Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận múa rối nước...

Tài liệu Tiểu luận múa rối nước

.PDF
20
1855
70

Mô tả:

Múa rối là một bộ môn nghệ thuật phổ biến đối với toàn nhân loại. Thậm chí, qua từng loại hình cụ thể mà người xem có thể nhận diện được đó là của dân tộc nào, quốc gia nào hay khu vực nào. Chẳng hạn như nói đến rối bóng, người ta nghĩ ngay đến các quốc gia Đông Nam Á như Indonesia, Campuchia,… nhắc đến rối Bunraku là nhớ đến Nhật Bản, nhưng nhắc đến múa rối nước thì hiện chỉ có duy nhất ở Việt Nam. Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân tộc độc đáo, ra đời từ nền văn hóa lúa nước. Nghệ thuật múa rối nước đã trở thành một sáng tạo đặc biệt của dân tộc Việt. 1.Tổng quan 1.1 Tên gọi Theo P.L Mi-nhon (Mignon) trong cuốn Bách khoa - Phổ thông, từ Ma-rion-nét (Marionnette - múa rối) là một từ giảm nhẹ của (Mariole) thời Trung cổ dùng để chỉ những bức tượng Đức Mẹ đồng trinh nhỏ. Người ta không thấy từ này trong các ngôn ngữ khác, từ pup-pê trong tiếng Đức và puppet (búp bê) trong tiếng Anh được dùng để gọi con rối, vì về ngoại hình con rối trông giống con búp bê. Từ đó, ta có thể định nghĩa như sau: Con rối là những con búp bê, không giới hạn về kích cỡ, được cơ cấu, thiết kế sao cho các bộ phận có thể cử động được bằng sức lực, sự điều khiển của con người, nhằm mục đích diễn trò, đóng kịch. 1.2 Các loại hình múa rối trên thế giới Trên thế giới thì có múa rối cạn và múa rối nước. Múa tối cạn thì gồm có , rối tay,rối dây, rối que. Rối tay: gồm một cái đầu bằng gỗ gọt và một túi vải rộng làm thân mình, con rối hoạt động được là nhờ các ngón tay và bàn tay của người điều khiển. Rối que: gồm một que điều khiển đầu và mình và các que phụ điều khiển hai tay. Điển hình là rối que Ja-va và múa rối cạn của Việt Nam. 1 Rối dây: con rối dây có đầy đủ các bộ phận chủ yếu: đầu, cổ, mình, chân tay... ghép vào nhau bởi các khớp có thể cử động được. Bộ máy điều khiển gồm một bàn máy có các dây dài nối xuống các bộ phận cần phải cử động của con rối. Ngoài ra, còn có rối Nhật Bản: có kích thước rất lớn (0,8 mét đến 1,3 mét) gồm đầy đủ các bộ phận của cơ thể người. Có ba người điều khiển đứng đằng sau con rối. Người điều khiển chính làm cử động đầu và tay phải con rối. Người điều khiển thứ hai làm cử động tay trái con rối và người thứ ba điều khiển các chân con rối. Múa rối nước là loại hình nghệ thuật sân khấu múa rối mà chỗ diễn con rối là ở mặt nước (ao, hồ hay bể rộng). Tuy nhiên, múa rối nước trên thế giới, hiện chỉ còn tồn tại ở Việt Nam. Múa rối nước (hình thức dùng con rối diễntrò, diễn kịch trên mặt nước) được coi là nét văn hóa phi vật thể đặc sắc của dân tộc Việt Nam, một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống lâu đời ở vùng châu thổ sông Hồng thường diễn ra trong các dịp lễ, hội làng, ngày vui,ngày Tết. 1.3.Múa rối nước ở Việt Nam Ở nước ta, múa rối nước đã nhanh chóng trở thành nghệ thuật truyền thống, là nét văn hóa phi vật thể đặc sắc, mang đậm bản sắc dân gian của văn hóa lúa nước, có thể sánh ngang với Tuồng, Chèo, vốn là những bộ môn nghệ thuật có vị trí cao trong nền sân khấu dân tộc. 2 Tinh hoa Múa rối nước Việt Nam đã được sự ngưỡng mộ trong làng bạn bè thế giới, được xem là bộ môn nghệ thuật “Độc nhất vô nhị Múa rối nước đã ra đời chừng hơn 10 thế kỷ trước, đặc biệt phát triển cao trong kỷ nguyên Đại Việt ( thế kỷ XI ) ở vùng châu thổ sông Hồng. Nghệ thuật rối nước là đặc phẩm văn hoá bản địa dân tộc Việt, phát triển ở hầu hết các làng xã quanh kinh thành Thăng Long như Đào Thục (Đào Xá) Huyện Đông Anh, chùa Nành - Gia Lâm, Phường rối nước xã Thanh Hải - Thanh Hà - Hải Dương và nhiều phường rối ở hầu hết các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Người nghệ nhân hoạt động thành từng gánh, từng phường, từng đội, thậm chí từ trong một gia đình, một dòng họ và biểu diễn lưu động, từ sân đình, nẻo quê cho đến cung đình, sân phụng. Theo Tô Sanh, Trung Quốc có hình thức múa rối gần giống với Việt Nam, gọi là “Bù nhìn nước”, có từ thời Tống – ngang với thời Lý nước ta. Tuy nhiên, múa rối nước Việt Nam diễn trong ao, múa rối nước Trung Quốc diễn trong bể thiên về trò chơi hơn là hí kịch. Rối nước Việt Nam diễn ở những nơi