MỤC LỤC
Trang
I. Đặt vấn đề………………………………………………………………1
II. Giải quyết vấn đề………………………………………………………1
1. Căn cứ xác định………………………………………………………...1
2. Nội dung của nguyên tắc……………………………………………….5
3. Điều kiện thực hiện nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng…………………………………………………..8
4. Ý nghĩa nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng………………………………………………………….13
III. Kết thúc vấn đề………………………………………………………13
0
Bài làm
I.Đặt vấn đề
Sự vô tư của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là một
trong những điều kiện quan trọng có tính chất quyết định để vụ án được giải
quyết khách quan không làm oan người vô tội và để lọt tội phạm. Vì vậy đảm
bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được coi là
một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự.
II. Giải quyết vấn đề
1. Căn cứ xác định
Việc tham gia quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng có vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật
vụ án, giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Chính vì vậy Điều 14 Bộ luật tố tụng hình sự đã qui định về bảo đảm sự
vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng:“ Thủ trưởng, phó thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm
sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư
ký Tòa án không được tiến hành tố tụng hoặc người phiên dịch, người giám định
không được tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để chi rằng họ có thể không
vô tư tron khi thực hiện nhiệm vụ của mình.”
Ngoài ra, còn có những điều luật khác quy định cụ thể những trường hợp
phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng hoặc những trường hợp phải
từ chối hoặc thay đổi người giám định, người phiên dịch được qui định tại các
1
Điều 42, Điều 44, Điều 45, Điều 46, Điều 47, Điều 60, Điều 61 Bộ luật tố tụng
hình sự.
2. Nội dung của nguyên tắc.
Thứ nhất, những người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám
định phải giữ được sự vô tư khi làm nhiệm vụ của mình trong mọi trường hợp.
Họ phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật, tiến hành công việc của mình với
thái độ thật sự công tâm, khách quan, vô tư, không được để những quan hệ,
những tình cảm cá nhân chi phối vào công việc. Không được có thái độ thiên vị
hay định kiến đối với bất kì người tham gia tố tụng nào(1).
Để đảm bảo sự vô tư khi tham gia tiến hành tố tụng pháp luật quy định
những người tiến hành tố tụng phải từ chối hoặc bị thay đổi nếu:
Một là, họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự;
người có quyền lợi, liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân
thích của người đó hoặc của bị can, bị cáo;
Ví dụ: A là Thẩm phán đồng thời cũng là người bị hại bởi hành vi trộm
cắp tài sản của B. Nếu như A tiếp tục là thành viên của Hội đồng xét xử thì sẽ
không đảm bảo được sự khách quan, vô tư khi giải quyết vụ án.
Hoặc nếu X thẩm phán và cũng là cha hoặc mẹ của Y. Y phạm tội cố ý
gây thương tích cho người khác. Khi là người thân thích với bị cáo thì việc đưa
ra quyết định sẽ không tránh khỏi sự thiên vị, ưu tiên. Và như vậy, quyết định
hình phạt cho bị can, bị cáo sẽ không công bằng, không minh bạch…
Hai là, họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó.
2
Người bào chữa (bao gồm: luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân - Điều 56 Luật tố tụng hình sự)
thực hiện chức năng gỡ tội trong tố tụng hình sự, khi tham gia tố tụng họ có trách
nhiệm đưa ra những chứng cứ gỡ tội để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
_____________________
(1). Trường Đại học Luật Hà Nội - "Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam" NXB. Công an
nhân dân, tr 68.
cáo. Trong khi đó, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng là phải xác định sự
thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, không được coi nhẹ
mặt nào, buộc tội cũng như gỡ tội. Vì vậy, người bào chữa không thể đảm bảo
tính khách quan, vô tư trong khi tiến hành tố tụng (1).
Người làm chứng, người giám định là người tham gia tố tụng, có nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết đúng vụ án. Những người này
không thể đồng thời là người tiến hành tố tụng trong cùng một vụ án, vì lúc đó
họ vừa là người cung cấp chứng cứ, vừa là người thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ đó, như vậy sẽ không đảm bảo được sự khách quan trong quá trình
chứng minh để giải quyết vụ án (2).
Người phiên dịch tham gia trong vụ án khi có người tham gia tố tụng
không biết tiếng Việt để phiên dịch cho những người này trong quá trình tiến
hành tố tụng. Sự giao tiếp trong quá trình giải quyết vụ án và việc xác định sự
thật vụ án phụ thuộc một phần vào người phiên dịch. Vì vậy, người tiến hành tố
tụng không thể đồng thời là người phiên dịch để đảm bảo sự khách quan trong
khi làm nhiệm vụ (3).
3
Ba là, nếu có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi
thực hiện nhiệm vụ của mình. Theo Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày
2/10/2004 giải thích: có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư
trong khi làm nhiệm vụ là ngoài các trường hợp được quy định tại khoản 1,
khoản 2 Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì trong các trường hợp khác (như
trong quan hệ tình cảm, quan hệ thông gia, quan hệ công tác, quan hệ kinh tế...)
có căn cứ rõ ràng để có thể khẳng định là Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án
không thể vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Ví dụ: Hội thẩm là anh em kết nghĩa
________________
(1), (2), (3) Trường Đại học Luật Hà Nội - "Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam" NXB.
Công an nhân dân, tr 110, 111.
của bị can, bị cáo; Thẩm phán là con rể của bị cáo; người bị hại là Thủ trưởng cơ
quan, nơi vợ của Thẩm phán làm việc... mà có căn cứ rõ ràng chứng minh là
trong cuộc sống giữa họ có mối quan hệ tình cảm thân thiết với nhau, có mối
quan hệ về kinh tế… Cũng được coi là có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có
thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ nếu trong cùng một phiên tòa xét xử vụ
án hình sự, Kiểm sát viên, thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Tòa án là người thân
thích với nhau.
Người thân thích là người có những quan hệ như: Là vợ, chồng, cha đẻ,
mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; Là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; Là cụ nội, cụ ngoại của một trong những
người trên đây; là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; là cháu ruột mà họ
là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
Ngoài ra, đối với từng người tiến hành tố tụng còn có những căn cứ cụ thể
khác do luật quy định. Ví dụ: đối với Điều tra viên quy định tại khoản 1 điều 44;
4
Kiểm sát viên quy định tại khoản 1 điều 45; Thẩm phán và Hội thẩm quy định tại
khoản 1 điều 46; Thư kí Tòa án quy định tại khoản 1 điều 47.
Thứ hai, việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này là điều kiện cần thiết để
thực hiện một số các nguyên tắc cơ bản khác của tố tụng hình sự như nguyên tắc
bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự; bảo đảm quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật; xác định sự thật của vụ án; bảo đảm
quyền bào chữa của người bị giam giữ, bị can, bị cáo; nguyên tắc Thẩm phán và
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật… (1) Có thể nói nguyên tắc
này là đòi hỏi pháp lý chi phối mọi hoạt động của những người tiến hành tố tụng.
___________________
(1). Trường Đại học Luật Hà Nội - "Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam" NXB. Công an
nhân dân, tr 69.
Ví dụ: hiện nay, có không ít các trường hợp thẩm phán nhận hối lộ để bóp
méo sự thật của vụ án, ham lợi cá nhân. Điển hình như vụ án nhận hối lộ ở Bắc
Giang.
Theo cáo trạng, sự việc bắt nguồn từ việc Nguyễn Văn Long, con trai của
Quảng bị TAND huyện Lục Ngạn phạt 15 tháng tù về tội Cướp tài sản. Vụ án bị
kháng cáo và thẩm phán Hoài được phân công xét xử phúc thẩm. Muốn “xin”
cho con trai được hưởng án treo, Quảng đã tìm gặp Hoài nhờ giúp đỡ và được
nhận lời muốn Long được án treo thì chi phí là 10 triệu đồng.
