Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn thạc sĩ quan hệ quốc tế công tác thông tin đối ngoại của việt nam trong...

Tài liệu Luận văn thạc sĩ quan hệ quốc tế công tác thông tin đối ngoại của việt nam trong thời kỳ đổi mới

.PDF
101
48
75

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI trường đại học khoa học xã hội và nhân văn NGUYỄN QUỲNH HƯƠNG công tác thông tin đối ngoại của việt nam trong thời kỳ đổi mới LUẬN VĂN THẠC SĨ QUAN HỆ QUỐC TẾ HÀ NỘI - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI trường đại học khoa học xã hội và nhân văn 1 NGUYỄN QUỲNH HƯƠNG Công tác thông tin đối ngoại của việt nam trong thời kỳ đổi mới Chuyên ngành : Quan hệ quốc tế Mã số : 60 31 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUAN HỆ QUỐC TẾ Người hướng dẫn khoa học: GS. Vũ Dương Ninh HÀ NỘI - 2009 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thời đại thông tin, bùng nổ thông tin, xa lộ thông tin, đó là những khái niệm còn khá mới nhưng chứng tỏ sức mạnh của thông tin trong đời sống xã hội quốc gia và quốc tế hiện nay. Xã hội càng phát triển, yêu cầu thông tin càng đa dạng, phong phú và ngược lại, sự phát triển của thông tin thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Trong thời đại hiện nay với xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa mỗi quốc gia muốn phát triển phải khai thác được các quan hệ giao lưu quốc tế. Thông tin chính là chiếc cầu nối trong sự giao lưu giữa các quốc gia, là phương tiện giúp cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa các cộng đồng, là nguồn lực để phát triển đất nước. Theo đó, thông tin đối ngoại đã trở thành một trong những công cụ quan trọng, phổ biến được sử dụng trong quan hệ quốc tế và có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động đối ngoại của mọi quốc gia trên thế giới. Thành công hay thất bại trong việc thực hiện chính sách đối ngoại một phần tùy thuộc vào khả năng chiếm được lợi thế thông tin hay không. Thông tin đối ngoại là một mảng công việc rất quan trọng trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đó là cầu nối, phương tiện mở rộng giao lưu, hiểu biết giữa Việt Nam với các nước. Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại sẽ giúp các bạn bè quốc tế tiếp cận tình hình một cách chính xác, giúp họ hiểu đúng về đất nước, con người Việt Nam. Qua đó, phục vụ chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ và hội nhập kinh tế quốc tế của ta, thu hút các nguồn lực bên ngoài như vốn, công nghệ, du lịch… phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, góp phần vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, sẽ làm hạn chế những thông tin sai lệch, bịa đặt về Việt Nam và ngăn chặn âm mưu "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa và các hoạt động phá hoại an ninh quốc gia của các phần tử chống đối. 3 Ngay từ những năm đầu thập niên 90, công tác thông tin đối ngoại đã được triển khai tích cực và đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế. Những năm gần đây và thời gian tới, tình hình thế giới và trong nước chuyển biến sâu sắc, toàn cầu hóa, khu vực hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ, thông tin đối ngoại có nhiều thuận lợi nhưng cũng bộc lộ nhiều thách thức. Trước tình hình ấy, làm thế nào để góp phần thực hiện nhiệm vụ của Đảng đặt ra cho lĩnh vực đối ngoại là "tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"; đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh tư tưởng, phát triển nền văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới khi mở rộng giao lưu quốc tế - đó là yêu cầu và nhiệm vụ mới đối với công tác thông tin đối ngoại. Chính vì vậy, việc đánh giá, tổng kết công tác thông tin đối ngoại thời gian qua là rất cần thiết. Từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đối ngoại, nghiên cứu và xây dựng chiến lược triển khai có hiệu quả công tác thông tin đối ngoại. Với suy nghĩ đó, tôi chọn đề tài: "Công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới" làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài và nguồn tài liệu Ở nước ta những năm gần đây, công tác thông tin đối ngoại đã được giới học giả, các cấp, các ngành quan tâm, nghiên cứu nhiều hơn. Tại các buổi hội thảo, hội nghị tổng kết, đánh giá về hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại đã được đưa ra bàn luận và phân tích sâu ở các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, đây là chủ đề còn khá mới đối với các sinh viên, học viên cao học ngành quan hệ quốc tế. Về các công trình đã công bố, có thể kể đến tác phẩm Báo chí và ngoại giao (Dương Văn Quảng) là cuốn sách bàn trực tiếp đến vai trò của truyền thông đối với công tác đối ngoại. Một số cuốn sách khác như Cơ sở lý luận báo chí, truyền thông đại chúng (Tạ Ngọc Tấn), Quản lý và phát triển 4 báo chí, Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa -xã hội (Lê Thanh Bình), Báo chí với sự nghiệp đổi mới ngày nay (Ngọc Đán) phân tích vai trò và nghiệp vụ báo chí là tài liệu tham khảo rất quan trọng khi nghiên cứu sâu vào lĩnh vực thông tin. Các cuốn sách nước ngoài đã dịch như Bùng nổ thông tin (Breton Philipe, Serge Proul), Sức mạnh của truyền thông (Michael Schudson) hoặc cuốn The Press and Foreign policy (Cohen) đã đề cập đến vấn đề cơ bản của thông tin và thông tin trong ngoại giao. Luận văn tham khảo và khai thác một số nguồn tài liệu chủ yếu sau: - Các văn kiện Đại hội Đảng. - Các văn bản pháp quy như Hiến pháp, Luật báo chí. - Thông tư, nghị định, chỉ thị của Trung ương Đảng và Chính phủ. - Các bài diễn văn, báo cáo tổng kết, tài liệu của các Bộ, Ban, ngành tham gia làm công tác thông tin đối ngoại như Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Du lịch và Thể thao - Các tham luận hội nghị, tạp chí, bài báo, trang thông tin điện tử có liên quan đến đề tài… Việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần tìm hiểu, tiếp cận, nắm bắt và sử dụng công cụ thông tin trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài * Mục đích Mục đích của đề tài là phác họa tình hình và bước đầu đánh giá về công tác thông tin đối ngoại, nêu bật vai trò của công tác thông tin đối ngoại như là một kênh quan trọng, một công cụ đắc lực trong các hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, qua đó nêu lên một vài giải pháp để phát huy hơn nữa vai trò của công tác thông tin đối ngoại. 5 * Nhiệm vụ Để thực hiện nhiệm vụ trên, luận văn có nhiệm vụ: - Phân tích cơ sở lý luận về công tác thông tin đối ngoại. - Thông qua việc phác họa những hoạt động chính trong công tác thông tin đối ngoại của ta trong thời kỳ đổi mới, nêu lên những thành tựu và hạn chế. - Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trước yêu cầu của tình hình mới. Kết quả nghiên cứu công tác thông tin đối ngoại sẽ góp phần thiết thực vào việc triển khai chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nhằm giới thiệu hình ảnh của Việt Nam ra bên ngoài cũng như đấu tranh dư luận chống lại những luận điệu của các thế lực phản động, phát huy ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần thành công trên mặt trận đối ngoại nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động thông tin đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới thông qua việc triển khai và hoạt động của các ban Đảng, các cơ quan nhà nước và toàn xã hội: các lực lượng chuyên trách chỉ đạo, lực lượng thực hiện, lực lượng hỗ trợ… * Phạm vi nghiên cứu Trong giới hạn của mình, luận văn tập trung phân tích công tác thông tin đối ngoại trong những năm đất nước tiến hành sự nghiệp đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế từ 1986 đến nay. Để có cái nhìn xuyên suốt, luận văn có nhắc khái quát công tác thông tin đối ngoại thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. 6 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn được dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thông tin đối ngoại. Luận văn vận dụng phương pháp nghiên cứu quốc tế, nghiên cứu khoa học xã hội, kết hợp tổng kết thực tiến, phân tích, thống kê… 6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Trên cơ sở phân tích một cách có hệ thống, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cùng những hoạt động của các lực lượng tham gia công tác thông tin đối ngoại từ năm 1986 đến nay, luận văn cố gắng làm rõ thành tựu và hạn chế trong công tác thông tin đối ngoại của ta thời kỳ đổi mới, từ đó nêu một vài giải pháp để phát huy công tác này trong thực tiễn. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hệ thống hóa hoạt động thông tin đối ngoại của nước ta để từ đó rút ra một số kinh nghiệm phục vụ thiết thực đường lối đối ngoại rộng mở và hội nhập quốc tế. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại, cho sinh viên, học viên. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Nhận thức chung về công tác thông tin đối ngoại và hoạt động thông tin đối ngoại ở nước ta trước thời kỳ đổi mới. Chương 2: Công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới. 7 Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI VÀ HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI Ở NƯỚC TA TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI 1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI 1.1.1. Khái niệm về công tác thông tin đối ngoại Thông tin có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống xã hội. Sự ra đời và phát triển của thông tin gắn liền với quá trình phát triển của đời sống xã hội nhân loại. Xã hội càng phát triển, yêu cầu thông tin càng đa dạng, phong phú và ngược lại, sự phát triển của thông tin thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Do nhu cầu giao tiếp ngày càng rộng rãi mà thông tin ngày càng phát triển về mọi mặt từ hình thức, nội dung đến phạm vi thông tin. Đồng thời, thông tin cũng luôn chịu sự tác động chi phối của nhiều yếu tố trên nhiều lĩnh vực thuộc đời sống con người qua các thời kỳ lịch sử. Bản chất thông tin là phản ánh các vấn đề của đời sống xã hội, chịu sự tác động của ý thức hệ nên thông tin trở thành một công cụ đắc lực của cuộc đấu tranh giai cấp. Trên cơ sở thực tiễn đời sống, xã hội từ trước đến nay nói chung, xã hội hiện đại nói riêng, thế giới thông tin được hình thành hết sức đa dạng, đa chiều với vô số kênh, tuyến phức tạp đan xen. Trong đó liên quan đến vấn đề được đề cập ở đây, luồng thông tin có định hướng rõ nét nhất, chiếm vị trí chủ đạo hàng đầu chính là những thông tin được truyền đi từ các cơ quan hoạch định chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, đoàn thể, tổ chức đến quần chúng nhân dân nói chung cũng như đến từng giai cấp, tầng lớp, nhóm, thành viên, nhằm thực hiện các chức năng, yêu cầu và nhiệm vụ được định trước. Nội dung của thông tin chính là những sự kiện, vấn đề thường xuyên nảy sinh và đổi mới trong mọi mặt đời sống con người, xã hội. Còn hình thức 8 của thông tin có quan hệ chặt chẽ với những giác quan chính (nghe, nhìn) tương đối ổn định của con người. Thông tin có biểu hiện trực tiếp, trực cảm, tương ứng để con người có thể tiếp nhận, sử dụng và trao đổi được là dạng chữ viết, hình ảnh và âm thanh nói chung. Chỉ có những phương tiện thể hiện và trao đổi thông tin (phát thanh, chuyển tải, khuếch đại và thu nhận) là luôn thay đổi nhanh chóng và rõ rệt hơn, gắn với sự phát triển ngày càng cao hơn của khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Khi nắm bắt và tác động vào riêng hình thức của thông tin, những phương tiện truyền thông góp phần quyết định trong việc tích cực hóa và hợp lý hóa cả về mặt số lượng lẫn về mặt chất lượng quá trình chuyển giao và trao đổi thông tin. Theo Đại từ điển tiếng Việt: "Thông tin: là truyền tin, được tin, báo cho nhau biết, tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới xung quanh" [37, tr. 1587]. Loài người đã phát triển từ những hình thức thông tin đơn giản, chủ yếu dùng tiếng nói và các tín hiệu, đến sự ra đời của chữ viết, báo chí, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình và làm cho thông tin phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu. Thông tin hiện đại đang góp phần rất lớn vào sự tiến bộ của nhân loại. Sự bùng nổ thông tin mang tính chất toàn cầu đã thúc đẩy sự phát triển của giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật giữa các quốc gia dân tộc. Nhu cầu giữ và tiếp nhận thông tin cùng tăng lên gấp nhiều lần. Thế giới như được thu hẹp lại, trong đó những nguồn tin của mỗi cộng đồng, mỗi địa phương được khai thác nhanh chóng và dựa vào dòng thác thông tin để trở thành sự hiểu biết chung của nhân loại. Đối với mỗi quốc gia, thông tin được xác định ở hai hướng chính: thông tin đối nội và thông tin đối ngoại. Thông tin đối ngoại là hoạt động truyền - nhận tin tức, xử lý và giải thích các thông tin trong quan hệ giữa các nước với nhau. Thông tin đối ngoại là hoạt động thông tin của một quốc gia nhằm vào các đối tượng ở bên ngoài nhằm tạo ra sự hiểu biết về quốc gia đó, xây dựng 9 hình ảnh của quốc gia ở bên ngoài theo cách mà quốc gia đó mong muốn nhằm phục vụ lợi ích của quốc gia đó. Thông tin đối ngoại có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Thông tin đối ngoại ra đời từ rất sớm, tuy nhiên đến thời kỳ hiện đại, khi trở thành một bộ phận quan trọng trên lĩnh vực tư tưởng - chính trị của các nước, công tác thông tin đối ngoại ngày càng được cải tiến, bổ sung những nội dung mới và phát triển mạnh mẽ, phục vụ đắc lực cho việc thực hiện chính sách đối ngoại của mỗi nước. Công tác thông tin đối ngoại không chỉ dừng lại trong việc truyền và nhận tin tức một cách thụ động, mà còn bao hàm cả việc phân tích, đánh giá, phát biểu quan điểm và định hướng xử lý về các thông tin liên quan đến những sự kiện trong nước và quốc tế nhằm đạt tới những mục đích cụ thể của đường lối đối nội và đối ngoại. Công tác thông tin đối ngoại là một bộ phận trong chiến lược thông tin để phục vụ cho lợi ích quốc gia. Ngày nay, trong quan hệ quốc tế hiện đại, khái niệm "quyền lực mềm" và "ngoại giao công chúng" ngày càng trở nên phổ biến. Theo đó, thông tin đối ngoại và văn hóa đối ngoại được coi là công cụ quan trọng mà các quốc gia đều ra sức triển khai nhằm ảnh hưởng tới dư luận quốc tế phục vụ cho những mục tiêu chung hay cụ thể của chính sách đối ngoại. Nhiều nước coi đó là bộ phận thiết yếu, không tách rời của chính sách đối ngoại và cũng quan trọng như sức mạnh quân sự và kinh tế. Xét về nội dung, thông tin tuyên truyền đối ngoại bao gồm nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng… Nhưng tựu chung lại, tuyên truyền đối ngoại tập trung vào một số nội dung chính sau: - Tuyên truyền đường lối, chính sách, những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, đặc biệt trong các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội và thành tựu mọi mặt của Việt Nam. Đối với nước ta hiện nay, tuyên truyền đường lối và chính sách là làm rõ chủ trương đổi mới toàn diện, chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa 10 đa phương hóa, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới. Tuyên truyền đường lối đổi mới gắn liền với việc quảng bá những thành tựu mọi mặt mà nước ta đã đạt được trong những năm qua và làm rõ quyết tâm chính trị, mô hình phát triển của Việt Nam. Làm rõ đường lối, chính sách sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại và tài chính với các đối tác nước ngoài. - Tuyên truyền chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối ngoại trong bối cảnh hiện nay là bao gồm cả kinh tế đối ngoại và trong đó có cả hợp tác song phương lẫn đa phương. Trong tình hình hiện nay, ta cần tuyên truyền những khả năng to lớn của Việt Nam trong quan hệ hợp tác với mọi đối tác, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội và theo nguyên tắc cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Tuyên truyền đi đôi với việc phổ biến những văn bản liên quan đến đầu tư kinh tế đối ngoại như những văn bản pháp lý, những quy định hành chính của ta về đầu tư, thuế, xuất, nhập khẩu… Thông tin tuyên truyền đối ngoại không chỉ làm rõ đường lối chính sách đối ngoại mà còn hỗ trợ cho các hoạt động ngoại giao. Đó là: cung cấp thông tin về các hoạt động ngoại giao cho báo chí và cho công chúng, chuẩn bị dư luận, tránh những bất ngờ không cần thiết trong phản ứng của dư luận, vận động dư luận ủng hộ quan điểm, chính sách của ta, đồng thời phản đối, đấu tranh dư luận, chống lại những luận điệu sai trái thù địch, phản bác những thông tin xuyên tạc, sai lệch về tình hình Việt Nam nhất là về tình hình dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, biên giới lãnh thổ; ngăn chặn việc truyền bá vào Việt Nam những quan điểm, tư tưởng, lối sống, văn hóa phản động, đồi trụy, kích động bạo lực. - Tuyên truyền về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa Việt Nam . Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là một trong những nội dung của quan hệ quốc tế. Văn hóa giúp ta hiểu được cốt cách của một dân tộc và nền tảng chính sách 11 đối ngoại của một quốc gia. Đối với ta, nội dung văn hóa lại càng quan trọng trong thông tin tuyên truyền đối ngoại. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đề ra nhiệm vụ cho công tác thông tin văn hóa đối ngoại: "Làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam với thế giới, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài. Phổ biến những kinh nghiệm tốt trong xây dựng và phát triển văn hóa của các nước. Ngăn ngừa sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy. Giúp đỡ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu biết tình hình nước nhà, thu nhận thông tin và sản phẩm văn hóa từ trong nước ra, nêu cao lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc, phát huy trí tuệ, tài năng sáng tạo, đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước". Thông tin tuyên truyền đối ngoại với nội dung văn hóa là cầu nối giữa các dân tộc nhằm tạo ra một hình ảnh đẹp và những đánh giá thuận lợi về đất nước ta trong các tầng lớp nhân dân ở các nước. - Thông tin tuyên truyền quốc tế ở trong nước. Thông tin tuyên truyền đối ngoại diễn ra theo hai chiều từ trong nước ra bên ngoài và ngược lại. Chiều ngược lại đôi khi ít được quan tâm do nhiều lý do khác nhau. Ngày nay do có những tiến bộ về công nghệ thông tin và nhu cầu về thông tin của nhân dân ngày càng phong phú và đa dạng, thông tin quốc tế không thể thiếu được. Một mặt, người dân không muốn thụ động đối với chính sách đối ngoại mà Chính phủ nước họ đề ra. Mặt khác, người dân không chỉ muốn biết những gì diễn ra trong nước, mà còn muốn được thông tin về quốc tế. Nội dung của thông tin quốc tế trong nước bao gồm: + Tuyên truyền đường lối quốc tế của Đảng và Nhà nước. + Nói rõ và giải thích quan điểm của Việt Nam về những vấn đề quốc tế mà nhân dân ta đặc biệt quan tâm. 12 + Cung cấp thông tin theo quan điểm của nước mình về tình hình quốc tế. + Đánh giá xu thế phát triển của tình hình thế giới. + Cung cấp thông tin về các nước trên thế giới, về các vấn đề mà thế giới cùng quan tâm giải quyết. Tuyên truyền thông tin quốc tế trong nước nhằm: + Đáp ứng nhu cầu thông tin quốc tế về mọi mặt của nhân dân. + Phổ biến quan điểm chính thống của ta về các vấn đề quốc tế, như vậy có thể tránh được những lệch lạc trong quan điểm và nhận thức có thể xuất hiện trong một số người. + Củng cố tình hữu nghị và hợp tác của nhân dân ta với nhân dân các nước trên thế giới. 1.1.2. Công tác thông tin đối ngoại là một nhiệm vụ của công tác đối ngoại Từ khi ra đời và phát triển cho đến nay, dù dưới bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào, mỗi nhà nước đều có hai chức năng cơ bản là: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Hai chức năng này có mối liên hệ mật thiết, hỗ trợ, gắn bó với nhau phục vụ lợi ích quốc gia. Đối nội là cơ sở của đối ngoại. Đối ngoại là sự tiếp tục, kéo dài của đối nội. Mặt trận đối ngoại tìm ra và khai thác tốt nhất các nhân tố thuận lợi bên ngoài phục vụ cho các mục tiêu bên trong, phát triển đất nước, phát hiện các nguy cơ, thách thức bên ngoài để tìm cách hạn chế và khắc phục. Các quốc gia thông qua hoạt động đối ngoại nhằm nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Đối ngoại là nhằm phục vụ mục tiêu cách mạng trong nước nhưng phải phù hợp với xu hướng, quy luật vận động của thế giới mới có thể phát huy hết nhiệm vụ, chức năng của mình. Mục đích của thông tin tuyên truyền đối ngoại cũng là mục đích của hoạt động đối ngoại. Một mặt là phải làm cho bạn bè cũng như các đối tác 13 trên thế giới hiểu rõ nước mình, mặt khác là góp phần thực hiện mục tiêu cách mạng đề ra. Trong mọi thời kỳ, mục đích của chính sách đối ngoại, các hoạt động đối ngoại đều nhằm phục vụ ba mục tiêu cơ bản là: - Góp phần đảm bảo độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ (thường gọi là mục tiêu an ninh). - Tranh thủ ngoại lực và tạo dựng điều kiện quốc tế thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước (hay mục tiêu phát triển). - Góp phần nâng cao địa vị quốc gia, mở rộng tầm ảnh hưởng ra phạm vi khu vực và thế giới (mục tiêu ảnh hưởng). Chính sách đối ngoại chính là cách xử thế mối quan hệ với các nước khác. Muốn vậy, các nước đều phải am hiểu và thu thập thông tin về các nước, đồng thời phải tuyên truyền ra bên ngoài để thế giới hiểu được mình. Làm rõ đường lối, chính sách cũng là một biện pháp hạn chế hành động của những lực lượng thù địch, lợi dụng tình trạng thiếu thông tin để xuyên tạc gây ra những bất lợi cho quốc gia. Là một bộ phận của hoạt động đối ngoại, thông tin tuyên truyền đối ngoại không thể nằm ngoài và độc lập với công tác đối ngoại và khi hoạch định chính sách đối ngoại, các nước đều đề ra chủ trương, nếu không nói là chiến lược tuyên truyền đối ngoại. Thông tin tuyên truyền đối ngoại có vai trò to lớn và đóng góp thiết thực đối với việc hoàn thành các nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong việc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đối với các nước trên thế giới, Bộ Ngoại giao thường chịu trách nhiệm về tuyên truyền đối ngoại. Ở Việt Nam cũng vậy, Bộ Ngoại giao "là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác ngoại giao", vừa trực tiếp thực hiện nhiệm vụ này. Hiện nay, dù một nước nhỏ đến đâu, khi tiến hành mở cơ quan đại diện ngoại giao, đều lập phòng thông tin hoặc cử cán bộ phụ trách báo chí, văn hóa tuyên truyền đối ngoại. 14 Cơ quan đại diện ngoại giao có nhiệm vụ "tiến hành công tác thông tin, giới thiệu về Việt Nam để chính quyền và nhân dân nước tiếp nhận hiểu biết về Việt Nam" [33]. Bên cạnh đó, thông tin đối ngoại còn là một bộ phận của công tác tư tưởng - văn hóa trên phạm vi quốc tế. Công tác tư tưởng hình thành từ khi xã hội có giai cấp và phát triển trong quá trình lịch sử loài người. Mọi chính Đảng, Nhà nước đều tiến hành công tác tư tưởng, coi đó là hoạt động quan trọng vào bậc nhất của mình, sử dụng mọi tinh hoa văn hóa, mọi phát minh khoa học mới nhất kể cả những thành tựu công nghệ tiên tiến nhất cho công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng của Đảng ta là hoạt động đa dạng và có chủ đích nhằm xây dựng, xác lập, phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, hình thành niềm tin, định hướng giá trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới quan khoa học cho con người, thúc đẩy con người hành động tích cực và sáng tạo để thực hiện thắng lợi lý tưởng và mục tiêu cách mạng của chủ nghĩa xã hội. Nói đến công tác tư tưởng - văn hóa, mọi người thường chỉ liên tưởng đến phạm vi quốc gia. Nhưng trên thực tế, thông tin tuyên truyền đối ngoại là sự tiếp tục của công tác tư tưởng - văn hóa trên phạm vi quốc tế với đối tượng khá phức tạp và đa dạng hơn. Nếu trong nước, thông tin tuyên truyền nhằm làm cho mọi công dân quán triệt rồi triển khai thực hiện những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, thì trên phạm vi quốc tế, văn hóa - thông tin tuyên truyền đối ngoại thực chất là nhằm tranh thủ dư luận thế giới, góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng được xác định cho một giai đoạn nhất định. Hiện nay, mục tiêu của cách mạng Việt Nam là tập trung phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế. Để thực hiện nhiệm vụ này, Việt Nam cần phát huy tối đa nội lực, đồng thời phải biết tận dụng mọi khả năng hợp tác quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp. Nhiệm vụ của văn hóa, 15 thông tin tuyên truyền đối ngoại chính là làm cho thế giới hiểu rõ mục tiêu trên và góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp. Thật vậy, văn hóa - thông tin đối ngoại được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X năm 2006 nhấn mạnh nhiệm vụ: "Đẩy mạnh công tác văn hóa thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước" [15, tr. 115]. Trong giai đoạn hiện nay, văn hóa đối ngoại được xác định có vai trò quan trọng, là một trong ba trụ cột của chính sách đối ngoại và nền ngoại giao hiện đại: Ngoại giao Chính trị - Ngoại giao Kinh tế - Ngoại giao Văn hóa. Ở nước ta, mặc dù cho tới những năm gần đây, khái niệm Ngoại giao Văn hóa mới được sử dụng rộng rãi song trên thực tế, Ngoại giao Văn hóa đã có lịch sử phát triển lâu đời xuất phát từ đặc trưng văn hóa hàng năm lịch sử của dân tộc và từ nhu cầu xây dựng và phát triển quan hệ hòa bình, hữu nghị với các quốc gia láng giềng. Tại Hội nghị Ngoại giao 26 diễn ra từ ngày 1/12 đến 10/12/2008 chọn năm 2009 là "Năm Ngoại giao Văn hóa". Trên tinh thần đó, văn hóa đối ngoại sẽ được triển khai tập trung chủ yếu vào một số điểm như tăng cường gắn kết chặt chẽ các hoạt động văn hóa đối ngoại với chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại phục vụ mục tiêu phát triển và hội nhập, tiếp tục tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, đẩy mạnh các hoạt động giao lưu văn hóa quốc tế, quảng bá các giá trị văn hóa dân tộc, di sản văn hóa lịch sử, triển khai tuyên truyền đối ngoại các đề án, chương trình nhân dịp các ngày lễ lớn của ta. Văn hóa đối ngoại là một kênh quan trọng