công cộng, trong khi rối nước Trung Quốc diễn ở cung đình. Điều quan trọng hơn là sau đời Tống không thấy nói đến múa rối nước nữa. Trong khi đó, múa rối nước ở Việt Nam ngày nay vẫn đang được duy trì. Chứng cứ bằng văn tự đầu tiên ghi chép về múa rối nước Việt Nam là bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, dựng năm 1121, trong đó có đoạn viết: "Thả rùa vàng đội ba ngọn núi, trên mặt sóng dập dờn. Phơi mai vân để lộ bốn chân, dưới dòng sông lờ lững, liếc mắt nhìn lên bờ, cúi xét bầu trời lồng lộng. Trông vách dựng cheo leo, dạo nhạc thiều réo rắt. Cửa động mở ra thần tiên xuất hiện. Ðều là dáng điệu thiên cung, há phải phong tư trần thế. Vươn tay nhỏ dâng khúc Hồi phong, nhăn mày thúy ngợi ca vận tốt. Chim quý từng đàn ca múa, thú lành từng đội xênh xang" 3 Loại hình này thường diễn vào dịp lễ, hội làng, ngày vui, ngày Tết, dùng con rối diễn trò, diễn kịch trên mặt nước. Trò rối nước cũng được coi là nét văn hóa phi vật thể đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, theo dòng lịch sử, cũng như bao loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian khác, loại hình này cũng phải chịu sự thiệt hại nặng nề của chính sách hủy diệt văn hóa bản địa của quân xâm lược Minh (Trung Quốc) và sự xem nhẹ của các triều đình Lê, Nguyễn (1428 – 1945). Một điểm đáng lưu ý nữa là, ngoài Trung Quốc thấy có nhắc đến múa rối nước thời Tống, không thấy tồn tại múa rối nước ở quốc gia nào nữa, có chăng chỉ đề cập đến rối cạn. Bên cạnh đó, sự xuất hiện công trình nghiên cứu về múa rối nước “ Thủy đình” (1990) của Tô Sanh có ý nghĩa rất lớn trong việc khẳng định vị thế của bộ môn nghệ thuật này. Ông đã cố gắng khai thác ký ức, tra cứu các tác liệu cổ, các bản chép tay và gia phả của các cụ nghệ nhân – vốn là những người giữ các bí truyền trong biểu diễn rối nước ở hơn một trăm địa phương còn giữ các di tích của múa rối. Ngoài ra còn có sự cộng tác to lớn của các nhà sử học, khảo cổ học để xác định niên đại của loại hình nghệ thuật thủy đình. Như vậy có thể nói rằng nói đến múa rối nước là nói đến Việt Nam. “Trên thế giới có nhiều loại hình múa rối như rối bóng, rối cạn nhưng rối nước chỉ có duy nhất ở Việt Nam. Đây là môn nghệ thuật xuất hiện cách đây khoảng 10 thế kỷ rồi và do người nông dân sáng tạo ra…Sân khấu múa rối nước là buồng trò có mái che, người ta gọi là thủy đình, các nghệ nhân ngâm mình dưới nước để điều khiển con rối.” ( Bà Hoàng Minh Nguyệt, cán bộ Bảo tàng dân tộc học) 1.4Khái niệm múa rối nước Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật sân khấu múa rối, mà chỗ diễn con rối là ở mặt nước (ao, hồ hay bể rộng). Buồng trò của người biểu diễn là một cái nhà được cất giữa ao, hồ hoặc sát một mé hồ. Người điều khiển ngâm mình dưới nước, nấp sau tấm mành mành điều khiển con rối (thông thường được làm bằng gỗ hoặc chất liệu không thấm nước) bằng cách khua 4 sào có dính con rối ở dây và đầu sào. Nước che kín các loại que, dây, máy. Có nhiều loại rối nước: rối ao, rối bể, rối nước kết hợp với rối cạn v.v…Sân khấu hoặc nhà hát cố định của múa rối nước truyền thống là hệ thống nhà hai tầng tám mái xây bằng gạch, có từ lâu đời. Múa rối nước là một bộ môn nghệ thuật lỳ lạ chỉ thấy ở Việt Nam. 2. Các yếu tố nghệ thuật của múa rối nước Việt Nam 2.1. Con rối Quân rối nước chính là sản phẩm của nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian, vừa giàu tính hiện thực, vừa mộc mạc, đằm thắm, trữ tình. Con rối làm bằng gỗ được đục đẽo với những đường nét cách điệu riêng sau đó gọt giũa, đánh bóng và trang trí với nhiều màu sơn khác nhau để làm tôn thêm đường nét, tính cách cho từng nhân vật. Để làm ra được những “chú rối” phải trải qua rất nhiều công đoạn, đòi hỏi sự tỉ mẩn, khéo léo của những người nghệ nhân. Chất liệu làm nên con rối phải là loại gỗ sung - một loại gỗ dai, nhẹ, dẻo để con rối có thể nổi trên mặt nước và người điều khiển con rối có thể dễ dàng biểu diễn. Quân rối càng hoàn hảo, càng giúp cho kỹ xảo điều khiển nâng cao, khả năng diễn đạt phong phú. 5 Ở đây tài năng chế tác của nghệ nhân đã đem lại cho ta cái tươi mát, đôn hậu, hiền dịu, niềm lạc quan yêu đời, yêu thiên nhiên, con người qua cái bình dị đơn sơ được khuếch đại và nghệ thuật hóa. Hình thù của con rối thường tươi tắn, ngộ nghĩnh, tính hài và tính tượng trưng cao. Những quân rối nước thường được sử dụng trong buổi biểu diễn gồm có chú Tễu, cô tiên, người đi cày hay người đánh cá... Trong đó, nhân vật tiêu biểu nhất là chú Tễu, thân hình tròn trĩnh, nụ cười hóm hỉnh lạc quan. Quân rối nước dù tạc liền một khối gỗ hay chắp lại đều có hai phần gắn liền nhau đó là phần thân và phần đế. Phần thân là phần nổi lên mặt nước thể hiện nhân vật, còn phần đế là phần chìm dưới mặt nước giữ cho rối nổi bên trên và là nơi lắp máy điều khiển cho quân rối cử động. Con rối từ một vật thể vô tri vô giác, nhưng trên mặt nước lung linh, bỗng trở nên sống động như một sinh thể có hồn, đem đến những điều kỳ lạ, cười, vui... Đây chính là biểu hiện cao nhất của cái đẹp trong nghệ thuật múa rối nước. Quân rối càng kỳ thú, càng cười, vui bao nhiêu, thì trò diễn càng, lôi cuốn hay bấy nhiêu. Có lẽ, cũng chính vì tiêu chí này mà các phường rối nước từ xa xưa cho đến nay đã có ý thức trong việc nghiên cứu, tìm tòi miếng trò riêng, kĩ thuật chế tác riêng cho con rối của phường mình, để thi thố, khẳng định tên tuổi. Các phường rối nước xưa thường giao lưu, thi đấu với nhau, phường rối nào cũng cố tìm ra những trò mới, hay, khéo, lạ để thu hút sự chú ý của người xem, để lại dấu ấn riêng biệt của phường mình. Và trong thực tế, đã có đến 28 phường hội rối nước dân gian ở 11 tỉnh khu vực châu thổ sông Hồng. Vì thế, giá trị nghệ 6 thuật của việc tạo hình con rối càng đặc sắc hơn, phong phú hơn, ghi đậm dấu ấn của từng vùng, từng phường, góp phần làm nên sự đa dạng trong nghệ thuật rối nước việt.. Cụ thể, tuy cùng xuất hiện trên vùng châu thổ sông Hồng, mang những đặc điểm chung của văn hóa vùng, đều được tạo hình dựa trên cùng một nguyên tắc của điêu khắc tượng tròn, đều bằng gỗ, nhưng quân rối mỗi phường, mỗi vùng cũng có những nét riêng. Quân rối làng Đống (phường Đông Các) nhỏ hơn quân rối các phường khác (trung bình chỉ cao từ 20-35 cm) do truyền thống biểu diễn lưu động hay còn gọi là rối thùng của phường. Quân rối phường Phú Đa thường có vẻ mặt phúc hậu, từ bi, ít vui tươi hóm hỉnh hơn so với quân rối các phường khác, bởi được tạo nên từ bàn tay của những người thợ điêu khắc làm tượng, chùa xưa. Con rối phường Đào Thục lại có chiều cao nhỉnh hơn so với các phường khác (trung bình 50-60cm) bởi nghệ nhân có kỹ thuật độc đáo hơn trong việc làm nổi. 2.1.1Các nhân vật trong rối nước Các nhân vật trong rối nước chủ yếu là hình ảnh người nông dân, ngư dân, tiểu đồng, nhà vua, quân lính, cô tiên… và các loài động vật khác: trâu, bò, gà, cáo, rùa, rồng, cọp,vv.. Tuy nhiên, nói tới các quân rối tiêu biểu, không thể không nhắc đến Chú Tễu, nhân vật mang tính biểu tượng của múa rối nước, của văn hóa lúa nước Việt Nam. Thông thường, mở đầu cho buổi biểu diễn múa rối nước là sự xuất hiện của chú Tễu với thân hình tròn trĩnh, mặc áo nẹp khuy không cài, vẻ mặt hỏm hỉnh làm nhiệm vụ dẫn dắt, mở đầu câu truyện. Tễu ta sẽ gật đầu, đưa tay lên cao, xuống thấp, qua trái, qua phải, đi vòng khắp sân khấu và vừa hóm hỉnh, lanh lợi, vừa nghịch ngợm, tếu lâm cất lời chào: "Nay mừng vận mở thái hòa, Tễu tôi nhanh nhảu bước ra trình trò”. Rồi từng bước dẫn dắt khán giả vào một thế giới tưởng tượng phong phú. 7 Cùng một nhân vật Tễu nhưng Tễu làng Đống được đánh giá là to hơn và hoạt động linh hoạt hơn so với Tễu của các phường khác. Trải qua nhiều năm, từ chốn cung đình cho đến các làng quê thôn dã, người Việt Nam ai ai cũng yêu mến chú Tễu và coi Tễu là con rối quan trọng nhất. Chú Tễu dần trở thành linh hồn của rối nước, là cầu nối giữa người biểu diễn và người xem. 2.2 Kĩ thuật biểu diễn Kỹ thuật điều khiển trong múa rối nước rất được coi trọng, tạo nên hành động của quân rối nước trên sân khấu, đó chính là mấu chốt của nghệ thuật múa rối. Quân rối đẹp mới chỉ có giá trị về mặt điêu khắc. Sự thành công của quân rối nước chủ yếu trông vào sự cử động của thân hình, hành động làm trò đóng kịch của nó. Máy điều khiển được giấu trong lòng nước, lợi dụng sức nước, tạo sự điều khiển từ xa, cống hiến cho người xem nhiều bất ngờ kỳ diệu. Nghệ nhân rối nước đứng trong buồng trò thao tác bằng cây sào hoặc giật con rối bằng hệ thống dây. Họ thao tác từng cây sào, thừng, vọt... hoặc giật con rối bằng hệ thống dây bố trí ở bên ngoài hoặc dưới nước. Sự thành công của quân rối nước chủ yếu trông vào sự cử động của thân hình, hành động làm trò đóng kịch của nó. 8 Phương thức nhờ nước để con rối hoạt động, nhờ nước giấu đi bộ máy và cách điều khiển là sáng tạo tuyệt vời. Đây cũng chính là phương thức tạo nên “tính kỳ” ( tức là sự kì lạ, kì diệu, kích thích sự tò mò, trí tưởng tượng của khán giả). Đây là một trong những yếu tố làm nên sự hấp dẫn của nghệ thuật rối nước Việt Nam, và đóng vai trò quyết định cho sự thành công của buổi diễn. Những con rối chuyển động, nhảy múa, ca hát trên mặt nước mà người xem không biết chúng chuyển động bằng cách nào. Hàng loạt cờ phướn bật lên từ trong lòng nước mà vẫn khô ráo; những hoạt động xay thóc, giã gạo, gà mổ thóc, cấy lúa, đánh cá, úp nơm, cáo lại ngoạm được con vịt, leo được lên cây cau cao vút; rồng lại phun lửa trên mặt nước... Trong mênh mông ao nước, lúc thấy con rối ở đầu bờ ao này, lúc lại ở đầu ao bên kia, làm đủ các trò. Đó là những bất ngờ, kỳ diệu, cuốn hút người xem. Thậm chí, rồng vốn được coi là vật linh thiêng, là biểu tượng của quyền lực tối thượng. Nhưng trong rối nước, kỹ thuật điều khiển rồng lại thể hiện “tính kỳ” hơn cả. Con rồng rối biết hút nước, phun nước, phun lửa, tạo ra những vệt sáng kỳ lạ trong không gian và trong lòng nước... Lửa - nước là hai yếu tố, theo quan niệm triết học phương Đông, vốn xung khắc, nhưng lửa - nước trong múa rối Việt Nam đã được nghệ sĩ cấu trúc hài hòa trong một chỉnh thể, tạo cho người xem cảm giác thích thú trong cái nghịch thường. Muốn tạo được hiệu ứng như vậy, phải đòi hỏi rất nhiều ở tài năng, óc sáng tạo và bàn tay tài hoa, kỹ thuật điêu luyện của người nghệ nhân. Bởi vậy, để luôn đảm bảo “tính kỳ” trong biểu diễn, các nghệ nhân dân gian đã dựa vào kinh nghiệm và khả năng sáng tạo, bí truyền các miếng trò riêng để làm ra nhiều kiểu máy rối nước phong phú và đa dạng. Nét riêng biệt trong kỹ thuật múa rối của từng phường cũng thể hiện rất khác nhau. Rối nước làng Đống chủ yếu sử dụng các máy sào làm bằng gỗ nghiến (bởi họ biết cách để máy sào không những không bị chịu sức cản của nước mà lại tận dụng được sức đẩy của nước để di chuyển quân rối theo phương thẳng đứng). Phường Phú Đa diễn bằng máy dây (sử dụng dây chão, dây thép căng trên đầu một hệ thống các cọc ngầm từ buồng trò ra sân khấu). Phường Đào Thục lại sử dụng cả hai kỹ thuật truyền thống dùng máy sào bằng tre, sào gỗ, sào kim loại… kết hợp với máy dây bằng chão, dây thép, để điều khiển những con rối lớn. 9 Như vậy, giá trị nghệ thuật của múa rối nước thể hiện rất rõ ở những dấu ấn địa phương, từ quân rối, kỹ thuật máy, kỹ thuật điều khiển. Tuy chỉ cùng một trò diễn giống nhau, nhưng mỗi phường, mỗi địa phương lại thể hiện khác nhau, khiến cho nghệ thuật rối nước luôn mới mẻ, hấp dẫn... Nhưng dù sử dụng kỹ thuật nào, thì người nghệ nhân cũng đều hướng tới một mục đích chung, đó là đem cái hồn, cái thần của mình thổi vào từng động tác giã gạo, cày bừa, úp nơm…của quân rối, để đổi lấy tiếng cười, niềm say mê, thích thú của người xem. Buổi biểu diễn càng lôi cuốn bao nhiêu, càng tạo ra nhiều niềm vui, tiếng cười bao nhiêu, thì buổi diễn ấy càng thành công bấy nhiêu. Báo nước ngoài từng viết: "Con rối được điều khiển bằng sự khéo léo khó mà tưởng tượng. Con rối như có phép thuật điều khiển." Đấy chính là sự tài tình, là điều hấp dẫn và sáng tạo của nghệ thuật điều khiển múa rối nước. 2.3. Sân khấu biểu diễn Nếu hình tượng Chú Tễu là biểu tượng của rối nước, thì thủy đình, nơi biểu diễn rối nước, là một yếu tố góp phần làm nên sức sống đầy mê hoặc trong giá trị nghệ thuật của múa rối nước. Sân khấu rối nước là khoảng trống trước mặt buồng trò, nó chỉ thực sự hoàn chỉnh khi đã vào chương trình biểu diễn và cũng bắt đầu mất đi ngay khi chấm dứt tiết mục cuối cùng. Có lẽ, yếu tố độc đáo của rối nước là sử dụng chính mặt nước để làm sân khấu cho chú rối diễn trò, đóng kịch. Ao nước vừa khéo léo giúp người nghệ 10 nhân giấu kín que, sào, dây và những đạo cụ khác, vừa giúp tạo nên những hiệu ứng hình ảnh tuyệt vời. Những quân rối màu sắc sặc sỡ, có phần đơn điệu với những