Quảng đưa Hoài trước 7 triệu đồng, phần còn lại sẽ đưa sau. Nhận 7 triệu
đồng, Hoài chia cho Lâm 1,5 triệu đồng. Ngày 16/12/2009, TAND tỉnh Bắc
Giang xét xử phúc thẩm vụ án và Hoài đã tuyên hủy án sơ thẩm, trả hồ sơ để
5
điều tra lại. Long được trả tự do tại tòa nhưng một tháng sau thì Long bị CA bắt
lại. Khi Hoài trả lại tiền cho Quảng thì bị cơ quan chức năng phát hiện, bắt giữ.
Ngày 6/9, Viện KSND tỉnh Bắc Giang đã hoàn tất cáo trạng, truy tố
Hoàng Ngọc Hoài - nguyên thẩm phán và Nguyễn Thanh Lâm- nguyên cán bộ
TAND tỉnh Bắc Giang về tội danh Nhận hối lộ; truy tố Nguyễn Văn Quảng trú
tại xã Phì Điền (huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang) về tội danh Đưa hối lộ (1) .
Việc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
được thực hiện. Có đảm bảo được sự vô tư trong quá trình tố tụng thì mới bảo
đảm được sự minh bạch, công bằng và đúng đắn của pháp luật đảm bảo cho cuộc
đấu tranh chống tội phạm được kiên quyết, triệt để kịp thời, góp phần vào việc
giáo dục kẻ phạm tội, đồng thời ngăn chặn việc làm oan người vô tội và ngăn
ngữa việc hạn chế quyền dân chủ của công dân một cách trái pháp luật.
___________________
(1) nguồn: Minh Hằng "Thẩm phán nhận hối lộ" - trang giadinh.net.vn
Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng cũng
sẽ tạo tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng của công dân trước pháp luật. Không có sự phân biệt nam nữ, dân tộc tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội…Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý
theo pháp luật. pháp luật không có quy định riêng cho từng công dân cụ thể, tài
sản và địa vị xã hội không mang lại đặc quyền trước Tòa án và pháp luật, mọi
người đều có quyền như nhau khi tham gia tố tụng hình sự. Do đó nguyên tắc vô
tư trong tố tụng được thực hiện tốt bởi người tham gia hoặc tiến hành thì sự thì
đã góp phần vào việc nâng cao tính đúng đắn và khách quan của pháp luật mang
bảo đảm được quyền cơ bản của công được quy định trong Hiến pháp.
6
Nguyên tắc này cũng có ảnh hưởng lớn trong việc thực hiện nguyên tắc
xác định sự thật vụ án. Để không làm oan người vô tội và không để lọt tội phạm
thì những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng phải có cái nhìn khách
quan vô tư. Một chút thiếu khách quan cũng có thể đưa vụ án đi theo chiều
hướng khác không đúng như nó đã diễn ra.
Ví dụ: vụ án giết người ở tỉnh Vĩnh Long ngày 7-2-2007 cơ quan điều tra
chỉ dựa trên lời nhận tội của bị cán, bị cáo mà kết luận vụ án: Quyên do tức giận
vì mẹ cằn nhằn đã đến giường bóp cổ bà Tám đến chết với sự giúp sức của Lê
Thị Tám (vợ Quyên). Mặc dù trong quá trình tiến hành tố tụng có sự mâu thuẫn
giữa lời khai của bị cáo và người làm chứng cụ thể:
Lúc đầu nhân chứng là Yến khai nhìn thấy Quyên bưng cái gì đó xuống
xuồng cột dưới mé sông trước nhà Quyên. Nhưng sau đó lại thay đổi lời khai là
thấy Quyên và vợ khiêng vật gì đó dài, nặng và mềm được bọc kín xuống xuồng
đậu cặp mé sông trước nhà Quyên.
Trong khi đó, bị cáo là vợ chồng Quyên lại khai khác là khiêng xác bà
Tám đề ở nhà tắm rồi lấy thuyền cho xuống sông. Sau đó khiêng xác bà Tám
xuống xuồng và về nhà lấy gạch, bê tông và dây cột chặt vào xác bà Tám rồi
chèo xuồng đi cách nhà 100m rồi mới thả xuống sông.
Nhưng kết luận pháp y thì nguyên nhân chết của bà Tám là ngạt nước, suy
hô hấp, trụy tim mạch (1).
Như vậy, từ sự không vô tư, không khách quan khi xem xét toản diện vụ
án mà Tòa án đã có những quyết định không đúng đắn về vụ án.
Do đó trong qua trình tiến hành tố tụng những người tiến hành tố tụng
hoặc tham gia tố tụng phải áp dụng mọi biện pháp để xác định sự thật vụ án một
7
cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, không được thiên vị tình cảm cá nhân để
đưa vụ án được giải quyết đúng đắn.
3. Điều kiện thực hiện nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Trong hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế, tính khả thi không cao, nhiều
vấn đề còn chưa được quy định đầy đủ, rõ ràng, thống nhất.
Ví dụ: theo quy định tại điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự thì đối tượng phải
từ chối hoặc thay đổi tiến hành tố tụng khi có những căn cứ quy định tại khoản 1,
2 và 3 điều này là người tiến hành tố tụng. Song, khi quy định căn cứ từ chối
hoặc thay đổ người tiến hành tố tụng cụ thể tại các điều 44, 45, 46, 47 Bộ luật tố
tụng hình sự chỉ có các đối tượng là điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội
thẩm, thư kí tòa án, điều tra viên là thủ trưởng cơ quan điều tra, viện trưởng viện
kiêm sát, chánh án tòa án mà không có phó thủ trưởng cơ quan điều tra, phó viện
trưởng viện kiểm sát, phó chánh án tòa án. Như vậy, vấn đề này đã không được
quy định rõ ràng.
Trong bộ luật tố tụng hình sự quy định ngoài cơ quan tiến hành tố tụng,
_____________________
(1) nguồn: Phạm Thục - "Lật lại vụ án "Con trai giết mẹ ở tỉnh Vĩnh Long" - Kịch bản
nào là đúng". Trang web Saigon online).
người tiến hành tố tụng được quy định tại điều 33, điều 60, điều 61 còn có các cơ
quan khác được tiến hành một số hoạt động tố tụng theo điều 111 Bộ luật tố tụng
hình sự (Bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và các
cơ quan khác của công an nhân dân, quân đội nhân dân). Khi tiến hành các hoạt
động tố tụng họ cũng cần tuân theo các quy định để đảm bảo sự vô tư khi tiến
8
hành hoạt động tố tụng. Nhưng pháp luật hiện nay lại không có quy định về trách
nhiệm đảm bảo sự vô tư đối với họ.
Hoặc bộ luật tố tụng hình sự quy định người giám định phải từ chối hoặc
bị thay đổi khi có căn cứ: họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người thân thích của những
người đó hoặc của bị can, bị cáo, có căn cứ cho rằng họ tham gia với tư cách là
thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra… Việc thay đổi người giám định do
cơ quan trưng cầu quyết định. Tuy nhiên, khi quy định những trường hợp người
giám định không được thực hiện giám định tư pháp tại điều 37 Pháp lệnh giám
định tư pháp năm 2004 lại không quy định căn cứ người giám định thực hiện với
vai trò như điều 42 và khoản 4 điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định (2).
Như vậy, pháp luật đã không có sự thống nhất với nhau trong việc cùng
quy định một vấn đề.
Như vậy, điều kiện thứ nhất để thực hiện nguyên tắc này là cần có những
quy định pháp luật để điều chỉnh vấn đề này, những quy định pháp luật này phải
đầy đủ, rõ ràng, thống nhất (1).
Trên thực tế, vấn đề tự nguyện, tự giác từ chối tiến hành tố tụng của người
tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không cao. Bởi ngoài những mối
_________________
(1). Trường Đại học Luật Hà Nội - "Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam" NXB. Công an
nhân dân, tr 69.
(2). Xem Tạp chí nhà nước và pháp luật số 8/2008, tr 53.
quan hệ công tác còn có những mối quan hệ xã hội khác như: quan hệ gia đình,
bạn bè, họ hàng, làng xóm, thậm chí là quan hệ cấp trên cấp, cấp dưới…Với tư
9
tưởng nhờ vả vào người thân quen thì lợi ích được đảm bảo, hạn chế phải chịu
chịu trách nhiệm trước pháp luật và đáp lại là sự "cố gắng sẽ giúp" của những
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Chính điều này là nguyên nhân
làm cho sự thật bị "biến dạng, méo mó", các quyết định không đảm bảo được
tính khách quan, tính chính xác.
Vì vậy, điều kiện thứ hai để thực hiện nguyên tắc này là những người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm
của mình, cần chủ động, tự giác tiến hành từ chối tiến hành hoặc tham gia tố
tụng nếu thuộc một trong các trường hợp luật định (1)
Ngoài ra, để đảm bảo được sự vô tư của những người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng cần có những quy định đảm bảo tranh tụng dân chủ tại
phiên tòa; tăng cường năng lực giám sát của công dân đối với các hoạt động của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; đào tạo nâng cao năng lực, ý
thức pháp luật và đạo đức nghề nghiệp cho những người tiến hành tố tụng; phát
hiện sớm và xử lý nghiêm minh và kịp thời mọi hành vi lôi kéo, mua chuộc
những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng.
4. Ý nghĩa nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng:
Đảm bảo sự công bằng, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên.
__________________
10
(1). Trường Đại học Luật Hà Nội - "Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam" NXB. Công an
nhân dân, tr 69.
Người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng nếu đảm bảo được sự khách
quan, vô tư thì sự thật vụ án sẽ được xác định đúng đắn, khách quan, chính xác,
bảo đảm sự công bằng của pháp luật.
Đảm bảo được uy tín của đội ngũ áp dụng pháp luật. Tạo điều kiện mở
rộng và phổ biến hơn nữa công tác dân chủ hóa quá trình tố tụng. Đảm bảo được
sự công bằng, bảo đảm được quyền và lợi ích của các bên. Là cơ sở tạo niềm tin
của người dân vào pháp luật, vào sự công bằng, vào ý thức trách nhiệm của đội
ngũ cán bộ pháp luật.
Khắc phục những tiệu cực, quan liêu, cá nhân chủ nghĩa, không vô tư
trong hoạt động tố tụng.
Là điều kiện để thực hiện một số nguyên tắc khác của tố tụng hình sự như
nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật, xác định sự thật vụ án, bảo đảm quyền bào chữa của bị
can, bị cáo, nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật…
III. Kết thúc vấn đề
Qua sự xem xét về nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của
những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng và điều kiện đảm bảo thực hiện
nguyên tắc này chúng ta thấy rõ hơn vai trò của nguyên tắc này trong suốt quá
trình tố tụng. Cũng bởi thế mà pháp luật cần có những quy định cụ thể hơn đầy
đủ hơn để điều chỉnh vấn đề này bởi sự vô tư của người tiến hành tố tụng và
11
người tham gia tố tụng có ảnh hưởng lớn đến việc bảo đảm công lý được thực
thi, để không xử oan người vô tội và không để lọt tội phạm.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội - "Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam" NXB. Công an nhân dân
2. Tạp chí nhà nước và pháp luật số 8/2008.
3. Tài liệu trên Internet:
+ Trang web: giadinh.net.vn
+ Trang web: Saigon online
4. Luật Tố tụng hình sự Việt Nam. NXB. Lao động.
12
- Xem thêm -