BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
CHUYÊN ĐỀ HÔ HẤP
VIÊM PHỔI DO ADENOVIRUS
ĐẶNG PHƯƠNG THÚY
NỘI TRÚ NHI KHÓA 39
Hà Nội – 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
CHUYÊN ĐỀ HÔ HẤP
VIÊM PHỔI DO ADENOVIRUS
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN THỊ YẾN
ĐẶNG PHƯƠNG THÚY - NỘI TRÚ NHI 39
Hà Nội - 2015
i
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................1
CHƯƠNG 1 -
TỔNG QUAN TÀI LIỆU......................................................2
1.1. Đặc điểm sinh học của adenovirus.....................................................2
1.2. Đặc điểm dịch tễ học của viêm phổi do adenovirrus..........................4
1.3. Sinh bệnh học viêm phổi do adenovirus.............................................6
CHƯƠNG 2 -
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG..............14
2.1. Lâm sàng..........................................................................................14
2.2. Cận lâm sàng....................................................................................15
2.3. Biến chứng........................................................................................17
CHƯƠNG 3 -
ĐIỀU TRỊ............................................................................18
3.1. Chống suy hô hấp.............................................................................18
3.2. Điều trị triệu chứng và hỗ trợ...........................................................18
3.3. Chống nhiễm khuẩn..........................................................................18
3.4. Thuốc kháng virus............................................................................19
3.5. Liệu pháp miễn dịch.........................................................................20
CHƯƠNG 4 -
PHÒNG BỆNH...................................................................21
4.1. Phòng lây nhiễm...............................................................................21
4.2. Vacxin...............................................................................................21
KẾT LUẬN.....................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................23
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Virus là nguyên nhân gây viêm phổi phổ biến nhất ở trẻ em, đặc biệt là
trẻ dưới 5 tuổi. Một phân tích gộp dựa trên 51 nghiên cứu với 56091 trẻ viêm
phổi phải nhập viện cho thấy có 50,4% trường hợp xác định được căn nguyên
virus. Trong đó, ghi nhận 5,8% là viêm phổi do adenovirus [1]. Tuy không
phải tác nhân hay gặp nhưng các trường hợp này thường nặng, có tỷ lệ tử
vong cao, để lại di chứng, đặc biệt ở trẻ nhỏ và người có cơ địa suy giảm
miễn dịch [2], [3]. Hiện nay, viêm phổi adenovirus có xu hướng gia tăng, và
xảy ra thành dịch lớn trong môi trường tập thể, nhà trẻ, bệnh viện.
Trong thời gian học tập tại khoa Hô hấp bệnh viện Nhi Trung Ương,
em đã được tiếp cận và làm việc với nhiều trường hợp viêm phổi nặng do
adenovirus. Do vậy, em làm chuyên đề này nhằm 2 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của viêm phổi do adenovirus
2. Trình bầy được nguyên tắc điều trị và phòng bệnh viêm phổi do
adenovirus.
2
CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm sinh học của adenovirus
1.1.1. Cấu trúc hạt virus
Adenovirus là những virus không có vỏ bọc, chứa DNA mạch kép,
đường kính từ 70 – 90nm. Capsid có hình đa giác đều đối xứng tạo nên bởi
252 capsome. Có 2 loại capsome chính: 240 capsome loại hexon nằm trên 20
mặt hình đa giác đều và 12 capsome loại Penton nằm ở 12 đỉnh của hình đa
giác đều. Mỗi penton mang một sợi nhô ra bên ngoài và tận cùng bởi một
khối hình cầu nhỏ. Genome DNA kép, dạng thẳng, mã hóa cho một lượng lớn
protein cấu trúc và không cấu trúc. Protein cấu trúc gồm 10 phân tử trong đó
3 phân tử polypetid tạo hexon, 1 phân tử polypetid tạo penton và 1 phân tử
glycoprotein tạo sợi đỉnh. Cả 5 phân tử này nằm trên bề mặt hạt virut còn các
phân tử khác nằm bên trong hạt [4].
Hình 1: Cấu trúc Adenovirus
Nguồn: https://microbewiki.kenyon.edu/images/8/81/Adenojpg.gif
3
1.1.2. Cấu trúc kháng nguyên của virus
Adenovirus có cấu trúc kháng nguyên phức tạp. Có 3 loại kháng
nguyên cấu trúc capsid đó là :
- Hexon mang tính đặc hiệu nhóm, thứ nhóm và type.
- Penton mang tính đặc hiệu nhóm và thứ nhóm.
- Sợi mang tính đặc hiệu thứ nhóm và type.
Kháng thể trong huyết thanh sẽ tương tác với các kháng nguyên trong
phản ứng trung hòa và ức chế ngưng kết hồng cầu. Khi adenovirus nhân lên
trong tế bào nuôi cấy còn phát hiện nhiều kháng nguyên khác mang tính cảm
nhiễm [4].
1.1.3. Phân loại
Họ adenoviridae gồm 2 chi: mastadenovirus gây nhiễm ở động vật có
vú kể cả người, Aviadenovirus gây nhiễm ở chim. Ở người đã phát hiện 56
type adenovirus chia thành 7 loài với các đặc tính sinh học và đặc điểm gây
bệnh đặc trưng cho từng loài [4], [5].
Nguồn: Cherry JD (2014). Adenoviruses. Textbook of pediatric
infectious diseases, 7th ed, WB Saunders , Philadelphia.
4
1.1.4. Sức đề kháng và sự nhân lên của virus
Adenovirus là virus không có vỏ bọc nên có khả năng đề kháng với
nhiều chất sát khuẩn làm tan màng lipid như cồn, ete, nhưng nhạy cảm với
nhiệt, formaldehyde, và một số chất tẩy rửa. Nó bền vững trong phạm vi pH
rộng từ 2 - 10. Adenovirus có thể tồn tại mà không giảm hoạt tính xâm nhiễm
khi ở 40C trong nhiều tuần hoặc ở -250C trong nhiều tháng.
Adenovirus nhân lên tốt trong tế bào của người (tế bào ối, tuyến giáp,
thận) và các dòng tế bào HeLa, KB, Hep – 2. Virus nhân lên và chín trong
nhân tế bào túc chủ. Các tế bào nhiễm virus tròn lại, trong nhân xuất hiện
những hạt vùi. Thời gian cho một chu kỳ nhân lên trung bình là 30 giờ. Bệnh
phẩm nuôi cấy virus tùy theo bệnh cảnh lâm sàng, có thể là dịch tỵ hầy, nước
mắt, hay phân... Nuôi cấy bệnh phẩm vào các tế bào thích hợp như HeLa,
Hep-2..., phát hiện hiệu ứng tế bào bệnh, sự hủy hoại tế bào nuôi cấy xảy ra
sau 2 - 4 ngày [4].
1.2. Đặc điểm dịch tễ học của viêm phổi do adenovirrus
1.2.1. Dặc điểm dịch tễ học
Viêm phổi do adenovirus lưu hành rộng rãi trên toàn thế giới. Ở vùng
ôn đới, bệnh xảy ra trong cả năm, nhưng tần số mắc cao hơn vào mùa xuân. Ở
Việt Nam, adenovirus lưu hành rộng rãi ở nhiều nơi trong cả nước. Bệnh
thường xảy ra tản phát trong năm, tập trung vào những tháng xuân - hè nên rất
dễ nhầm lẫn với bệnh viêm đường hô hấp cấp do các virus khác vào mùa xuân
hoặc với bệnh sốt Dengue vào đầu mùa hè khi bệnh không có thể viêm kết
mạc cấp nổi trội [6].
1.2.2. Nguồn truyền nhiễm:
- Ổ chứa adenovirus là người. Bệnh nhân là nguồn truyền nhiễm trong
suốt thời kỳ mắc bệnh.
5
- Thời gian ủ bệnh: từ 5-12 ngày, trung bình là 8 ngày, có thể kéo dài
trên 12 ngày.
- Thời kỳ lây truyền: Bệnh bắt đầu lây truyền vào cuối thời kỳ ủ bệnh
và kéo dài đến 14 ngày sau khi phát bệnh hoặc có thể lâu hơn khi cơ thể vẫn
còn đào thải adenovirus ra ngoài [4].
1.2.3. Phương thức lây truyền:
Bệnh lây truyền do tiếp xúc trực tiếp giữa người với người qua đường
hô hấp; có thể lây qua niêm mạc do bơi lội hoặc nguồn nước rửa bị ô nhiễm
dịch tiết từ mắt, mũi, phân của bệnh nhân hoặc tiếp xúc gián tiếp qua đồ dùng
của bệnh nhân bị nhiễm adenovirus. Sự lây truyền của bệnh thường xảy ra ở
phòng khám bệnh, đặc biệt là ở phòng khám mắt. Các nhân viên y tế dễ bị lây
bệnh và từ đó có thể là nguồn lây truyền sang những thành viên khác trong
gia đình và những người xung quanh. Bệnh cũng có thể lây truyền qua giọt
nước bọt như những hạt khí dung bằng đường hô hấp hoặc lây truyền qua bể
bơi bị nhiễm adenovirus [4].
1.2.4. Tính cảm nhiễm và miễn dịch:
Viêm phổi do adenovirus có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Trên 90% trẻ sơ
sinh có kháng thể với một số type adenovirus phổ biến do được truyền từ mẹ
qua rau thai, vì vậy trẻ được bảo vệ cho đến 6 tháng đầu đời. Sau 6 tháng, chỉ
còn 14% trẻ còn đáp ứng miễn dịch tự nhiên với adenovirus. Tỉ lệ mắc bệnh
cao nhất ở lứa tuổi từ 6 tháng đến 5 tuổi, rất hiếm khi viêm phổi adenovirus
xảy ra ở trẻ sơ sinh. Sinh bệnh học nhiễm adenovirus thời kỳ sơ sinh hiện nay
vẫn chưa rõ. Có thể do lây truyền ngang từ bà mẹ hoặc các thành viên khác
trong gia đình trong quá trình chăm sóc trẻ, cũng có thể do nhiễm trước hoặc
ngay sau sinh đặc biệt ở những trẻ đẻ thường, tiếp xúc với dịch tiết đường âm
đạo của bà mẹ có nhiễm adenovirus. Những trường hợp viêm phổi adenovirus
6
thời kỳ sơ sinh thường nặng và có thể tử vong. Sau khi bị bệnh sẽ được miễn
dịch đặc hiệu týp. Có thể bị mắc bệnh lại do bị nhiễm týp adenovirus khác.
Đến nay vẫn chưa biết rõ về vai trò và thời gian miễn dịch sau khi mắc
adenovirus. Có đến 70-80% trẻ trên 5 tuổi có kháng thể trung hòa kháng
nguyên adenovirus type 1 và 2, 50% với type 5, gần 100% người lớn đã có
kháng thể đặc hiệu với nhiều týp adenovirus [4].
1.3. Sinh bệnh học viêm phổi do adenovirus.
1.3.1. Sự xâm nhập của adenovirus
Trong viêm phổi do adenovirus, ban đầu virus xâm nhập vào đường hô
hấp trên, tấn công vào các màng nhầy của mũi, họng miệng, và kết mạc. Có
thể phân lập được adenovirus từ đờm và các dịch tiết đường hô hấp 2 ngày
trước khi có triệu chứng cho đến 8 ngày sau đó. Thời gian lây nhiễm nhanh
trong cơ thể được cho là hít trực tiếp những hạt chứa virus vào phổi. Bình
thường đường hô hấp dưới được bảo vệ bằng các cơ chế phòng vệ sinh lý, bao
gồm phản xạ ho, sự vận chuyển của tế bào lông chuyển, lớp dịch nhầy, các đại
thực bào có mặt ở trong phế nang và tiểu phế quản, IgA tiết, và globulin miễn
dịch khác. Nếu các cơ chế phòng vệ không đủ khả năng loại bỏ virus ra khỏi
đường hô hấp, virus từ đường hô hấp trên sẽ nhanh chóng lan dọc xuống
dưới. Hệ thống biểu mô lông chuyển bị tổn thương trực tiếp dẫn đến tắc
nghẽn đường thở do phù nề, tăng tiết, ứ đọng dịch và do các mảnh vỡ tế bào.
Ở trẻ nhỏ do đường thở nhỏ nên quá trình này đặc biệt nghiêm trọng [7].
Adenovirus đi vào tế bào vật chủ bằng hai cơ chế phối hợp. Đầu tiên,
virus bám vào tế bào vật chủ bằng cách liên kết các sợi fiber với các thụ thể
của tế bào chủ. Các protein fiber có 3 nhánh: một đuôi N-terminal tương tác
với các phân tử Penton base, một miền trục trung tâm, và một miền hình cầu
C-terminal. Thụ thể bề mặt tế bào chủ bao gồm CD46 và CAR
7
(Coxsackievirus Adenovirus Receptor). CD46 hoạt động như các thụ thể đặc
hiệu đối với nhóm adenovirus type B, trong khi CAR là thụ thể của tất cả các
type huyết thanh khác. Các phức hệ phù hợp mô (major histocompatibility
complex - MHC) và dư lượng axit sialic cũng có thể đóng góp vào giai đoạn
này.
Hình 3: Quá trình bám dính của adenovirus lên tế bào vật chủ
Nguồn: http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3185752.
Sau khi bám dính, một pepton base của adenovirus tương tác với một
αv intergrin đồng thụ thể trên bề mặt tế bào chủ. Sự tương tác này hoạt hóa
phản ứng trùng hợp actin, dẫn đến quá trình nội thực bào, do đó adenovirus
dược đưa vào trong tế bào vật chủ qua lõm áo trên màng (túi clathrin) [8].
8
Hình 4: Quá trình nhân lên của adenovirus trong té bào vật chủ.
Nguồn: Mary M. Y and Chor W. S (2010). Anti-Viral Drugs for Human
Adenoviruses. Pharmaceuticals, 3, 334.
1.3.2. Sự nhân lên và giải phóng của virus
Sau khi đi vào trong tế bào vật chủ, hạt virus sẽ thoát ra khỏi túi nội
thực bào (endosome) nhờ pH trong endosome thay đổi, bị vỡ ra giải phóng
nucleocapsid. Vi ống gắn với hexon và vận chuyển hạt nucleocapsid này vào
gần lỗ màng nhân. Vỏ capsid bị phân giải, DNA được giải phóng và vào nhân
qua lỗ màng nhân, thực hiện quá trình biểu hiện gen (gen expression): nhân
đôi, phiên mã, dịch mã. Sau đó tổng hợp các thành phần của virus để thực
hiện việc lắp ráp tạo thành các hạt virus hoàn chỉnh. Sau khi được hình thành,
các hạt virus hoàn chỉnh thoát ra ngoài, gây vỡ tế bào chủ và lây nhiễm cho
các tế bào khác [8].
9
1.3.3. Phản ứng viêm và đáp ứng miễn dịch của vật chủ
Sau khi bị virus xâm nhập, tế bào đường hô hấp bị chết do virus nhân
lên phá huỷ tế bào hoặc bởi phản ứng miễn dịch, nhằm tiêu diệt virus sẽ tiêu
diệt luôn tế bào. Phổi có thể tổn thương thêm nữa thông qua đáp ứng miễn
dịch khi bạch cầu lympho kích hoạt các chất hoá ứng động, cytokine, làm
phát động quá trình viêm, làm các dịch thoát ra các phế nang. Mức độ và tính
chất của phản ứng viêm tại đường hô hấp được quyết định bởi các cytokine và
chemokine tiết ra bởi tế bào biểu mô bị tổn thương, thu hút và hoạt hóa bạch
cầu liên quan đến quá trình viêm. Những con đường thông qua các cytokine
này góp phần gây viêm đường thở trong viêm phổi [4].
a. Tác động trực tiếp của adeno lên tế bào đường hô hấp và cơ quan
khác
Thay đổi bệnh lý sớm được quan sát thấy ở biểu mô niêm mạc đường
hô hấp. Mức độ tổn thương khác nhau với các týp huyết thanh khác nhau. Khi
nuôi cấy virus trên tế bào biểu mô khí phế quản, sự tăng trưởng của
adenovirus type 7 gây ra hiệu ứng bệnh biến tế bào (the cytopathologic effect
- CPE). Các tế bào cảm nhiễm trương phồng lên do hình thành hạt vùi trong
nhân, tích lũy dịch thể [8].
Đáp ứng viêm liên quan đến nhiễm virus bao gồm thâm nhiễm bạch
cầu đơn nhân ở lớp dưới niêm mạc và khoảng quanh mạch có thể dẫn đến tắc
lòng phế quản. Co thắt cơ trơn phế quản thường xảy ra trong phản ứng viêm
này. Sự ảnh hưởng đến các phế bào II dẫn đến giảm sản xuất surfactant, hình
thành màng hyaline và phù phổi. Hậu quả là xẹp phổi, phù phổi kẽ và rối loạn
thông khí-tưới máu gây ra thiếu oxy máu đáng kể đi kèm với tắc nghẽn đường
thở. Bội nhiễm vi khuẩn thường gặp do cơ chế bảo vệ bình thường bị thay
đổi, biến đổi dịch tiết và thay đổi hệ vi khuẩn chí.
10
Mẫu sinh thiết phổi bệnh nhân chết vì viêm phổi adenovirus cho thấy
sự phá hủy lông mao biểu mô khí quản, và quá phát các tế bào biểu mô đường
hô hấp khác, với sự hiện diện của thể vùi trong nhân. Trong viêm phổi nặng
giải phẫu bệnh có hình ảnh viêm hoại tử phế quản, tiểu phế quản. Cùng với đó
là sự xâm nhập của tế bào đơn nhân, hoại tử biểu mô, phá hủy lớp màng
hyaline. Các tế bào lông chuyển và các tế bào hình đài tiết nhầy biến mất, bó
sợi cơ và sợi đàn hồi bị phân tán. Thông thường, các tế bào biểu mô có hình
dạng đặc trưng khi nhiễm adenovirus. Những tế bào bệnh bị trương phồng và
mất màng nhân, các thành phần của nhân di chuyển vào tế bào chất. Có hiện
tượng phù mạch, tách thành, và đôi khi có huyết khối [7].
Ngoài phổi, Adenovirus còn gây các biều hiện ở gan. Có thể phân lập
được virus từ mẫu bệnh phẩm gan. Kiểm tra dưới kính hiển vi điện tử phát
hiện được các hạt vùi do adenovirus trong nhân tế bào gan. Thông qua đường
máu, virus có thể xâm nhập hệ thống thần kinh trung ương. Hầu hết bệnh
nhân nhiễm trùng thần kinh trung ương adenovirus là những bệnh nhân có
viêm phổi trước dó. Giải phẫu bệnh mô thần kinh cho thấy hình ảnh phù nề,
xung huyết, thâm nhiễm quanh mạch của tế bào lympho, cùng với những hạt
vùi lớn trong nhân tế bào thần kinh. Ngoài ra, còn ghi nhận sự tác động của
adenovirus lên các tế bào, mô cơ quan khác trong cơ thể như tế bào biểu mô
ống thận, biểu mô dạ dày ruột, hạch bạch huyết, cơ vân.
11
Hình 5: Hình ảnh hình ảnh viêm hoại tử phế quản, tiểu phế quản, thể
vùi trong nhân của các tế bào nhiễm adenovirus.
Nguồn: Joseph P. L, Michael F, Marcela E (2011). Adenovirus.
Seminars in respiratory and critical care medicine, 32(4), 496.
b. Sự kiện miễn dịch:
Các tế bào miễn dịch cũng đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh
sinh. Các tế bào biểu mô nhiễm virus làm xuất hiện một chuỗi các sự kiện của
miễn dịch bẩm sinh. Tế bào biểu mô bị nhiễm tiết ra IL-1, IL-6, IL-8 và các
yếu tố hòa tan khác thu hút và kích hoạt các tế bào miễn dịch. Cuối cùng,
TCD8+ tấn công tế bào nhiễm virus gây ly giải tế bào. Các yếu tố bề mặt tế
bào tạo điều kiện dẫn đường cho tế bào lympho đến mô phổi vẫn đang được
nghiên cứu. Các phản ứng tại chỗ do nhiễm adenovirus phụ thuộc cơ quan
nhiễm, phương thức lây truyền, các serotype của virus, nồng độ các kháng thể
và tình trạng miễn dịch của vật chủ. Ba ngày sau nhiễm virus, cơ thể bắt đầu
có hiện tượng xuất tiết, và sản xuất các kháng thể IgA đưa vào trong đường hô
12
hấp. Khoảng 7 ngày sau khi khởi phát bệnh, xuất hiện các kháng thể trung
hòa huyết thanh, kháng thể ức chế hemagglutinin, và kháng thể cố định bổ
thể. Nhìn chung, kháng thể trung hòa là các chỉ số nhạy cảm nhất của nhiễm
adenovirus, tiếp theo là kháng thể ức chế hemagglutinin, và kháng thể cố định
bổ thể là ít nhậy cảm nhất. Nồng độ kháng thể đạt đỉnh trong 2 đến 3 tuần;
kháng thể cố định bổ thể giảm dần trong 2 đến 3 tháng nhưng có thể kéo dài
đến 1 năm. Kháng thể trung hòa huyết thanh tồn tại trong một khoảng thời
gian dài có thể hơn 10 năm. Vì vậy hiếm khi tái nhiễm adenovirus cùng
serotype.
Các nghiên cứu của Ginsberg và cộng sự ở chuột cho thấy trong viêm
phổi adenovirus có tăng nồng độ các cytokine như yếu tố hoại tử u - TNFα,
interleukin 1, và interleukin 6 vào 2-3 ngày đầu của bệnh. Tuy nhiên, chỉ
TNFα có vai trò ở pha cấp trong cơ chế bệnh học. Giai đoạn sau của phản ứng
viêm là do sự xâm nhập của các tế bào T gây độc tế bào [9]. Trong một
nghiên cứu của Kawasaki và đồng nghiệp so sánh kết quả thử nghiệm lâm
sàng và kết quả xét nghiệm ở trẻ viêm phổi adenovirus với những trẻ viêm
phổi do cúm và virus hợp bào hô hấp. Họ nhận thấy rằng viêm phổi nhiễm
adenovirus còn có tế bào lympho không điển hình, CRP và máu lắng, nồng độ
IL-6 huyết thanh trung bình cũng cao hơn đáng kể so với cúm và RSV [10].
Mistchenko và cộng sự nghiên cứu các cytokine và phức hợp miễn dịch
lưu hành trong máu ở 38 trẻ viêm phổi adenovirus. Nghiên cứu chia thành ba
nhóm dựa trên mức độ bệnh: trung bình, nặng, và tử vong. Không ghi nhận
dấu ấn của IL1 trong huyết thanh trường hợp trung bình nhưng tìm thấy ở 7
trên 12 trẻ viêm phổi nặng và ở 13 trong 16 trẻ tử vong. TNFα thường có
trong huyết thanh của các trường hợp tử vong, 2 trong số 12 bệnh nhân nặng
nhưng không tử vong và không tìm thấy ở nhóm trung bình. IL8 đã được ghi
nhận ở cả 3 nhóm, nhưng giá trị cao nhất ở nhóm tử vong. Phức hợp kháng
13
thể (có chứa IgG) đã được tìm thấy trong 7 trong số 16 trẻ tử vong. Những
trường hợp tăng nồng độ IL6, IL8, và TNFα là những trẻ có giảm tưới máu tổ
chức, sốt cao, co giật và sốc nhiễm trùng. Năm trong số 10 trẻ viêm phổi nặng
và tử vong có tự kháng thể kháng cơ trơn trong máu [11]. Nhiều nghiên cứu
khác cũng chỉ ra rằng, sự có mặt IL-6, IL-8, và TNF-a có liên quan đáng kể
với viêm phổi adenovirus nặng và tử vong. Hơn nữa, nồng độ các cytokine
tương quan chặt chẽ với biểu hiện lâm sàng, do vậy rất khó phân biệt với
nhiễm khuẩn, đặc biệt những bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn do vi khuẩn gram
âm. Một số báo cáo cho thấy tỷ lệ tử vong liên quan đến adenovirus thường
là thấp, tuy nhiên ở trẻ suy dinh dưỡng với nhiễm trùng hô hấp nặng nguy cơ
tử vong cao gấp 2-3 lân so với trẻ khỏe mạnh. Ngoài ra, ở những bệnh nhân
ghép tạng hoặc suy giảm miễn dịch, nhiễm adenovirus có thể dẫn đến nhiễm
trùng lan tỏa, với tỷ lệ tử vong> 53% [11], [12].
14
CHƯƠNG 2 - ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG
2.1. Lâm sàng
2.1.1. Triệu chứng đường hô hấp
Viêm phổi adenovirus thường gặp ở trẻ trên 6 tháng tuổi, đặc biệt cao ở
lứa tuổi từ 6-12 tháng, hiếm gặp ở thời kỳ sơ sinh. Phần lớn các trường hợp có
biểu hiện của hội chứng viêm long đường hô hấp trên trước đó vài ngày. Thời
kỳ nung bệnh từ 6 – 8 ngày. Bệnh đột ngột với sốt cao 39 0C, ho, chảy nước
mũi, mệt mỏi, đau đầu, đau họng, khàn tiếng, viêm kết mạc và tiêu chảy.
Thông thường trong gia đình cũng có người bị bệnh với biểu hiện tương tự.
Trong một nghiên cứu, có khoảng 45% trường hợp viêm phổi do Adenovirus
có tiền sử tiếp xúc với nguồn bệnh [2].
Trong giai đoạn toàn phát, các dấu hiệu hô hấp đã rõ ràng, biểu hiện tùy
thuộc mức độ nặng nhẹ của bệnh. Đặc biệt viêm phổi adenovirus thường sốt
cao, kéo dài so với viêm phổi do các căn nguyên khác. Bệnh cảnh khá giống
với viêm phổi do vi khuẩn nhưng kém đáp ứng với điều trị kháng sinh. Trẻ
thường thở nhanh, gắng sức. Có thể suy hô hấp, đặc biệt ở trẻ nhỏ. Mức độ
khó thở thường trội hơn các biểu hiện nhiễm trùng và triệu chứng thực thể tại
phổi. Nghe phổi có thể thấy ran rít, ran ngáy (tắc nghẽn đường thở). Khó xác
định vị trí các ran ở trẻ quá nhỏ, có tình trạng khí phế thũng. Trong trường
hợp khí phế thũng nhiều khám thấy lồng ngực căng, gõ vang, thông khí phổi
giảm, gan lách có thể sờ thấy do bị đẩy xuống thấp [2], [4], [13].
Bệnh thường nặng và dai dẳng, số ngày nằm viện kéo dài (thời gian
điều trị trung bình là 20 ngày) [15], [16]. Nhìn chung, viêm phổi do
Adenovirus không có triệu chứng đặc hiệu. Nhưng bệnh thường nặng diễn
biến cấp tính. Có tới 29% phải hô hấp hỗ trợ. Các biểu hiện ở cơ quan khác
ngoài hô hấp khá đa dạng và phức tạp (tiêu hóa, thần kinh, tim mạch, v.v.).
15
Điểm nối bật để hướng tới viêm phế quản phổi do Adenovirus thường dựa vào
tiến triển, vào yếu tố lâm sàng ít phù hợp giữa cơ năng và thực thể [2], [4],
[15].
2.1.2. Triệu chứng ngoài đường hô hấp
Trong số các virus đường hô hấp thường gặp, adenovirus là virus duy
nhất có thể lây lan đến các cơ quan khác gây viêm kết mạc, viêm dạ dày ruột,
viêm bàng quang xuất huyết, viêm não màng não. Ngoài ra, có thể còn có các
biểu hiện ở gan, lách, tụy, thận, hoặc cơ tim cả ở trẻ khỏe mạnh và trẻ suy
giảm miễn dịch.
Sinh bệnh học của các biểu hiện ngoài phổi hiện còn chưa được biết rõ.
Tuy nhiên, có một số giả thuyết về cơ chế tổn thương do các phản ứng miễn
dịch và gây độc tế bào. Các kháng nguyên Penton, một thành phần của capsid
virus có khả năng gây độc cho tế bào. Trong môi trường nuôi cấy virus, nhận
thấy các protein này được tổng hợp với số lượng vượt quá nhu cầu cho việc
lắp ráp các virion hoàn chỉnh, được giải phóng vào máu kéo dài và có thể gây
tổn thương lan tỏa cho các tế bào nội mô. Một giải thuyết khác là do sự lưu
hành của phức hợp kháng thể kháng nguyên adenovirus gây độc đến các tế
bào trong môi trường nuôi cấy. Đã có báo cáo về một số trường hợp viêm
phổi nặng do adenovirus có hội chứng Reye với các biểu hiện rối loạn chức
năng gan, và não [17].
2.2. Cận lâm sàng
2.2.1. X- quang ngực thẳng
Hình ảnh thâm nhiễm lan tỏa, thường là cả hai bên. Hiếm khi, có tràn
dịch màng phổi hoặc hạch trung thất. Hình ảnh X-quang thường gặp là ứ khí
phổi, đám mờ rải rác, dày thành phế quản, có thể có các vùng xẹp phổi. Rốn
phổi có thể đậm nhưng rốn phổi lớn do hạch to thường không gặp. Các triệu
16
chứng X quang vẫn tồn tại trong 2 đến 4 tuần và thay đổi chậm [2], [14], [15].
2.2.2. Xét nghiệm máu
Mặc dù ít khi thấy có sự thay đổi về số lượng bạch cầu, nhưng có thể
giảm số lượng tế bào lympho trước hoặc lúc có dấu hiệu khởi phát trên lâm
sàng. Tăng bạch cầu trung tính thường xảy ra trong giai đoạn sớm của bệnh,
và giảm trong giai đoạn sau. Giảm bạch cầu có thể xảy ra trong các trường
hợp nặng do tác dụng trực tiếp gây độc của virus trên bạch cầu, hoặc ức chế
tủy, hoặc cả hai. Máu lắng bình thường hoặc cao trên 55 mm/giờ đầu [4].
Viêm phổi do adenovirus có số lượng bạch cầu trung tính, CRP và máu
lắng, nồng độ IL-6 huyết thanh trung bình cũng cao hơn đáng kể so với nhiễm
cúm và RSV [9], [10].
2.2.3. Các xét nghiệm chẩn đoán
Để chẩn đoán nhiễm adenovirus có thể sử dụng phương pháp nuôi cấy
tế bào, phương pháp phát hiện kháng nguyên trực tiếp, hoặc PCR. Các xét
nghiệm huyết thanh tìm kháng thể không có giá trị chẩn đoán [4].
Hầu hết các type adenovirus đều phát triển tốt khi nuôi cấy tế bào. Tuy
nhiên phương pháp này thường đòi hỏi 2-7 ngày và do đó không giúp ích cho
chẩn đoán căn nguyên sớm.
Bệnh phẩm hô hấp hay từ mắt có thể được kiểm tra bằng cách sử dụng
phương pháp nhuộm miễn dịch huỳnh quang với kháng thể để phát hiện
protein adenovirus. Các xét nghiệm miễn dịch liên kết enzyme có sẵn có thể
được sử dụng để nhanh chóng phát hiện adenovirus trong các mẫu bệnh phẩm
thường là phân.
Các xét nghiệm sinh học phân tử như PCR cho kết quả nhanh chóng,
độ nhạy cao và có thể chẩn đoán được các serotype và đặc biệt có ích ở bệnh
nhân suy giảm miễn dịch, khi mà xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang có thể
- Xem thêm -