đường nét điêu khắc đơn giản, xơ cứng với dây kéo,que đẩy, nhưng nhờ mặt nước mênh mông, dập dềnh lung linh sóng nước phản chiếu, các con rối như mềm mại, sống động hơn. Nước làm cho con rối sinh động, làm cho chúng tươi tắn. Nước đã tham gia cùng diễn với con rối như một nhận xét: "Nước cũng là một nhân vật của múa rối." Mặt nước êm ả với đàn vịt bơi, trở nên thơ mộng trong làn khói huyền ảo khi bầy tiên nữ giáng trần múa hát. Nhưng mặt nước cũng sôi động trong những trận chiến lửa, những con rồng vây vàng xuất hiện. Bên cạnh đó, yếu tố nước còn tác động trực tiếp, kích thích giác quan của khán giả. Các con rối trở mình, lao động, sinh hoạt trong một thế giới đầy bất ngờ, bí ẩn, ngoài sự phán đoán, tưởng tượng của người xem. Buồng trò rối nước (nhà rối hay thủy đình), được dựng lên giữa ao, hồ với kiến trúc cân đối tượng trưng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam. Thủy đình có mặt bằng kiến trúc hình vuông, mái lợp được chia làm hai lớp âm dương, bốn cột cái đỡ các mái trên đầu và gánh chịu một đầu các mái dưới ở giữa. Mười hai cột con sắp thành hàng quanh bốn bên đỡ đầu còn lại của các mái dưới. Hai mái được lợp bằng ngói mũi hài xếp chồng lên nhau theo hình vẩy cá. Nơi giáp góc các mái đều được làm thành những đầu đao uốn lượn cong lên. Nếu tính từ mặt nước lên tới nóc thì cả mái trên và mái dưới cộng lại cao gấp đôi phần thân nhà. Dù được xây gằng gạch hay dựng bằng gỗ thì thủy đình vẫn được mở thông ra nhiều hướng, trong một tổng thể không gian kiến trúc , thủy đình không những đẹp về kiến trúc mà còn mang đậm ý nghĩa phong thủy trong sinh hoạt cộng đồng làng xã... Tất cả buồng trò, sân khấu cùng trang bị cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã đúng là một đình làng thu nhỏ lại với những mái uốn cong lung linh phản chiếu trên mặt nước. Qua những tiết mục biểu diễn của nghệ thuật rối nước cổ truyền, những cảnh sinh hoạt bình thường về đời sống, tập tục tinh thần và vật chất truyền đời của người nông dân Việt Nam được thể hiện một cách rõ nét và lôi cuốn. 2.4 Âm nhạc 11 Yếu tố âm nhạc giữ vai trò quan trọng, tạo nên sự hấp dẫn của loại hình múa rối nước. Trước đây, khi giai điệu âm nhạc chưa xuất hiện, thì bộ gõ là những nhạc cụ sơ khai của múa rối nước. Múa rối nước cần âm thanh mạnh, để giữ tiết tấu và khuấy động không khí buổi diễn trong không gian ngoài trời, trong các lễ hội làng ồn ào, náo nhiệt. Tiếng trống rộn ràng, cùng với mặt nước phản âm khiến âm thanh càng thêm vang xa, náo động, tạo nên sự hấp dẫn, cuốn hút, tác động mạnh tới cả người diễn lẫn người xem. Các nhạc cụ gõ sử dụng trong múa rối nước là: trống cái, trống con, trống cơm, mõ, thanh la, não bạt. Khán giả đến với nghệ thuật rối nước không chỉ xem những con rối ngộ nghĩnh, chuyển động tài tình trên mặt nước, mà còn được thưởng thức không khí biểu diễn náo nhiệt, sôi động, phấn khởi từ âm nhạc của bộ gõ. Qua âm nhạc, người nghệ nhân mới có thể diễn tả được hết vẻ đẹp của con rối. Âm nhạc là công cụ đắc lực trong việc thể hiện tâm tư, tình cảm của con rối vô tri mà lời thoại không thể chuyển tải hết. Âm nhạc còn làm nhiệm vụ gắn kết các trò diễn với nhau, giúp người xem không có cảm giác vụn vặt giữa các trò diễn, nội dung truyền tải tốt hơn, tạo nên sự giao lưu, gần gũi giữa con rối và người xem. Chính điều này làm cho khán giả thoải mái, thích thú theo dõi từ đầu đến cuối buổi diễn. Khởi thủy là biểu diễn trên sân khấu ngoài trời giữa ao hồ, nên rối nước cần âm thanh mạnh để giữ tiết tấu và khuấy động không khí buổi diễn. Các phường hội dân gian chuyên dùng bộ nhạc gõ dân tộc như trống cái, não bạt, mõ, pháo, tù và ốc. Âm nhạc rối nước mang tính đại náo của hội hè, có tác dụng kích động mạnh cả người diễn lẫn người xem. Vốn là một nghệ thuật lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt chính, rối nước gắn bó với âm nhạc như nghệ thuật múa. Các nghệ nhân múa rối nước dựa theo tiết tấu nhạc mà điều khiển con rối lúc khoan thai, lúc sôi động, giúp gắn kết các tiết mục với nhau Người Pháp gọi môn nghệ thuật múa rối nước với những con rối duyên dáng là "linh hồn của đồng ruộng Việt Nam" và đánh giá: "Với sáng tạo và khám 12 phá, rối nước đáng được xếp vào những hình thức quan trọng nhất của sân khấu múa rối". 3. Nghệ thuật múa rối nước dưới góc nhìn văn hóa Múa rối thì hầu như dân tộc nào cũng có, nhưng múa rối nước thì duy nhất chỉ có ở Việt Nam . Múa rối nước không chỉ có giá trị sân khấu mà còn phản ảnh các giá trị văn hóa rõ nét, đậm đà bản sắc Việt: Tính tổng hợp, Tính linh hoạt, và tính cộng đồng. Tính tổng hợp biểu hiện ở điểm: Múa rối nước là hoạt động kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa giữa nghệ thuật chế tác và tạo hình con rối. Con rối không chỉ gói gọn trong phạm vi là một tác phẩm điêu khắc thông thường, mà nó còn đỏi hỏi người nghệ nhân phải có khả năng tạo hình, thiết kế, kỹ thuật lắp ráp máy móc, các chi tiết, bộ phận, máy móc với que, dây, cây đẩy… sao cho phù hợp, gọn đẹp nhất, để con rối không chỉ vừa bắt mắt, sống động nhất mà còn phải cử động linh hoạt, có hồn trên sân khấu. Bên cạnh đó, yếu tố tính tổng hợp hiện diện ở sự liên kết chặt chẽ giữa hai môi trường tự nhiên Đất- Nước qua sân khấu biểu diễn: Mái đình và mặt nước. Nó liên tưởng, gợi mở cho người xem một không gian rộng mở, nhuần nhị với hình ảnh “ Cây đa-Bến nước-Sân đình” của một làng quê Bắc Bộ. Tự lâu đời, hai lực lượng thiên nhiên Đất – Nước luôn là yếu tố sống còn đối với người nông dân đất Việt. Kỹ thuật điều khiển, biểu diễn con rối luôn đòi hỏi tính tổng hợp cao nhất: Con rối vừa biết hát, biết giã gạo, Con rồng vừa biết lượn mình vừa biết phun lửa, phun mưa,..v.v. Con rối càng biết kết hợp, càng làm nhiều trò bao nhiêu thì vở rối càng thành công, lôi cuốn bấy nhiêu. Muốn đạt được hiệu quả như thế, đòi hỏi chủ thể sáng tạo phải biết tổng hợp và dung hòa nhiều công đoạn, cách thức, từ việc chế tác cho đến ngón nghề biểu diễn. 13 Ngoài phạm vi quân rối, kỹ thuật, kỹ xảo của các máy móc điều khiển quân rối, nghệ thuật múa rối nước vùng châu thổ sông Hồng còn mang tính nguyên hợp: có tích, có trò, có ca, múa, nhạc, diễn, hề... trên cơ sở của tư duy nguyên hợp ba trong một. Tuy nhiên, tính nguyên hợp trong múa rối nước nổi trội hơn so với xiếc, vì nó kế thừa được giá trị văn hóa, văn minh lúa nước của người Việt vùng châu thổ sông Hồng. Dưới góc nhìn văn hóa, múa rối nước còn mang tính linh hoạt ở việc ứng xử với môi trường tự nhiên, cụ thể là tận dụng môi trường nước làm sân khấu biểu diễn. Lịch sử múa rối Việt ghi nhận hai loại hình chính là rối cạn và rối nước.Theo truyền thuyết, múa rối ra đời từ thời xây thành Cổ Loa, Kinh An Dương Vương, năm 225 trước công nguyên. Đây là nghệ thuật rối do các dân tộc di cư từ Trung Quốc truyền vào. Trong các loại hình đó, thì múa rối nước là nổi trội và phát 14 triển hơn cả, và được sử sách, văn bia ghi chép lại từ năm 1221, đời Lý. Nghệ thuật rối nước là đặc phẩm văn hóa bản địa dân tộc Việt, phát triển ở hầu hết các làng xã quanh kinh thành Thăng Long như Đào Thục, Đạo Xá-huyện Đông Anh, chùa Nành- Gia Lâm và nhiều phường rối khác phân bố ở hầu hết các tính đồng bằng Bắc Bộ. Vào thời gian này, công cuộc trị thủy, chống lũ chống hạn luôn là mối quan tâm hàng đầu của dân tộc. Và người sáng tạo và duy trì nghệ thuật múa rối nước từ hàng nghìn năm nay là người làm ruộng, sống với nước từ khi còn trong bụng mẹ, gắn bó với nước chặt chẽ, ân tình "sống ngâm da, chết ngâm xương". Có lẽ vì thế, việc tận dụng môi trường nước để làm nghệ thuật sân khấu giải trí là một sáng tạo, thích ứng, phản ánh tính linh hoạt của cư dân Việt. Đặc biệt, hình ảnh nghệ nhân dùng sào, dùng gậy để múa rối gợi liên tưởng đến việc người xưa đã dùng mái chèo khấy động mặt nước trong các cuộc đua thuyền tại các ngày lễ hội... Trong điều kiện tự nhiên của vùng sông nước, phương tiện giao thông bằng thuyền là sự lựa chọn, thích ứng của con người. Bởi vậy, hành động đẩy thuyền, kéo thuyền trở thành thói quen thường nhật của con người, chẳng khác nào hành động đẩy sào, kéo dây, dựa trên nguyên lý kỹ thuật kéo, đẩy, kết hợp với sức nước trong múa rối nước. Điều này đã nói lên rằng, mặt nước, dòng sông, bờ ao…tự lâu đời đã là một phần gắn bó như máu thịt trong đời sống của cư dân Việt. Dân tộc ta vừa lo nỗi lo trị thủy nhưng lại vừa khéo tận dụng, ứng biến khiến tự nhiên trở thành niềm vui tinh thần của mình. Tính linh hoạt còn phản ánh ở hình tượng nhân vật chú Tễu. Bởi chú chính là cầu nối , làm hoạt động giao lưu, gắn kết giữa chủ thể sáng tạo nghệ thuật với chủ thể thưởng thức nghệ thuật. Múa rối nước dần trở thành món ăn tinh thần hấp dẫn, thì tính cộng đồng của nó càng trở nên rõ nét. Múa rối nước hoạt động theo tổ chức phường, hội. Tức là những người nghệ nhân, một phần cư dân trong làng xã, sinh sống bằng nghề múa rối nước, họ đã liên kết với nhau để cùng phát triển rối nước đạt trình độ chuyên sâu hơn. Khảo sát công nhận một số phường rối nước tên tuổi, như: Phường rối nước xã Thanh Hải-Thanh Hà-Hải Dương, Đào Thục( Đào Xá), chùa Nành, Thẩm Rộc,…Cũng như bao phường, hội nghề khác của dân tộc, phường rối nước liên kết theo chiều ngang, những người cùng phường có trách nhiệm giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, nên mang đậm đặc trưng tính dân chủ rất cao. 15 Cụ thể, múa rối nước là một sinh hoạt vǎn hoá xóm làng, luôn được trân trọng, quí mến, nuôi dưỡng, giữ gìn và phát triển. Các thành viên trong phường, cũng như dân làng, luôn dành cho các hoạt động của phường mọi sự giúp đỡ, từ nắm lạt, sợi thừng, cây tre, tấm ván, lá cót, mảnh phên... để dựng buồng trò, đến cây sung tạc quân, cái sào điều khiển... Ngoài ra, tuỳ theo khả năng những người có chữ nghĩa, có tay nghề thủ công... còn tham gia vào sáng tác lời giáo, chế tác quân máy, quyên góp tiền bạc, mua sắm trang thiết bị... do đó có phường số thành viên đông tới bảy tám chục người trong khi lượng người biểu diễn cần thiết thường chỉ đến hai chục người là tối đa. Hơn nữa, múa rối nước còn có khả năng gắn kết cộng đồng rất hữu hiệu. Từng quân rối say sưa diễn trò, âm nhạc sôi nổi, ánh sáng lung linh…đã tạo nên một bầu không khí náo nhiệt kì lạ, từng ánh mắt say mê, khuôn mặt hân hoan cùng tiếng cười giòn tan đã vô hình gắn kết người nghệ nhân với khán giả như hòa thành một. Biết bao thế hệ say mê và gắn bó với nghệ thuật rối nước, có lẽ cũng vì bầu không khí buổi diễn ấm áp, vui tươi và chan hòa ấy chăng? 4.Một số phường múa rối nước nổi tiếng, thực trạng và biện pháp bảo tồn, phát triển nghệ thuật múa rối nước 4.1 Một số phường múa rối nước nổi tiếng Nghệ thuật rối nước là đặc phẩm văn hoá bản địa dân tộc Việt, phát triển ở hầu hết các làng xã quanh kinh thành Thăng Long như Đào Thục (Đào Xá) - Huyện Đông Anh, chùa Nành - Gia Lâm, Phường rối nước xã Thanh Hải - Thanh Hà - Hải Dương và nhiều phường rối ở hầu hết các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài Nhà hát múa rối Trung ương và Nhà hát múa rối Thăng Long, cón có một số phường nổi tiếng như Đào Thục, Tế Tiêu, Tràng Sơn, Bình Phú, Thạch Xá, Nguyên Xá và Nam Chấn. Đặc biệt, trong những địa phương này, nổi bật có rối Thẩm Rộc của đồng bào Tày ở huyện Định Hoá, Thái Nguyên. Từ 13 đời nay, nghề rối được dòng họ Ma Quang gìn giữ. Dù trải qua nhiều thăng trầm, nhưng nghề vẫn được truyền đến ngày nay. Múa rối Thẩm Rộc thuộc loại hình rối que, thông thường phường rối có 12 thành viên gồm người điều khiển, người chơi nhạc và một số người giúp. Cách điều khiển con rối ở phường rối Thẩm Rộc cũng có cách khác với các phường rối 16 khác. Ngoài một số con rối dùng dây giật, cầm trên tay điều khiển, phần lớn các con rối được điều khiển qua các que tre. Năm 1992, Nhà hát Múa rối Thăng Long tại Hà Nội phục hồi 17 trò rối nước làm sống dậy trò rối nước trên toàn quốc gồm 17 trò: Bật cờ, Chú Tễu, Múa rồng, Em bé chăn trâu, Cày cấy, Cậu ếch, Bắt vịt, Đánh cá, Vinh quy bái tổ, Múa sư tử, Múa phượng, Lê Lợi trả gươm, Nhi đồng vui chơi, Đua thuyền, Múa lân, Múa tiên, Tứ linh. Tại thành phố Hồ Chí Minh có sân khấu múa rối nước Rồng Vàng. 4.2 Thực trạng múa rối nước hiện nay Là một di sản văn hoá Việt Nam được bạn bè quốc tế biết đến, tuy nhiên, rối nước Việt Nam chưa được quan tâm thực sự. Rất ít thiếu nhi Việt Nam biết rối nước là gì, người lớn thì không mấy quan tâm, nhất là những người sống ở thành phố, còn ở vùng sâu vùng xa... đương nhiên là người dân rất xa lạ với múa rối, chứ đừng nói đến rối nước. Số em từng được xem biểu diễn rối nước không nhiều. Một số người băn khoăn, liệu có phải bao nhiêu công sức thời gian các nghệ sĩ đều đầu tư cho việc hướng ngoại cả ? Ngay ở Hà Nội, các show diễn của Nhà hát Múa rối T.Ư cũng rất thưa thớt. Hàng năm, chỉ có đợt 1/6 và Trung thu nhà hát mới tổ chức các show diễn cho thiếu nhi. Thiết nghĩ, để một loại hình nghệ thuật trở thành "đặc sản" văn hoá của nước mình thì trước hết cần gây dựng, gìn giữ nó trong lòng người Việt Nam trước đã. Làm sao để ở các trường học trẻ em hiểu và yêu nghệ thuật rối nước, được xem biểu diễn, được giao lưu với các nghệ sĩ biểu diễn. Sức sống bền vững nhất của bất cứ loại hình văn hóa nào cũng phải được xây dựng từ chính cái nôi sinh thành ra nó. Hơn nữa, niện múa rối nước vẫn tồn tại phân tán trong các phường hội dân gian, cần phải tổ chức, khai thác, bảo tồn, phát huy và phát triển nó một cách khoa học, nghiêm túc và kịp thời. 4.3 Một số biện pháp bảo tồn và phát triển nghệ thuật múa rối nước Giải pháp đầu tiên đặt ra để bảo tồn và phát triển Múa rối nước dân gian là phải tiến hành việc sưu tầm sân khấu Múa rối nước. 17 Những năm gần đây, công tác sưu tầm sân khấu Múa rối nước đã được quan tâm hơn, nhưng thực chất vẫn chưa đáp ứng được tầm quan trọng của nó. Sưu tầm còn mang tính tự phát của một số cá nhân hay của một vài cơ quan chức năng mang tính hình thức chủ nghĩa. Giải pháp thứ hai: Công tác đào tạo: Phải quan tâm nhiều hơn nữa trong việc sử dụng nghệ nhân, trong việc đào tạo lực lượng diễn viên Múa rối nước trẻ. Đào tạo phải gắn với thực hành, nghĩa là phải tổ chức hoạt động biểu diễn thường xuyên để diễn viên trẻ được thực hành, được nâng cao kỹ năng, được tiếp cận thường xuyên với công chúng. Thành lập Hội Múa rối nước chuyên nghiệp là một giải pháp tích cực đối với quá trình phục hồi và phát triển Múa rối nước dân gian hiện nay. Khi đã có Hội, riêng hoạt động của Múa rối nước dân gian sẽ không bị phân tán, không bị cô lập, mà ngược lại mọi việc được tập trung hơn, đời sống của nghệ nhân càng được đảm bảo. Bên cạnh đó, cần đặc biệt chú ý quan tâm phục hồi những trò diễn độc đáo do các nghệ nhân nhiều thế hệ đã sáng tạo. Cùng với việc khai thác, phục hồi và biểu diễn những tích trò cổ, ngành Múa rối nước cũng cần đẩy mạnh quá trình xây dựng những tiết mục biểu diễn hoàn toàn mới. Hai quá trình này nên tiến hành song song, đồng thời. 5. Kết luận “…Không phải một cá nhân lỗi lạc nào đó đã bỗng nhiên tạo nên một chiếc đàn bầu, một cây sáo trúc, một cái phách tre. Cũng không phải một ngày nào đó bỗng xuất hiện những điệu trống quân, cò lả, quan họ, những giọng ca Huế, cải lương, Bài chòi, những lời thơ lục bát du dương, những màu sắc đậm đà và giản dị của tranh Tết…Tất cả những phương tiện đó là do tập thể của dân tộc ta sáng tạo, được hoàn thiện không ngừng từ đời này qua đời khác”. ( GS Vũ Khiêu – “ Anh hùng và nghệ sĩ” ) Múa rối nước không những là một bộ môn nghệ thuật mang tính tập thể cao, mà còn thể hiện cái độc đáo trong cái độc đáo của bản sắc dân tộc. Nó đã trải qua các khâu tìm tòi, cải tiến và điều chỉnh để nâng cao và đạt tới hiệu quả thẩm 18 mỹ cao nhất. Và hiện nay trên thế giới, bộ môn nghệ thuật này chỉ còn tồn tại ở Việt Nam. Nó là sản phẩm của văn hóa nước vùng châu thổ Bắc Bộ, không thể lẫn vào đâu được. Vì thế việc bảo tồn và phát triển Múa rối nước dân gian đòi hỏi sự chung tay góp sức của toàn xã hội. Bởi nghệ thuật Múa rối nước thực sự xứng đáng là một loại hình nghệ thuật đặc sắc có tuổi đời hàng ngàn năm, đang hội nhập và hòa sinh vào sinh hoạt văn hóa cộng đồng trong giai đoạn hiện nay. *Tài liệu tham khảo: 1. Múa rối nước của Việt Nam_ GS.TS Trần Văn Khê,NXB Thời đại. 2. Internet: http://www.thanglongwaterpuppet.org/?/vn/News/13/Lich-su-mua-roi-VN.html http://hanoi.vietnamplus.vn/Home/Mua-roi-nuoc--mot-sang-tao-doc-dao-cuanguoi-Viet/20121/6851.vnplus http://vhttdlkv3.gov.vn/Chuyen-de/Mua-roi-nuoc-nghe-thuat-truyen-thong-docdao.2798.detail.aspx http://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%BAa_r%E1%BB%91i_n%C6%B0%E1%BB%9Bc http://vovworld.vn/vi-VN/Sac-mau-cac-dan-toc-Viet-Nam/Mua-roi-nuoc-nghe-thuat-dienxuong-dan-gian-cua-nguoi-Viet/156945.vov http://review.siu.edu.vn/van-hoc-nghe-thuat/roi-nuoc-loai-hinh-nghe-thuat-doc-dao-oviet-nam/245/422 http://tranquanghai.info/p1190-tran-van-khe-%3A-nghe-thuat-mua-roi-nuoc.html 19   . 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng