hết. Ngược lại, những gì gây cản trở, bất lợi, có hại
cho quá trình đạt mục tiêu trên điều được coi là ác.
-4-
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
Việc đánh giá một hành vi của con người là thiện hay ác không chỉ phụ
thuộc vào kết quả mà còn liên quan đến mục đích, động cơ, phương tiện, điều kiện
thực hiện…Hành vi được đánh giá là thiện hay ác cụ thể như sau:
- Động cơ tốt, kết quả tốt – được coi là thiện.
- Động cơ tốt, kết quả xấu – không được coi là ác.
- Động cơ xấu, kết quả tốt – không được coi là thiện.
- Động cơ xấu, kết quả xấu – được coi là ác.
Trong thực tiễn cuộc sống, việc xác định một hành vi là thiện hay ác hoàn
toàn không dễ dàng vì rất khó nhận ra động cơ, mục đích ẩn sau mỗi hành vi. Hơn
nữa, ngoài động cơ, mục đích tốt còn cần điều kiện, phương tiện thực hiện
Lí tưởng cao đẹp của loài người là xây dựng một xã hội văn minh mà trong
đó cái thiện ngự trị tuyệt đối.
2.2. 2. Nghĩa vụ:
Nghĩa vụ là thực hiện trách nhiệm của mình vì lợi ích chung khi con người
tham gia các mối quan hệ nhóm, tập thể khác nhau.
Trong thực tiễn cuộc sống, mỗi người có vai trò khác nhau trong xã hội nên
nghĩa vụ của các công dân là có thể không giống nhau.
Khả năng xảy ra trường hợp con người phải đồng thời thực hiện một số
nghĩa vụ khác nhau nên cần phải lựa chọn cách giải quyết phù hợp.
Trong cuộc sống ngoài nghĩa vụ đạo đức, con người phải thực hiện nhiều
nghĩa vụ pháp lí. Điểm chung của hai nghĩa vụ là điều nhằm định hướng, điều
chỉnh hành vi và hoạt động của con người phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
Song, nghĩa vụ đòi hỏi công dân phải tôn trọng, thực hiện pháp luật hiện hành.
Nghĩa vụ đạo đức và nghĩa vụ pháp lí có mối quan hệ khăng khít với nhau –
đều đóng góp vào việc giữ gìn kỉ cương và phát triển xã hội. Nghĩa vụ đạo đức
thúc đẩy con người thực hiện nghĩa vụ pháp lí… Nghĩa vụ pháp lí là biểu hiện của
việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức… Xã hội càng văn minh, tiến bộ thì nghĩa vụ
pháp lí càng được chuyển hóa thành nghĩa vụ đạo đức.
-5-
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
2.2.3. Lương tâm:
- Lương tâm là gì? Lương tâm là tiếng nói bên trong chỉ dẫn, thôi thúc con
người làm những điều thiện, theo nghĩa vụ của mình và phê phán, ngăn cản con
người làm điều ác.
- Khi con người thực hiện hành vi mà do sợ bị trừng phạt hay xấu hổ trước dư
luận xã hội tức là đã ý thức được việc mình làm có phù hợp với chuẩn mực đạo
đức xã hội hay không và lường trước được những hình phạt, búa rìu dư luận đối
với mình. Thật vậy, đó chưa phải là hành vi có lương tâm nhưng rất có thể là cơ sở
ban đầu để con người hình thành nên lương tâm.
- Xấu hổ với bản thân hay tự xấu hổ là trạng thái tâm lí khi con người không
hài lòng với chính mình về việc mình đã không làm theo lẽ phải hay đã làm điều
ác. Rất có thể việc đó sẽ không có ai biết nhưng con người vẫn thấy ân hận, day
dứt và thầm hứa sẽ không tái phạm những hành vi tương tự. Đây là bước đầu của
lương tâm.
- Lương tâm, theo đúng nghĩa của từ này, xuất hiện trong suốt toàn bộ quá trình
thực hiện hành vi của con người - từ khởi đầu cho đến khi kết thúc: anh ta thực
hiện được hành vi theo lương tâm mách bảo cùng kết quả tốt đẹp và cắn rứt lương
tâm khi hành vi mong muốn không thực hiện được hay kết quả hành vi đó không
được như dự kiến.
- Lương tâm có ý nghĩa to lớn trong đời sống đạo đức của con người vì nó giúp
con người tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với các
chuẩn mực đạo đức xã hội, làm tròn nghĩa vụ đạo đức của mình. Lương tâm giúp
con người vượt qua khó khăn, đặc biệt là vượt qua chính mình để làm điều thiện,
không làm những điều ác, giữ gìn được nhân cách cao thượng, dù ở hoàn cảnh
nào.
- Người không có lương tâm thường làm những việc bất nhân, bất nghĩa, vô
đạo đức miễn là mang lại lợi ích, dục vọng thấp hèn của mình. Họ còn sống giả
dối, giả nhân , giả nghĩa, có khi rất nguy hiểm cho xã hội.
-6-
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
2.2.4. Hạnh phúc:
Hạnh phúc là gì?
- Theo quan niệm truyền thống, hạnh phúc con người gắn liền với cuộc sống
gia đình – có một gia đình êm ấm, vợ chồng yêu thương nhau, con cái khỏe mạnh,
ngoan ngoãn, học giỏi, kinh tế sung túc,… Khi đó, con người có cảm giác vui
sướng, phấn chấn, thỏa mãn về những điều mình mong muốn đã đạt được.
- Theo nghĩa rộng, hạnh phúc là cảm giác về sự khoan khoái của tồn tại, khi
những nhu cầu cơ bản của mình được thỏa mãn.
- Những nhu cầu cơ bản của con người gồm nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh
thần:
+ Nhu cầu vật chất: thức ăn, nước uống, quần áo,… Nhu cầu vật chất là có
giới hạn, nếu vượt quá giới hạn, con người có thể không còn cảm thấy sung sướng
mà còn cảm thấy khó chịu, thậm chí nguy hiểm: ăn quá no gây bội thực, gây bệnh,
…Vật chất chưa hẳn mang lại hạnh phúc cho con người, chẳng hạn: nhiều người
có cuộc sống giàu sang, đầy đủ,… là nhờ những cách làm giàu phi pháp, điều ác
thì lại càng không có hạnh phúc, vì họ không có một tinh thần lành mạnh, không
có sự thanh thản lương tâm.
+ Nhu cầu tinh thần: hiểu biết về thế giới xung quanh, thưởng thức và sáng
tạo ra cái đẹp,… Nhu cầu tinh thần của con người là không có giới hạn, khát vọng
về chân lí, đạo đức, thẩm mĩ là vô cùng và chúng chỉ mang lại những xúc cảm tích
cực mà thôi. Hạnh phúc thật sự là phải biết sẵn sàng hi sinh nhu cầu vật chất để
thỏa mãn nhu cầu tinh thần; nhu cầu tinh thần là yếu tố cơ bản tạo nên hạnh phúc
của con người, trong đó, nhu cầu đạo đức chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Vì
trong cuộc sống của mình không ai thoát được mối quan hệ đạo đức: với người
xung quanh, với công việc, với xã hội,… Hạnh phúc thật sự chỉ đến với những
người có đạo đức: làm việc thiện, điều tốt,…
- Hạnh phúc của con người vừa mang tính chủ quan, vừa mang tính khách
quan:
-7-
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
+ Tính chủ quan: mỗi một con người có quan niệm riêng của mình về hạnh
phúc, có điều kiện và khả năng của mình để đạt được những nguyện vọng nhu cầu
cá nhân. Chẳng hạn: đối với người này hạnh phúc là có gia đình yên ấm, con cái
tiến bộ, việc làm ổn định,… Nhưng đối với người khác thì các yếu tố trên chưa
làm thỏa mãn, phải có xe ô tô đắc tiền, vợ đẹp, con cái học giỏi, du lịch nước
ngoài,… Để thỏa mãn nhu cầu của mình, có người rất nỗ lực, có ý chí vươn lên
quyết tâm “đấu tranh”, có kẻ thì sống theo kiểu “há miệng chờ sung”,…
+ Tính khách quan: những nhu cầu của con người và việc đáp ứng chứng phụ
thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội và quan niệm về hạnh phúc cũng thay đổi
theo sự phát triển kinh tế - xã hội; sự đánh giá của xã hội về hạnh phúc của các cá
nhân. Chẳng hạn: khó có thể cho rằng gia đình một người mà phải suốt ngày phải
đi làm thuê, cuốc mướn, không đủ ăn, đủ mặc,… là hạnh phúc và cũng không thể
nói một người con gái bất hạnh vì mơ ước lấy chồng triệu phú mà không thành,…
-8-
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
PHẦN II: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN ĐẠO ĐỨC Ở TIỂU HỌC
1. Vị trí, mục tiêu, đặc điểm môn Đạo đức:
1.1. Vị trí môn Đạo đức:
1.1.1. Môn Đạo đức là một môn học gắn bó mật thiết với quá trình giáo dục ở tiểu
học:
- Quá trình giáo dục đạo đức ở tiểu học được thực hiện bằng hai con đường
thống nhất với nhau: con đường tổ chức các hoạt động giáo dục và con đường dạy
học các môn học, trong đó có môn Đạo đức.
- Là một môn học có chức năng riêng biệt là giáo dục đạo đức cho học sinh
tiểu học, môn Đạo đức với nét đặc thù về mục tiêu, nội dung, phương pháp và
hình thù tổ chức hướng dẫn có khả năng to lớn góp phần thực hiện quá trình giáo
dục đạo đức cho học sinh tiểu học.
1.1.2. Môn Đạo đức là một môn học trong hệ thống các môn học ở Tiểu học, có
tác dụng định hướng cho các môn học khác về giáo dục đạo đức:
- Bất kì môn học cũng phải được thực hiện cả nhiệm vụ giáo dục.
- Môn Đạo đức với những nét đặc thù của mình sẽ định hướng giáo dục giáo
dục cho các môn học khác.
- Giáo dục đạo đức qua các môn học khác nhau làm cho quá trình giáo dục đạo
đức cho học sinh tiểu học liên tục, luôn được củng cố, nên càng có hiệu quả.
1.1.3. Môn học có mối quan hệ mật thiết với con đường giáo dục qua hoạt động
ngoài giờ lên lớp:
- Môn Đạo đức định hướng cho việc tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Nhờ có những tri thức, kĩ năng, thái độ được hình thành qua môn Đạo đức,
học sinh có khả năng thực hiện được các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Việc tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp có tác dụng củng cố, khắc sâu, mở
rộng kết quả dạy học môn Đạo đức.
1.1.4. Môn Đạo đức ở tiểu học tạo tiền đề và cơ sở cho học sinh học tiếp nối môn
Giáo dục công dân ở Trung học cơ sở:
-9-
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
- Môn Đạo đức ở tiểu học giúp cho học sinh dần dần nắm được những tri thức
sơ đẳng ngày càng có tính khái quát về những chuẩn mực hành vi đạo đức. Đến
cuối bậc học, ở các em đã hình thành được những khái quát sơ đẳng cần thiết.
- Những khái quát sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi này tạo nên tiền đề và
điều kiện để các em học tiếp môn Giáo dục công dân ở Trung học cơ sở với nội
dung bao gồm những khái niệm về những phẩm chất đạo đức và những bổn phận
đạo đức và pháp luật.
1.2. Mục tiêu môn Đạo đức:
Những điểm cần chú ý:
- Đây là kết quả mong muốn cần đạt được ở học sinh qua quá trình dạy học
môn Đạo đức (mà không phải ở giáo viên, chương trình hay tài liệu dạy học môn
Đạo đức,…).
- Những mục tiêu này có tác dụng định hướng cho việc tổ chức quá trình dạy
học môn Đạo đức để đạt được những kết quả trên.
- Chúng là một căn cứ quan trọng để đánh giá kết quả dạy môn Đạo đức.
- Những mục tiêu này phản ánh các khía cạnh khác nhau của những chuẩn mực
hành vi đạo đực – hiểu biết về chuẩn mực, thái độ liên quan và việc thực hiện
chuẩn mực đó.
1.2.1. Mục tiêu về tri thức:
Sau khi học môn học môn Đạo đức, học sinh nêu được những tri thức cơ bản,
cần thiết về các chuẩn mực hành vi đạo đức phù hợp lứa tuổi, phản ánh các mối
quan hệ hằng ngày thường gặp của các em, từ đó, bước đầu, các em có niềm tin
đạo đức đúng đắn.
Tri thức đạo đức là cơ sở của việc hình thành niềm tin, nhờ đó học sinh mới có
được ý thức đạo đức tự giác.
Những tri thức có thể bao gồm:
- Yêu cầu của chuẩn mực hành vi.
- Sự cần thiết thực hiện chuẩn mực hành vi:
- 10 -
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
+ Ý nghĩa: mối quan hệ giữa học sinh và đối tượng liên quan đến chuẩn
mực.
+ Tác dụng: những lợi ích, điều tốt đẹp mang lại cho đối tượng, những
người xung quanh, bản thân học sinh.
+ Tác hại của việc làm trái chuẩn mực hành vi: những cái ác, điều xấu
mang lại cho đối tượng, những người xung quanh, bản thân học sinh.
- Cách thực hiện chuẩn mực đó theo các tình huống liên quan:
+ Những việc cần làm.
+ Những việc cần tránh theo chuẩn mực quy định.
1.2.2. Mục tiêu về kĩ năng, hành vi:
Sau khi học môn Đạo đức, học sinh có những kĩ năng vận dụng bài học đạo
đức, lựa chọn và thực hiện được các hành vi phù hợp với những chuẩn mực hành
vi quy định và trên cơ sở đó, các em rèn luyện được thói quen đạo đức tích cực.
Kĩ năng, hành vi được coi là kết quả quan trọng nhất của việc dạy học môn
Đạo đức (nhưng đồng thời cũng là khó khăn nhất) vì đạo đức của con người nói
chung và học sinh tiểu học nói riêng được đánh giá chủ yếu qua hành động, việc
làm mà không phải chỉ qua lời nói.
Những kĩ năng, hành vi này bao gồm:
- Biết tự nhận xét hành vi của bản thân.
- Biết nhận xét, đánh giá hành vi của người khác.
- Biết xử lí những tình huống đạo đức tương tự trong cuộc sống.
- Biết thực hiện các thao tác, hành động đúng đắn theo mẫu, qua trò chơi,
hoạt cảnh,…
- Biết đánh giá những vấn đề thực tiễn liên quan đến bài đạo đức.
- Thực hiện được những hành vi tích cực trong cuộc sống hằng ngày của
mình phù hợp với các chuẩn mực hành vi,…
1.2.3. Mục tiêu về thái độ:
- 11 -
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
Sau khi học môn Đạo đức, học sinh bày tỏ được những xúc cảm, thái độ phù
hợp liên quan đến những chuẩn mực hành vi đạo đức và từ đó, có tình cảm đạo
đức bền vững.
Thái độ, tình cảm đạo đức đóng vai trò quan trọng trong đời sống vì thái độ,
tình cảm đúng đắn được coi là “chất men kích thích” từ bên trong nội tâm, giúp
con người vượt qua những khó khăn trở ngại, làm điều thiện, làm cho cuộc sống
trở nên nhân ái hơn, giàu tình người hơn.
Những thái độ, tình cảm này bao gồm:
- Thái độ tự giác, tích cực thực hiện hành vi theo chuẩn mực quy định.
- Thái độ đồng tình với hành động tích cực; thái độ phê phán đối với hành
động tiêu cực.
- Tình cảm đối với những đối tượng khác nhau do các bài đạo đức quy định.
1.3. Đặc điểm môn Đạo đức:
1.3.1. Dạy học môn Đạo đức là một hoạt động giáo dục đạo đức:
- Học sinh thực sự tham gia hoạt động giáo dục như được nói, được trao đổi
với bạn, được thực hành, vận dụng tri thức và kĩ năng vào thực tiễn cuộc sống của
mình,…
- Khi tham gia hoạt đông, học sinh có thể hình thành cho mình cả 3 mặt: tri
thức, kĩ năng, hành vi và thái độ.
- Hạn chế của việc giáo dục học sinh chỉ qua sách vở: tri thức nông cạn, kĩ
năng kém bền vững, hành vi không được thực hiện, thái độ và tình cảm hời hợt,…
1.3.2. Tính cụ thể của các chuẩn mực hành vi đạo đức:
- Những nguyên nhân cơ bản của việc đưa chuẩn mực đạo đức dưới dạng
chuẩn mực hành vi cụ thể: tư duy cụ thể còn chiếm ưu thế, khả năng nhận thức
hạn chế, kinh nghiệm sống nghèo nàn, tính bắt chước,…
- Tính cụ thể của chuẩn mực hành vi phù hợp với những tình huống thường
gặp trong cuộc sống của các em.
- So với lớp 1, 2, 3 thì ở lớp 4, 5, các chuẩn mực hành vi đã có tính khái quát
cao hơn.
- 12 -
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
1.3.3. Tính đồng tâm của các chuẩn mực hành vi đạo đức:
- Sự cần thiết xây dựng các chuẩn mực hành vi theo cấu trúc đồng tâm – khả
năng nhận thức, kinh nghiệm sống còn hạn chế, mối liên hệ, ràng buộc giữa các
chuẩn mực hành vi và đạo đức,…
- Biểu hiện của tính đồng tâm:
+ Các chuẩn mực cùng chủ đề lặp đi, lặp lại từ lớp dưới lên lớp trên.
+ Mức độ khái quát của chúng càng được nâng cao.
- Tính đồng tâm thể hiện không đồng đều theo các chủ đề, các mối quan hệ,…
1.3.4. Logic quá trình hình thành một chuẩn mực hành vi đạo đức cho học sinh
tiểu học:
- Quy định nhận thức chung quy định logic hình thành chuẩn mực hành vi đạo
đức – từ trực quan sinh động đến tư duy từu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn.
- Các giai đoạn hình thành chuẩn mực hành vi đạo đức:
+ Hình thành mẫu hành vi đạo đức.
+ Tổ chức phát hiện bản chất hành vi đạo dức.
+ Tổ chức luyện tập, thực hành.
- Sơ đồ logic trên:
MBT
1.3.5. Thời gian 2 tiết dành cho mỗi bài đạo đức:
- Mỗi bài đạo đức được thực hiện trong 2 tiết.
- Nhiệm vụ cơ bản của tiết 1: giúp học sinh nắm được những tri thức về chuẩn
mực hành vi, đồng thời bước đầu góp phần hình thành thái độ, kĩ năng và hành vi
tương ứng.
- Nhiệm vụ cơ bản của tiết 2: tổ chức cho học sinh hình thành kĩ năng, rèn
luyện hành vi, qua đó, củng cố tri thức, và giáo dục thái độ tương ứng.
- Mối quan hệ giữa hai tiết đạo đức: tiết 1 chuẩn bị cho tiết 2; tiết 2 củng cố và
khẳng định kết quả tiết 1.
2. Nội dung môn Đạo đức
2.1. Định hướng xây dựng chương trình môn Đạo đức:
- 13 -
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
2.1.1. Bảo đảm phù hợp và phục vụ việc thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học
Mục tiêu giáo dục tiểu học là “nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất thẩm mĩ và
các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở” (theo Điều 27 của
Luật giáo dục, 2005).
Như vậy, theo mục tiêu này thì chương trình môn Đạo đức phải:
- Tạo được những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức
cho học sinh tiểu học: Điều này các chuẩn mực hành vi trong chương trình phải là
những chuẩn mực cơ bản, vừa sức, phản ánh các mối quan hệ thường gặp của các
em. Đồng thời, chúng cũng tạo điều kiện cho học sinh tiểu học phát triển đạo đức
của mình qua việc mở rộng các mối quan hệ khác nhau.
- Chuẩn bị thiết thực cho học sinh tiểu học học tiếp trung học cơ sở: Tức là, việc
giáo dục đạo đức ở tiểu học phải có kết quả tốt để các em có đủ tư cách và trách
nhiệm thực hiện tốt việc học tập và rèn luyện ở bậc học mới; ngoài ra, môn Đạo
đức còn có nhiệm vụ chuẩn bị cho học sinh học tốt môn Giáo dục công dân ở
Trung học cơ sở. Vì vậy, các chuẩn mực hành vi đạo đức ở tiểu học phải góp phần
hình thành ở các em hệ thống tri thức về các chuẩn mực đạo đức cơ bản, thái độ
học tập tích cực, kĩ năng và thói quen hoạt động tập thể, cư xử đúng đắn với
những người xung quanh, tính năng động, sáng tạo trong các công việc khác
nhau…
2.1.2. Bảo đảm tính cơ bản, hiện đại, thiết thực, gắn với thực tiễn Việt Nam
Theo định hướng này, nội dung chương trình môn Đạo đức cần phải:
- Phản ánh được các mối quan hệ thường gặp của học sinh tiểu học như :
+ Quan hệ với bản thân ( tự trọng, ngăn nắp, ý chí, trung thực…).
+ Quan hệ với gia đình (yêu quý, quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em,
là các công việc khác nhau để giúp đỡ…).
+ Quan hệ với nhà trường (yêu quý, vâng lời, kính trọng thầy cô giáo, yêu mến,
giúp đỡ, chia sẻ với bạn bè, giữ gìn vệ sinh, thực hiện nội quy trường lớp, chăm
chỉ học tập…).
- 14 -
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
+ Quan hệ với cộng đồng, xã hội (yêu quê hương, đất nước, tôn trọng những nội
quy, quy định nơi công cộng, tôn trọng, giúp đỡ, cư xử lịch sự với những người
xung quanh…).
+ Quan hệ với môi trường tự nhiên (yêu quý, bảo vệ cây trồng, vật nuôi, thiên
nhiên, môi trường…).
- Giúp học sinh tiểu học hòa nhập với cuộc sống văn minh, hiện đại trong bối cảnh
đất nước đổi mới toàn diện, sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa, hòa nhập
quốc tế. Vì vậy, trong chương trình, cần có những chuẩn mực hành vi liên quan
đến tôn trọng, thực hiện những quy định, luật lệ của nhà nước, xã hội, ứng xử
đúng đắn với người nước ngoài, thiếu nhi quốc tế, hiểu biết và tôn trọng các tổ
chức quốc tế…
2.1.3. Góp phần đổi mới phương pháp dạy học tiểu học
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học của chương trình tiểu học mới được
thể hiện trong chương trình môn đạo đức ở chỗ:
- Chương trình tiểu học nêu định hướng là, phương pháp phải tập trung vào việc
dạy cách học, trong đó, giúp học sinh biết cách học và từ đó, có nhu cầu tự học,
thực hiện hành vi đạo đức trong cuộc sống.
- Chương trình coi trọng và khuyến khích dạy học trên cơ sở tổ chức hoạt động
học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, từ đó tạo điều kiện cho các em
phát hiện tri thức mới, tự giải quyết các vấn đề của bài học.
- Chương trình mới đòi hỏi đổi mới phương pháp dạy học môn Đạo đức phải song
song với đổi mới phương tiện, hình thức tổ chức, kiểm tra và đánh giá kết quả dạy
học…
2.2. Đặc điểm sách giáo khoa, Vở bài tập môn Đạo đức:
2.2.1. Sách giáo khoa
Sách giáo khoa môn Đạo đức có ở lớp 4 và 5 (các lớp 1, 2, 3 không có sách
giáo khoa) giúp giáo viên và học sinh dạy và học các bài đạo đức theo quy định
của chương trình nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra.
- 15 -
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
Sách giáo khoa Đạo đức gồm 14 bài theo chương trình bắt buộc. Mỗi bài đạo
đức trong sách giáo khoa có cấu trúc gồm những phần sau:
a) Giới thiệu mẫu hành vi đạo đức
Mẫu hành vi đạo đức như một biểu tượng cụ thể liên quan đến chuẩn mực
hành vi đạo đức được đưa ra để học sinh tiểu học làm theo, bắt chước (đối với biểu
tượng tích cực) hoặc tránh (đối với biểu tượng tiêu cực). Nó được giới thiệu qua
nhiều hình thức khác nhau như:
- Truyện kể đạo đức: Thường là câu chuyện trọn vẹn - có mở đầu, diễn biến, kết
thúc. Trong truyện kể, một tình huống đạo đức được nêu ra để nhân vật giải quyết,
ứng xử theo cách của mình. Từ đó, dẫn đến kết quả hay hậu quả nào đó - nếu hành
vi ứng xử là đúng thì cho kết quả tích cực và ngược lại. Từ kết quả hay hậu quả
này, học sinh sẽ rút ra kết luận tương ứng (bắt chước hay tránh) về chuẩn mực cần
thực hiện.
Ví dụ: Bài “Tôn trọng khách nước ngoài” có truyện kể “Cậu bé tốt bụng” (Lớp 3)
Mỗi truyện kể đạo đức thường được minh họa bằng tranh nhằm giúp học sinh
nắm được nội dung truyện một cách trực quan, sinh động, từ đó khắc sâu được
mẫu hành vi này.
Cuối mỗi truyện kể, có một số câu hỏi nhằm giúp học sinh phân tích truyện và
rút ra kết luận phù hợp.
- Tình huống đạo đức: Một tình huống liên quan đến bài đạo đức được đưa ra,
trong đó, các nhân vật chưa thực hiện hành vi ứng xử của mình. Khi đó, giáo viên
đặt học sinh vào tình huống để các em đoán cách giải quyết của nhân vật, nêu cách
riêng của mình và sau đó, cân nhắc, lựa chọn cách phù hợp nhất. Cách ứng xử
được học sinh lựa chọn đúng chính là bài học đạo đức cần thực hiện.
Ở mỗi tình huống, thường có tranh minh họa để nội dung của nó dễ hiểu hơn
đối với học sinh.
Ví dụ: Bài “Giúp đỡ người khuyết tật” (Lớp 2) yêu cầu học sinh giải quyết tình
huống sau:
- 16 -
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
Đi học về đến đầu làng thì Thủy và Quân gặp 1 người bị hỏng mắt. Thủy
chào: “Chúng cháu chào chú ạ!”. Người đó bảo “Chú chào các cháu. Nhờ các cháu
đưa giúp chú đến nhà ông Tuấn”. Quân liền bảo Thủy: “Về nhà nhanh để xem
phim, cậu ạ!
Sau tình huống, sách giáo khoa đưa ra câu hỏi để yêu cầu học sinh giải quyết.
Câu hỏi nêu ra là: Nếu em là bạn Thủy trong tình huống trên em sẽ làm gì? Vì
sao?
- Thông tin, sự kiện, tư liệu: Là những thông tin, tư liệu, sự kiện liên quan chặt chẽ
với chuẩn mực hành vi được giáo dục cho học sinh. Chúng được nêu ra để các em
phân tích và rút ra kết luận cần thiết. Từ kết luận này, học sinh có được bài học
đạo đức tương ứng.
Tiếp sau là một số câu hỏi phân tích những thông tin, tư liệu, sự kiện trên.
-
Tranh, ảnh: Có một số bài đưa ra tranh, ảnh liên quan đến bài đạo
đức để học sinh phân tích và từ đó, rút ra kết luận và bài học đạo đức cần thiết.
Sau những tranh, ảnh này là các câu hỏi phân tích
b) Ghi nhớ
Phần ghi nhớ này phản ánh nội dung cơ bản nhất của chuẩn mực hành vi đạo
đức. Nội dung ghi nhớ thường được diễn đạt một cách ngắn gọn để học sinh dễ
nhớ, dễ vận dụng và dễ thực hiện.
c) Bài tập
- Những bài tập đạo đức này nhằm giúp học sinh phát hiện ra tri thức mới, bày tỏ
thái độ và vận dụng bài học để hình thành kĩ năng, hành vi tương ứng. Nhờ đó, các
em sẽ đạt được mục tiêu bài học.
- Ở mỗi bài đạo đức trong sách giáo khoa, thường có khoảng 4-6 bài tập. Chúng có
thể gồm những dạng về tri thức, kĩ năng, hành vi và thái độ.
d) Thực hành
- 17 -
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
Phần này hướng dẫn học sinh thực hiện những công việc sau giờ học, chủ yếu
nhằm giúp các em củng cố tri thức, thí độ và hình thành hành vi đạo đức. Những
nội dung thực hành có thể là: thực hiện hành vi trong cuộc sống, vẽ tranh, điều
tra…
2.2.2. Vở bài tập
- Vở bài tập đạo đức là một tài liệu học tập dành cho học sinh. Theo xu thế chung,
ở các lớp 1, 2, 3 không có sách giáo khoa đạo đức mà thay vào là vở bài tập nhưng
không bắt buộc sử dụng. Ngoài ra, lớp 4, 5 có sách giáo khoa đạo đức nhưng
người ta cũng biên soạn vở bài tập để hỗ trợ môn này.
- Theo đổi mới dạy học môn Đạo đức hiện nay, môn Đạo đức được coi là hoạt
động giáo dục. Trong trường hợp này, vở bài tập được coi là phương tiện giúp học
sinh thực hiện các hoạt động do giáo viên tổ chức. Như vậy, vở bài tập giúp học
sinh phát hiện tri thức đạo đức, hình thành kĩ năng, hành vi và bày tỏ thái độ của
mình liên quan đến bài đạo đức.
- Tuy nhiên, giáo viên phải thật tỉnh táo khi sử dụng vở bài tập. Bởi lẽ, nếu lạm
dụng nó thì có thể không đạt được mục tiêu bài học đã đề ra, đặc biệt là mục tiêu
về hành vi.
- Mỗi bài đạo đức trong vở bài tập thường có hai phần:
+ Các bài tập: Thường rất đa dạng với số lượng khoảng 4 đến 6 bài đạo đức.
Chúng được nêu ra qua nhiều hình thức khác nhau, ví như: điền đúng sai vào ô
trống, nối nội dung với hình vẽ, xác định hành vi trong tranh là đúng hay sai…
+ Ghi nhớ: Cũng được nêu ra tương tự như sách giáo khoa.
2.3. Vấn đề xây dựng bài tập trong dạy học môn Đạo đức.
2.3.1. Bài tập về tri thức
a) Bài tập đúng (Đ)- sai (S).
Tính chất của dạng bài tập này là, trước một câu dẫn, một phát biểu nào đó, HS
cần xác định – câu đó là đúng hay sai hoặc đánh dấu + hay tương ứng.
VD1: Bài “Bảo vệ hoa và cây nơi công cộng”
Em hãy ghi vào ô là Đ thể hiện việc làm đúng, ghi S nếu việc làm sai.
- 18 -
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
Chỉ cần bảo vệ hoa và cây nơi công cộng khi có người yêu cầu.
Bảo vệ hoa và cây nơi công cộng là trách nhiệm của học sinh.
Khi không có ai, chúng ta có thể hái hoa nơi công cộng.
Chỉ cần bảo vệ hoa và cây ở nhà và trường học.
Bảo vệ hoa và cây nơi công cộng là bảo vệ môi trường.
Chúng ta cần chăm sóc và giữ gìn cây xanh làm cho môi trường xanh đẹp.
VD2: Bài “Giữ gìn trường lớp sạch đẹp
Hãy đánh dấu + vào ô trước các ý kiến mà em tán thành.
Trường lớp sạch đẹp có lợi cho sức khỏe
Trường lớp sạch đẹp giúp em học tập tốt hơn.
Giữ gìn trường lớp sạch đẹp là trách nhiệm của mỗi học sinh.
Giữ gìn trường lớp sạch đẹp thể hiện lòng yêu trường, yêu lớp.
Vệ sinh trường lớp chỉ là trách nhiệm của các bác lao công.
Những yêu cầu sư phạm đối với loại bài tập này là:
- Nội dung phát biểu phải vừa sức với HS tiểu học.
- Không nên trích nguyên văn nội dung trong sách giáo khoa ở phần ghi nhớ, bài
học để hỏi HS.
- Tính chất đúng hay sai của phát biểu phải chắc chắn, được mọi HS hiểu như
nhau.
- Nội dung của các ý trong một câu, hay nội dung của các câu phải độc lập với
nhau; tránh những trường hợp chúng độc lập nhau, mâu thuẫn nhau, gợi ý cho
nhau.
Ví dụ: Hai nội dung sau là mâu thuẫn nhau, chúng gợi ý cho nhau, nên không
cùng hỏi chúng:
Cần giữ gìn trường lớp sạch đẹp
Cần giữ gìn trường lớp và môi trường sạch đẹp.
Chỉ cần hỏi một trong hai ý trên là đủ.
- Vị trí câu đúng (hay sai) phải được sắp xếp ngẫu nhiên.
- 19 -
Đạo đức và phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
b) Bài tập nhiều lựa chọn
Tính chất của dạng bài tập này là, một câu hỏi thường có 3 đến 5 câu trả lời sẵn,
trong đó chỉ có một câu trả lời phù hợp, còn các câu trả lời khác được xem là câu
“gây nhiễu”.
Loại bài tập này có thể kích thích HS suy nghĩ, động não nhiều hơn so với câu hỏi
đúng - sai, nhưng việc biên soạn lại khó hơn, đòi hỏi người biên soạn có chuyên
môn sâu sắc.
VD1: Bài “Bảo vệ hoa và cây nơi công cộng”
Hãy chọn câu trả lời đúng nhất
Việc làm bảo vệ hoa và cây nơi công cộng làm cho:
a) Môi trường luôn xanh sạch đẹp
b) Có nhiều loài hoa và cây trồng đẹp
c) Có nhiều bóng mát
d) Cả 3 ý trên
VD2: Bài “Lễ phép, vâng lời thầy giáo, cô giáo”
Hãy đánh dấu + vào một ô trước ý đúng nhất
Lễ phép, vâng lời thầy giáo, cô giáo để:
Thầy giáo, cô giáo yêu thương
Bạn bè yêu mến
Là học sinh ngoan; cô thầy yêu thương, mọi người thương mến.
Những yêu cầu sư phạm đối với loại bài tập này là:
- Số phương án trả lời tối ưu cho một câu là 3-5 câu, không nên có quá ít, hay
ngược lại quá nhiều làm cho việc xác định câu trả lời trở nên rắc rối.
- Trong một câu hỏi, phương án trả lời đúng nhất phải rõ, chắc chắn; tránh những
trường hợp không thể phân biệt, xác định được câu trả lời đúng nhất.
- Tránh sắp xếp phương án trả lời đúng nhất giống như nhau ở tất cả các câu hỏi
được nêu ra.
c) Bài tập ghép đôi
- 20 -
- Xem thêm -