tăng cường sự hiểu biết và phát triển quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước. Nó bổ trợ rất hữu hiệu cho các trụ cột khác, tạo thành một chỉnh thể chính sách đối ngoại phát huy tốt nhất sức mạnh dân tộc và kết hợp hiệu quả với sức mạnh thời đại Nội dung văn hóa - tuyên truyền đối ngoại cũng bao hàm những lĩnh vực được xác định cho công tác tư tưởng - văn hóa ở trong nước. Nếu có khác 16 chính là ở chỗ tuyên truyền đối ngoại cần nhấn mạnh đến quyết tâm chính trị trong việc thực hiện đường lối đã chọn cũng như khả năng và tiềm năng hợp tác quốc tế của nhà nước mình. Cụ thể trong giai đoạn hiện nay tuyên truyền đối ngoại cần làm rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đường lối chính trị đổi mới toàn diện và những chính sách, biện pháp cụ thể do chính phủ Việt Nam đưa ra nhằm cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam và xây dựng quan hệ đối tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới. 1.1.3. Đối tượng của thông tin đối ngoại Thông tin tuyên truyền đối ngoại đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Nhưng đối tượng tuyên truyền khá đặc biệt - chủ yếu là người nước ngoài. Đối tượng thông tin đối ngoại khác cơ bản với thông tin đối nội. Đối tượng của thông tin đối nội là cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong nước. Tuyệt đại đa số đối tượng này tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, nhất trí với đường lối, chính sách của Nhà nước. Người làm công tác tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền cùng có điểm chung về văn hóa, truyền thống và cách suy nghĩ. Ngược lại, trong tuyên truyền đối ngoại, giữa người làm tuyên truyền và đối tượng cần tuyên truyền có sự khác nhau thậm chí đôi khi là đối lập về cách tư duy, cách suy nghĩ, văn hóa, truyền thống, phong tục tập quán… Đối tượng của thông tin tuyên truyền đối ngoại gồm nhiều tầng lớp, giai cấp, thành phần xã hội với trình độ nhận thức, hiểu biết và có mối quan tâm khác nhau đến Việt Nam. Có thể phân chia ra hai loại đối tượng: đối tượng bên ngoài ở tại các nước (bao gồm cả người nước ngoài và Việt kiều) và đối tượng bên trong (gồm người nước ngoài ở Việt Nam). * Đối tượng bên ngoài ở các nước Chính giới: Gồm các nghị sĩ Quốc hội, quan chức chính phủ, các chính khách, các nhà hoạt động chính trị ở các cấp. Đây là nhóm đối tượng có vai 17 trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách đối nội và đối ngoại. Họ là nhóm đối tượng đặc biệt và nếu ta có quan hệ chặt chẽ và làm tốt việc cung cấp thông tin cho đối tượng này, tác động đến họ, thì họ sẽ có thể là lực lượng hậu thuẫn cho nhũng chính sách của nước đó với ta. Thông tin mà ta cần cung cấp cho những đối tượng này là các chủ trương chính sách lớn của đất nước ta và những vấn đề có liên hệ trực tiếp tới quan hệ song phương hoặc những thông tin mà từng nhóm đối tượng cần đến liên quan đến một hoặc nhiều lĩnh vực nào đó ở Việt Nam. Giới kinh doanh: Là các công ty, các nhà đầu tư, kinh tế, tài chính. Đây là một lực lượng có vai trò rất quan trọng trong việc thực thi các chiến lược kinh tế của nước họ ở nước ngoài. Trong bối cảnh chúng ta kêu gọi đầu tư, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, để có thể tranh thủ được nhóm này, cần tích cực cung cấp cho họ thông tin về chính sách kinh tế, các biện pháp khuyến khích đầu tư, các lợi ích kinh tế cụ thể mà họ có thể thu hoạch được khi làm ăn với Việt Nam. Khi mối quan tâm về lợi ích kinh tế của các công ty đối với ta đủ lớn, thì họ sẽ vận động Chính phủ nước họ có những quan hệ chặt chẽ hơn với Việt Nam để qua đó tạo thuận lợi hơn nữa cho việc làm ăn kinh doanh của họ. Giới học giả: Là các nhà nghiên cứu, các giáo sư giảng dạy tại các trường đại học hoặc các trung tâm nghiên cứu. Tại các nước, nhóm đối tượng này có vai trò tư vấn trong việc tham gia hoạch định hoặc thẩm định chính sách đối nội và đối ngoại. Là những nhà nghiên cứu, họ cần thông tin "đầu tay" để có được sự đánh giá, nhận xét chính xác về tình hình chung cũng như trong một lĩnh vực cụ thể của một quốc gia. Do đó, tùy theo khả năng, ta nên tranh thủ đối tượng này qua việc cung cấp thông tin, trao đổi, tiếp xúc, tổ chức hội htảo, hội nghị tạo điều kiện cho họ tiếp cận các cấp lãnh đạo của ta. Quần chúng nhân dân các nước: Đây là nhóm đối tượng đông đảo nhất và nếu được vận động, họ sẽ trở thành một lực lượng hậu thuẫn hùng 18 hậu. Sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với Việt Nam trong thời gian chiến tranh là một minh chứng. Đối với nhóm đối tượng này, hình thức thông tin cần đa dạng phong phú, chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, làm ăn hoặc định cư ở nước ngoài: Với hơn 3 triệu người Việt sống rải rác trên khắp thế giới, cộng đồng người Việt đóng vai trò cầu nối văn hóa và phần nào là cầu nối kinh tế thương mại giữa Việt Nam và các nước nơi họ sinh sống. Dù ra đi vì lý do nào, những người Việt Nam đều tự hào về các giá trị truyền thống và tìm cách gìn giữ và phát huy các giá trị đó và là đại diện và hiện thân của nền văn hóa và con người Việt Nam ở nước ngoài. Do đó, những người Việt Nam ở nước ngoài vừa là một đối tượng đặc biệt của thông tin đối ngoại, vừa là lực lượng tham gia thực hiện công tác này một cách tự nhiên. Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước chú trọng tới việc đáp ứng các nhu cầu thông tin và tình cảm của người Việt ở nước ngoài. Từ chương trình phát thanh "Dành cho đồng bào Việt Nam xa Tổ quốc" của Đài Tiếng nói Việt Nam được phát vào đêm thứ Sáu hàng tuần trong những năm 80, ngày nay chúng ta đã có VTV4 phát 24/24 được phủ sóng vệ tinh tới tất cả các khu vực trên thế giới có người Việt Nam sinh sống, chúng ta đã có hàng ngàn trang web của các báo, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, và nhiều ấn phẩm đa truyền thông phục vụ riêng cho đối tượng này, giúp cho đồng bào có nguồn thông tin đa dạng về Tổ quốc. Để gây được tác động tốt đến họ, cần phải có không chỉ chính sách tốt mà còn cả sự thực hiện nghiêm chỉnh chính sách đó ở các cấp, tránh gây phiền nhiễu cho họ và tạo điều kiện tốt cho họ trở về làm ăn, sinh sống tại quê nhà. * Đối tượng ở trong nước Cộng đồng người nước ngoài ở Việt Nam: Các cán bộ, nhân viên thuộc các cơ quan đại diện ngoại giao, đoàn ngoại giao; các đại diện, nhân viên các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ; các nhà đầu tư, kinh doanh, chuyên gia các lĩnh vực, các đoàn khách đến thăm viếng, khách du 19 lịch, đặc biệt chú ý tới đội ngũ phóng viên báo chí nước ngoài đang hoạt động báo chí tại Việt Nam (bao gồm phóng viên thường trú và phóng viên nước ngoài đến Việt Nam tác nghiệp trong thời gian ngắn), sinh viên trí thức. Đây là những đối tượng trực tiếp chứng kiến tình hình chính trị xã hội, kinh tế, văn hóa của đất nước ta. Ngoài việc hợp tác với các cơ quan chính phủ và địa phương trong việc hỗ trợ phát triển, theo dõi tình hình về nhân quyền, tôn giáo, tự do báo chí…, nhóm đối tượng này thường ra các báo cáo hàng năm về tình hình mọi mặt của Việt Nam, trực tiếp kiến nghị và thực hiện các chính sách quan hệ với đất nước ta và họ có thể tạo ra dư luận thuận hoặc bất lợi cho ta. Do đó mục đích của công tác thông tin đối ngoại là đem lại cho họ những ấn tượng tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam. Riêng phóng viên nước ngoài, đây là kênh thông tin quan trọng, tin tức của họ về Việt Nam được đông đảo dư luận thế giới quan tâm theo dõi. Thông qua hệ thống phân phối, bán tin của các hãng truyền thông đại chúng nước ngoài, bức tranh về Việt Nam do các phóng viên nước ngoài thực hiện đến được với mạng lưới lớn người xem. Về mặt này, ta dù có phương tiện hiện đại và nguồn lực lớn cũng không thể làm được. Trừ những phóng viên và các hãng thông tấn cố tình tập trung vào những vấn đề nhạy cảm mà ta không có nhu cầu tuyên truyền, đa số các hãng thông tấn báo chí nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đang gián tiếp giúp chúng ta thực hiện thông tin đối ngoại. Nhờ họ mà hình ảnh về Việt Nam ở nước ngoài đang thay đổi. Việt Nam đang được biết đến không phải là cuộc chiến tranh mà là một đất nước đang vươn mình đứng dậy, có nền kinh tế tăng trưởng cao và hấp dẫn du khách và các nhà đầu tư, kinh doanh. Vô hình chung, phóng viên nước ngoài hoạt động tại Việt Nam vừa là chủ thể làm thông tin đối ngoại vừa là đối tượng của thông tin đối ngoại. Đông đảo nhân dân cũng là một đối tượng đặc biệt của thông tin đối ngoại bên cạnh người nước ngoài ở Việt Nam. Hiện nay, trình độ dân trí ngày càng tăng và nhân dân ngày càng có những nhận thức sâu sắc hơn về tình 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan