MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH VỀ HÀNH NGHỀ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ CỦA
NGƯỜI HÀNH NGHỀ KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH............................................ 6
1.1 Một số khái niệm về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người
hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.............................................................................. 6
1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính đối với quy định về hành nghề và
sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.........7
1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính...................................................................... 7
1.2.2. Khái niệm vi phạm hành chính đối với quy định về hành nghề và sử dụng
chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.............................10
1.2.3. Đặc điểm các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính đối với quy định về
hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh............................................................................................................................. 11
1.2.4. Các hành vi vi phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành
nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh...................................................... 14
1.3. Những vấn đề chung về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi
phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh..................................................................................... 20
1.3.1 Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về
hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh............................................................................................................................. 20
1.3.2. Mục đích xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về
hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh............................................................................................................................. 21
1.3.3. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định
về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh............................................................................................................................. 22
1.3.4. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu
quả đối với hành vi vi phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề
của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh............................................................... 27
1.3.5. Thời hiệu và thời hạn xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm
quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám
bệnh, chữa bệnh........................................................................................................... 30
1.3.6. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định
về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh............................................................................................................................. 32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.......................................................................................... 43
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI
HÀNH VI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ HÀNH NGHỀ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG
CHỈ HÀNH NGHỀ CỦA NGƯỜI HÀNH NGHỀ KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN............................................................. 44
2.1. Thực trạng vi phạm các quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh, nguyên nhân, hậu quả.............................................. 44
2.1.1. Thực trạng vi phạm hành chính trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.........44
2.1.2. Đánh giá tình hình vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về
hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh............................ 45
2.1.3. Nguyên nhân, hậu quả của tình hình vi phạm hành chính đối với hành vi vi
phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
47
2.2. Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định
về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh...............49
2.2.1. Thực trạng xử phạt...................................................................................... 49
2.2.2. Ưu điểm, hạn chế trong việc xử phạt vi phạm hành chính về hành nghề và
sử dụng chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.................................................. 51
2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, bất cập trong hoạt động xử phạt vi phạm
hành chính về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh....53
2.4. Một số kiến nghị hoàn thiện hoạt động xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi vi phạm quy định hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề khám
bệnh, chữa bệnh......................................................................................................... 59
2.4.1. Hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính về hành nghề và sử dụng
chứng chỉ hành nghề.................................................................................................... 60
2.4.2. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thi hành pháp luật trong lĩnh vực xử
phạt vi phạm hành chính về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề....................61
2.4.3. Củng cố tổ chức thanh tra chuyên ngành về lĩnh vực hành nghề y (khám,
chữa bệnh) và nâng cao chất lượng đội ngũ thanh tra viên y tế...................................64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.......................................................................................... 66
KẾT LUẬN................................................................................................................ 69
PHỤ LỤC I................................................................................................................ 71
PHỤ LỤC II............................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................. 81
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xử phạt vi phạm hành hính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
y tế đối với từng lĩnh vực cụ thể nói riêng là công cụ quan trọng nhằm duy trì trật tự,
kỷ cương trong hoạt động quản lý hành chính của nhà nước. Và cũng là vấn đề liên
quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của người dân được Đảng, Nhà nước và xã hội
hết sức quan tâm.
Trong những năm vừa qua, công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe của
người dân đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng. Tại Hội nghị trực tuyến tổng kết
công tác ngành y tế năm 2019 và triển khai các hoạt động trọng tâm năm 2020, Phó
Giám đốc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh ông Tăng Chí Thượng cho biết, năm 2019
ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt nhiều kết quả nội bật và ngày càng đáp ứng
nhu cầu khám chữa bệnh của người dân, đó là tổng số bác sĩ 17.881, chiếm tỉ lệ
19,88/10.000 dân (đạt 99.4%); số lượt khám, chữa bệnh vượt hơn 50 triệu lượt
(50.096.073 lượt, tăng 12,1% so với năm 2018); công tác phòng chống dịch bệnh được
1
thực hiện tốt .
Một trong những nguyên nhân để đạt được kết quả trên là Nhà nước đã sử dụng
một cách hiệu quả công cụ pháp luật trong công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực y
2
tế. Trong đó, bao gồm Nghị định số 176/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, đã tạo được một công cụ pháp lý rất quan
trọng để chấn chỉnh trật tự, kỷ cương trong quản lý nhà nước về y tế và Nghị định số
3
117/2020/NĐ-CP để bổ sung cụ thể các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực y
tế nhằm đảm bảo, bảo vệ quyền lợi và sức khỏe của nhân dân ngày càng cao hơn, góp
phần đưa pháp luật xử lý vi phạm hành chính vào thực tiễn áp dụng nhiều hơn.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của hệ thống y tế trên cả nước bao gồm cả y tế
nhà nước và y tế tư nhân, cũng đã xảy ra không ít các trường hợp vi phạm pháp luật
liên quan đến hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân. Thực tiễn cho thấy khi phát hiện
các hành vi vi phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề khám
bệnh, chữa bệnh, một số người có thẩm quyền còn nhiều lúng túng khi áp dụng các
1 Ngành Y tế Thành Phố Hồ Chí Minh ngày càng đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân,
, ngày truy cập 17/01/2020.
2 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hình chính trong lĩnh vực y tế,
ngày 14/11/2013.
3 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hình chính trong lĩnh vực y tế,
ngày 28/9/2020.
2
quy định của pháp luật để xử phạt, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các hoạt động có liên quan đến hành nghề và sử
dụng chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh còn chưa cao. Theo báo cáo công
tác thanh tra y tế từ năm 2017 đến 9 tháng năm 2020 thì việc thanh tra, kiểm tra đã
được tiến hành thường xuyên nhưng vẫn còn những hạn chế cần phải nghiên cứu để
hoàn thiện các công cụ pháp luật liên quan đến vấn đề xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính về hành nghề và sử
dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh” là một yêu
cầu cần thiết nhằm góp phần đề ra những giải pháp về hoàn thiện quy định pháp luật
cũng như tăng cường các biện pháp tổ chức thực hiện nhằm xử lý nghiêm minh, kịp
thời các hành vi vi phạm quy định về hành nghề, và sử dụng chứng chỉ hành nghề
trong khám bệnh, chữa bệnh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế nói chung là đề tài đã được một
số học giả, nhà nghiên cứu tập trung khai thác trong những năm vừa qua. Tuy nhiên,
số lượng công trình nghiên cứu đề tài trong lĩnh vực này chưa thực sự đa dạng, phong
phú.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu của các tác giả trong lĩnh
vực y tế như: “Thực trạng hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế”
của tác giả Trần Ngọc Duy (2017), Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, luận
văn tập trung nghiên cứu, luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực y tế để đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế trong thời gian tới; “ Xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế từ thực tiễn tỉnh Yên Bái”, của tác giả
Đào Hồng Ngọc (2018), Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội Hà Nội - Viện
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, luận văn nghiên cứu làm rõ vấn đề lý luận pháp
luật xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực y tế đối sánh với thực tiễn áp dụng quy định
tỉnh Yên Bái và hướng tới đề xuất một số kiến nghị chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
hệ thống quy định xử phạt hành chính lĩnh vực y tế nói chung, kiện toàn phương pháp
thực thi pháp luật xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực y tế trên địa bàn tỉnh Yên Bái
nói riêng; “Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế từ thực tiễn thành phố Hà
Nội”, của tác giả Trịnh Thị Thỏa (2017) Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học Xã hội
Hà Nội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, luận văn nghiên cứu những vấn
3
đề lý luận liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực y tế nói riêng. Qua đó phân tích, đánh giá thực trạng xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế từ thực tiễn thành phố Hà Nội trong giai đoạn
từ năm 2012 đến năm 2016, từ đó phân tích những quan điểm và đề xuất một số giải
pháp tăng cường việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế thời gian tới,
ngoài ra tại Trường Đại Thành phố Hồ Chí Minh có luận văn thạc sĩ của tác giả Đặng
Văn Đức (Khóa 1-Vĩnh Long) “Xử phạt vi phạm hành chính về khám bệnh, chữa
bệnh”. Những công trình luận văn này bước đầu đã tập trung làm rõ những vấn đề xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế và đưa ra một số ưu điểm, nhược điểm để
từ đó đề xuất một số giải pháp khắc phục mà chưa có công trình nghiên cứu nào
chuyên sâu về một hành vi vi phạm hành chính cụ thể về khám bệnh, chữa bệnh trong
lĩnh vực y tế.
Qua phân tích trên, tác giả thấy rằng với đề tài luận văn nghiên cứu cụ thể về
“Xử phạt vi phạm hành chính về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của
người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tại Thành phố Hồ Chí Minh” sẽ đảm bảo
được tính mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định của pháp luật về việc xử phạt vi phạm hành chính về hành nghề và
sử dụng chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và quá trình thực hiện pháp luật
về việc xử phạt vi phạm hành chính về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề
khám bệnh, chữa bệnh trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt pháp lý: Đề tài nghiên cứu cơ sở pháp lý chung về xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành
nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh như: khái niệm, các hình thức, thẩm
quyền, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề thực tiễn tại Thành
phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, tác giả đã thu thập tài liệu về xử phạt vi phạm hành chính
ở một số tỉnh khác để so sánh, làm rõ thêm vấn đề.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4.1 Mục đích
4
Đề tài nghiên cứu vấn đề về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn của hoạt động xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về hành nghề và sử dụng
chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh từ thực tiễn Thành
phố Hồ Chí Minh. Qua đó:
- Chỉ ra được những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi vi phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề
của người hành nghề khám, chữa bệnh.
- Đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp xử phạt vi phạm
hành chính về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề và nâng cao chất lượng hoạt
động xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về hành nghề và
sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
4.2 Nhiệm vụ
Một là, phân tích các vấn đề pháp lý liên quan đến việc xử phạt vi phạm hành
chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính về hành nghề và sử dụng chứng chỉ
hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh nói riêng; phân nhóm các hành
vi vi phạm quy định về hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và các
hành vi vi phạm quy định sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám
bệnh, chữa bệnh.
Hai là, đánh giá thực trạng xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi
phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề
khám bệnh, chữa bệnh tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Ba là, đề xuất các biện pháp nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc, và
một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính về
hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, nhà nước và tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu:
5
- Phương pháp tổng hợp: tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu tập trung
nghiên cứu, tham khảo các sách, bài viết, đề tài khoa học, chương trình, dự án, các bài
báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành liên quan đến xử phạt vi phạm hành
chính nói chung và vi phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề
của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh nói riêng ở Chương cơ sở lý luận và pháp
lý về xử phạt vi phạm hành chính về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề khám
bệnh, chữa bệnh.
- Phương pháp phân tích: được sử dụng ở chương I để phân tích các quy định
của pháp luật liên quan đến hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về hành nghề và sử
dụng chứng chỉ hành nghề, trên cơ sở đó phân tích, đối chiếu với kết quả hoạt động
thực tiễn từ năm 2017 đến 9 tháng năm 2020 nhằm đề ra các giải pháp, kiến nghị để
hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn xử phạt.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có hai
chương, gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính về hành nghề
và sử dụng chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
Chương 2: Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy
định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh,
chữa bệnh và một số kiến nghị hoàn thiện.
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ
HÀNH NGHỀ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ CỦA NGƯỜI HÀNH
NGHỀ KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH
1.1 Một số khái niệm về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của
người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
Trong hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực y tế để xử phạt vi phạm hành
chính đối với các hành vi vi phạm về khám bệnh, chữa bệnh, cụ thể là hành vi vi phạm
quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám
bệnh, chữa bệnh, trước hết cần phải hiểu một số thuật ngữ, khái niệm cơ bản sau:
Một là, hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
4
Tại Khoản 6 Điều 2 của Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 quy định
“Người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh là người đã được cấp chứng chỉ hành nghề
và thực hiện khám bệnh, chữa bệnh.
Thông thường, mọi người hiểu rằng người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh là
bác sĩ. Tuy nhiên, hiện nay, khái niệm người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh được
định nghĩa tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 102/2011/NĐ-CP về Bảo hiểm trách
5
nhiệm trong khám, chữa bệnh như sau: “Người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh” là
người đã được cấp chứng chỉ hành nghề và thực hiện khám bệnh, chữa bệnh gồm: bác
sĩ, y sĩ; điều dưỡng viên; hộ sinh viên; kỹ thuật viên; lương y; người có bài thuốc gia
truyền hoặc có phương pháp chữa bệnh gia truyền. Trong đó, người hành nghề khám
bệnh, chữa bệnh là lương y; người có bài thuốc gia truyền hoặc có phương pháp chữa
bệnh gia truyền được hiểu như sau: Lương y là người có hiểu biết về lý luận y dược
học cổ truyền, có kinh nghiệm khám bệnh, chữa bệnh bằng phương pháp y dược học
cổ truyền có dùng thuốc hoặc không dùng thuốc được Bộ Y tế hoặc Sở Y tế công nhận
6
sau khi có ý kiến của Hội đông y trung ương hoặc Hội đông y cấp tỉnh . Người có bài
thuốc gia truyền hoặc có phương pháp chữa bệnh gia truyền là người sở hữu bài thuốc
hoặc phương pháp chữa bệnh theo kinh nghiệm lâu đời do dòng tộc, gia đình truyền
4
5
Luật Khám bệnh, chữa bệnh số 40, ngày 23 tháng 11 năm 2009.
Nghị định số 102 của Chính phủ về Bảo hiểm trách nhiệm trong khám bệnh, chữa bệnh, ngày 14 tháng 11
năm 2011.
6 Khoản 8 Điều 2 của Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009.
7
lại, điều trị có hiệu quả đối với một hoặc vài bệnh, chứng nhất định được Sở Y tế công
7
nhận sau khi có ý kiến của Hội đông y cấp tỉnh .
Hai là, chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 2 của Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 quy
định: Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh là văn bản do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp cho người có đủ điều kiện hành nghề.
Trong đó, theo quy định tại Điều 42 của Nghị định số 109/2016/NĐ-CP quy định
cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh các cơ quan có thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề gồm
Bộ trưởng Bộ Y tế và Giám đốc Sở Y tế. Cá nhân khi có đủ các điều kiện như sau: có
văn bằng, giấy chứng nhận phù hợp với hình thức hành nghề khám bệnh, chữa bệnh;
có văn bản xác nhận quá trình thực hành của người đứng đầu cơ sở khám, chữa bệnh;
giấy chứng nhận đủ sức khỏe để hành nghề khám bệnh, chữa bệnh; không thuộc
trường hợp đang trong thời gian bị cấm hành nghề, cấm làm công việc liên quan đến
chuyên môn y, dược theo bản án, quyết định của Tòa án; đang bị truy cứu trách nhiệm
hình sự; đang trong thời gian chấp hành bản án hình sự, quyết định hình sự của tòa án
hoặc quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở
chữa bệnh; đang trong thời gian bị kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên có liên quan
đến chuyên môn khám bệnh, chữa bệnh; mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì
được đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề.
1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính về hành nghề và sử dụng
chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật hiện nay khá phổ biến, xảy ra
hàng ngày trong đời sống xã hội. Với tính chất phổ biến đó, mặc dù mức độ nguy hiểm
thấp hơn so với tội phạm nhưng vi phạm hành chính cũng gây ra nhiều thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích chung của xã hội, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng
phạm tội nếu như không được phát hiện, ngăn chặn kịp thời. Việc nghiên cứu khái
niệm vi phạm hành chính có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn
bởi vì định nghĩa đúng về vi phạm hành chính là cơ sở để xác định các hành vi vi
phạm hành chính cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Xác định được vi phạm
hành chính thì mới bảo đảm được tính chính xác và tránh được sự tùy tiện trong việc
7Khoản 9 Điều 2 của Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009.
8
xử phạt vi phạm hành chính; đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ
chức và cá nhân; phát huy hiệu quả và mục đích của xử phạt vi phạm hành chính trong
việc lập lại trật tự quản lý nhà nước bị xâm hại, góp phần giáo dục người vi phạm,
8
cảnh cáo và phòng ngừa vi phạm xảy ra trong tương lai .
Về mặt lý luận, khái niệm vi phạm hành chính là căn cứ để xác định hành vi vi
phạm pháp luật nào là vi phạm hành chính, giúp phân biệt hành vi đó với tội phạm và
các hành vi vi phạm pháp luật khác. Dựa vào khái niệm vi phạm hành chính, có thể
xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của một hành vi vi phạm pháp
luật, tạo cơ sở để quy định việc xử lý cũng như đấu tranh một cách hiệu quả đối với
các hành vi vi phạm pháp luật.
Trên thực tế, dựa vào các dấu hiệu nêu trong khái niệm, người dân ít nhất cũng
có thể tự đối chiếu để đánh giá hoặc điều chỉnh hành vi của mình, hoặc có thể tự bảo
vệ mình trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý không đúng đối với
hành vi vi phạm của mình. Về phía các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính, khi giải quyết các vụ việc cụ thể, có thể dễ dàng chỉ rõ và giải thích cho đối
tượng vi phạm biết hành vi nào của họ là hành vi vi phạm hành chính và bị xử lý ra
9
sao .
Khái niệm vi phạm hành chính đầu tiên được đề cập trong Pháp lệnh Xử phạt vi
phạm hành chính năm 1989. Theo quy định tại Điều 1 của Pháp lệnh này: “Vi phạm
hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Tuy nhiên, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 lại không đưa ra
định nghĩa trực tiếp về vi phạm hành chính mà chỉ quy định gián tiếp thông qua khái
niệm xử phạt vi phạm hành chính: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với
cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc về quản lý nhà nước
mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị
10
xử phạt vi phạm hành chính” .
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (được sửa đổi, bổ sung vào các
năm 2007, 2008) tiếp tục kế thừa cách định nghĩa về vi phạm hành chính của Pháp
lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995, tại Khoản 2 Điều 1 quy định: “Xử phạt vi
8
Nguyễn Thị Ngọc Bích, Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, Luận văn
Thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010, tr. 7.
9 Tống Thị Hoài Phương, Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, tr. 7.
10 Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995.
9
phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung
là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt hành chính”.
Ngày 20/6/2012, Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội thông qua,
trong đó đã quy định cụ thể hơn về khái niệm vi phạm hành chính: “Vi phạm hành
chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật
về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị
11
xử phạt vi phạm hành chính” .
Từ các khái niệm nêu trên, vi phạm hành chính có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tính có lỗi của vi phạm hành chính. Lỗi là trạng thái nhận thức và tâm
lý của chủ thể đối với hành vi và hậu quả của hành vi vi phạm. Lỗi là yếu tố bắt buộc
trong cấu thành vi phạm hành chính. Chỉ có thể coi là vi phạm hành chính khi chủ thể
nhận thức được hành vi của mình và thực hiện hành vi một cách cố ý hay vô ý. Nếu
chủ thể không nhận thức được vì mắc bệnh tâm thần hay bệnh khác dẫn đến mất khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình (mất năng lực chịu trách nhiệm hành
chính) thì hành vi của họ được coi là không có lỗi và chủ thể không bị coi là đã thực
12
hiện hành vi vi phạm hành chính, do đó không bị xử phạt .
Thứ hai, hành vi vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước (tính trái
pháp luật hành chính). Hành vi vi phạm hành chính được thực hiện dưới dạng hành
động hoặc không hành động và các hành vi đó được biểu hiện sau:
- Không thực hiện những hành vi mà pháp luật hành chính yêu cầu.
- Thực hiện những hành vi mà pháp luật hành chính cấm.
- Thực hiện những hành vi vượt quá phạm vi pháp luật hành chính cho phép.
Thứ ba, không phải là tội phạm. Đây là dấu hiệu quan trọng của vi phạm hành
chính, một điểm tích cực được kế thừa từ Pháp lệnh năm 1989 và Pháp lệnh năm 2002.
Nhìn qua thì việc khẳng định vi phạm hành chính không phải là tội phạm có lẽ là thừa
vì là lẽ đương nhiên. Nhưng đây lại là dấu hiệu có tính nguyên tắc, là căn cứ để Chính
phủ quy định hành vi vi phạm hành chính. Dấu hiệu này đòi hỏi các hành vi vi phạm
hành chính không thể là hành vi cấu thành một tội phạm nào đó đã được Bộ luật Hình
sự quy định nếu hành vi nào đó đã được Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm thì
11
12
Khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên), Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, NXB Hồng ĐứcHội Luật gia Việt Nam, tr. 72.
10
không thể là vi phạm hành chính. Đây là sự phân biệt về dấu hiệu pháp lý mang tính
13
bắt buộc chứ không phải là dựa vào nhận thức chủ quan của người xử phạt .
Thứ tư, vi phạm hành chính phải bị xử phạt theo quy định của pháp luật. Điều
này có nghĩa là một hành vi không bị xem là vi phạm hành chính nếu hành vi đó không
14
được pháp luật quy định phải bị xử phạt vi phạm hành chính . Nói cách khác đã là vi
phạm hành chính thì phải là hành vi được quy định tại điều, khoản cụ thể trong một
văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Đây là dấu hiệu pháp lý
quan trọng nhất của vi phạm hành chính “chỉ khi nào được pháp luật quy định cụ thể
15
thì khi đó hành vi mới là vi phạm hành chính” . Như vậy, có thể thấy rằng nếu một
hành vi trái quy định nào đó của pháp luật quản lý nhà nước, xâm phạm các lợi ích mà
Nhà nước bảo vệ nhưng chưa được một điều, khoản cụ thể nào quy định về xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi đó thì hành vi đó cũng không thể coi là vi phạm hành
chính.
Qua các phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm vi phạm hành chính như sau:
Vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do cá nhân, tổ chức có năng lực
trách nhiệm hành chính thực hiện, xâm phạm đến các quan hệ được luật hành chính
bảo vệ mà theo quy định của pháp luật phải bị áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm
hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả (nếu có).
1.2.2. Khái niệm vi phạm hành chính về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành
nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
Trong các quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Luật khám
bệnh, chữa bệnh năm 2009 thì khái niệm vi phạm hành chính đối với quy định về hành
nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh hiện nay chưa được định
nghĩa. Nghị định số 117/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế chỉ liệt kê các hành vi vi phạm “Vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế là
những hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải xử phạt vi phạm hành chính, gồm sáu nhóm hành vi: nhóm 1 vi phạm
các quy định về y tế dự phòng và phòng, chống HIV/AIDS; nhóm 2 vi phạm các quy
13 Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên), Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, NXB Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr. 73.
14 Nguyễn Ngọc Duy (2014), Bình luận Luật Xử lý vi phạm hành chính và trình tự, thủ tục xem xét quyết định
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, NXB Hồng Đức, tr. 7.
15 Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên), Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, NXB Hồng ĐứcHội Luật gia Việt Nam, tr. 77.
17
Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP.
11
định về khám bệnh, chữa bệnh; nhóm 3 vi phạm các quy định về dược, mỹ phẩm;
nhóm 4 Vi phạm các quy định về trang thiết bị y tế; nhóm 5 vi phạm các quy định về
17
bảo hiểm y tế; nhóm 6 vi phạm các quy định về dân số” .
Tuy nhiên, thông qua việc phân tích khái niệm vi phạm hành chính thì có thể
hiểu: Vi phạm hành chính đối với quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành
nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh là hành vi (hành động hoặc không
hành động) của cá nhân, tổ chức cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật
trong lĩnh vực về y tế mà không phải là tội phạm theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt vi phạm hành chính.
1.2.3. Đặc điểm các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính về hành nghề và
sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
Xét về mặt lý luận, vi phạm hành chính đối với quy định về hành nghề và sử
dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh là một dạng cụ
thể của vi phạm hành chính nên cũng có đầy đủ bốn yếu tố cấu thành của vi phạm
hành chính, bao gồm mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.
Thứ nhất, mặt khách quan của vi phạm hành chính đối với quy định về hành
nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
Một là, vi phạm hành chính đối với quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ
hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh được biểu hiện dưới dạng hành
động hoặc không hành động. Ví dụ: Tẩy xóa, sữa chữa hồ sơ bệnh án nhằm làm sai lệch
16
thông tin về khám bệnh, chữa bệnh là hành vi được biểu hiện dưới dạng hành động;
không cấp giấy xác nhận quá trình thực hành cho người thực hành sau khi đã hoàn thành
17
quá trình thực hành theo quy định của pháp luật là hành vi được biểu hiện dưới dạng
không hành động. Khi xem xét, đánh giá hành vi của cá nhân có phải hành
vi vi phạm hành chính đối với quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề
của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh hay không cần có những căn cứ pháp lý rõ
ràng, hành vi vi phạm phải được quy định trong Nghị định số 117/2020/NĐ-CP quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế. Bởi vì theo quy định tại
Khoản 3 Điều 1 của Nghị định số 117/2020/NĐ-CP quy định các hành vi vi phạm
hành chính khác trong lĩnh vực y tế không quy định tại Nghị định này mà được quy
định tại Nghị định khác về xử phạt vi phạm hành chính thì áp dụng quy định tại Nghị
định đó để xử phạt.
16
17
Điểm e Khoản 5 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP.
Điểm b Khoản 4 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP.
12
Hai là, tính trái pháp luật của vi phạm hành chính đối với quy định về hành
nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, thể
hiện ở việc những hành vi này bị pháp luật cấm nhưng cá nhân, tổ chức vẫn thực hiện
(như hành vi làm lộ tình trạng bệnh, thông tin mà người bệnh đã cung cấp và hồ sơ
bệnh án, trừ trường hợp người bệnh đồng ý hoặc để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm
nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán, chăm sóc, điều trị người bệnh giữa người hành
nghề trong nhóm trực tiếp điều trị cho người bệnh hoặc trong trường hợp khác được
18
pháp luật cho phép ); hoặc bị pháp luật buộc phải thực hiện nhưng cá nhân, tổ chức
không thực hiện (như hành vi không cấp giấy xác nhận quá trình thực hành cho người
19
thực hành sau khi đã hoàn thành quá trình thực hành theo quy định của pháp luật );
hoặc là hành vi vượt quá phạm vi pháp luật cho phép (như hành vi người hành nghề
chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh kiêm phụ
trách một khoa trong cùng một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không phù hợp với phạm
vi hoạt động chuyên môn trong chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh đã được
20
cấp ).
Thứ hai, khách thể của vi phạm hành chính đối với quy định về hành nghề và sử
dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
Khách thể là những quan hệ xã hội, quy tắc quản lý nhà nước được pháp luật
hành chính bảo vệ nhưng bị hành vi vi phạm hành chính đối với quy định về hành
nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
xâm hại. Dấu hiệu nhận biết là hành vi vi phạm hành chính đối với quy định về hành
nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh đã xâm hại đến trật tự
quản lý nhà nước được pháp luật hành chính quy định, bảo vệ.
Thứ ba, chủ thể của vi phạm hành chính đối với quy định về hành nghề và sử
dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
Căn cứ các hành vi được quy định tại Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP
thì chủ thể của vi phạm hành chính đối với quy định về hành nghề và sử dụng chứng
chỉ hành nghề là cá nhân, tổ chức. Đây là điểm mới đối với các hành vi vi phạm quy
định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh,
chữa bệnh được quy định tại Điều 28 Nghị định 176/2013/NĐ-CP quy định chủ thể đối
với hành vi vi phạm về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề chỉ là cá nhân. Đối
với chủ thể là tổ chức của hành vi vi phạm hành chính về hành nghề và sử dụng
18
19
20
Điểm c Khoản 3 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP.
Điểm b Khoản 4 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP.
Điểm k Khoản 5 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP.
13
chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tại Nghị định số
117/2020/NĐ-CP, gồm các hành vi sau: không ký hợp đồng thực hành đối với người
thực hành tại cơ sở hoặc ký hợp đồng thực hành không đúng mẫu theo quy định của
21
pháp luật ; phân công một người hướng dẫn thực hành hướng dẫn vượt quá 05 người
22
thực hành trong cùng một thời điểm ; cấp giấy xác nhận quá trình thực hành không
23
đúng mẫu theo quy định của pháp luật ; không cấp giấy xác nhận quá trình thực hành
cho người thực hành sau khi đã hoàn thành quá trình thực hành theo quy định của pháp
24
luật ; cấp giấy xác nhận quá trình thực hành không đúng nội dung, không đúng sự
25
thật, không phù hợp với văn bằng chuyên môn của người đăng ký hành nghề ; phân
công người hướng dẫn thực hành không đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của
26
pháp luật .
Đối với chủ thể vi phạm hành chính là cá nhân, khi tiến hành xử phạt, cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền phải xác định được năng lực pháp lý hành chính, năng
lực hành vi hành chính và độ tuổi của cá nhân vi phạm. Điểm a Khoản 1 Điều 5 Luật
Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định cụ thể độ tuổi của cá nhân phải chịu
trách nhiệm do vi phạm hành chính của mình gây ra, theo đó, người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do lỗi cố ý; người
từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt về mọi hành vi vi phạm. Tuy nhiên, đối với chủ thể của
vi phạm hành chính về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề, cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền không cần xét đến yếu tố này vì bản thân cá nhân khi vi phạm
hành chính trong trường hợp này đương nhiên đã đáp ứng đủ điều kiện về độ tuổi mà
pháp luật quy định. Đây là nét đặc trưng riêng về chủ thể của hành vi vi phạm đối với
quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám
bệnh, chữa bệnh.
Thứ tư, mặt chủ quan của vi phạm hành chính đối với quy định về hành nghề và
sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính bao gồm: lỗi, động cơ và mục đích của
chủ thể thực hiện hành vi vi phạm. Tuy nhiên, hầu hết các vi phạm hành chính về hành
nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề đều không quy định dấu hiệu về mục đích, động
cơ.
21
số
22
23
24
25
26
Điểm b Khoản 2 Điều 38 Nghị định 117/2020/NĐ-CP.
Điểm c Khoản 2 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP.
Điểm d Khoản 3 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP.
Điểm b Khoản 4 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP.
Điểm c Khoản 4 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP.
Điểm d Khoản 4 Điều 38 Nghị định số
117/2020/NĐ-CP.
14
Lỗi thể hiện ở thái độ, ý chí của đối tượng vi phạm; có thể dưới dạng cố ý hoặc
vô ý và là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan. Theo tác giả, đa số các vi phạm hành
chính về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề được thực hiện dưới hình thức lỗi
cố ý bởi vì theo phân tích trên, chủ thể thực hiện hành vi đều là những người có trình
độ nhất định, nắm vững các quy định chung của Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009
cũng như riêng về hoạt động hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề, không một
cá nhân nào khi được cấp chứng chỉ hành nghề mà họ không biết về năng lực chuyên
môn và phạm vi hoạt động của họ, trừ trường hợp chứng chỉ hành nghề cấp sai với quy
định của pháp luật. Do đó, họ hoàn toàn có khả năng nhận thức được hành vi của mình
là trái quy định pháp luật, nhưng vẫn cố tình vi phạm. Với hình thức lỗi vô ý thì người
thực hiện hành vi trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
của mình nhưng vì vô tình, thiếu thận trọng mà vi phạm các quy định trong lĩnh vực y
tế về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề, ví dụ như hành vi từ chối khám
bệnh, chữa bệnh khi vượt quá khả năng chuyên môn hoặc trái với phạm vi chuyên môn
của người hành nghề nhưng không báo cáo với cơ quan có thẩm quyền hoặc không
giới thiệu người bệnh đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác để giải quyết được quy
định tại điểm a Khoản 3 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP, trong trường hợp này
cá nhân vô tình vi phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề vì
bản thân họ biết từ chối khám chữa bệnh khi vượt quá chuyên môn hoặc trái với phạm
vi hoạt động là đúng với quy định của Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 tại khoản
1 Điều 32, tuy nhiên không báo cáo lại với người có thẩm quyền về trường hợp trên để
được giải quyết vì cho rằng từ chối như vậy là xong, nhưng vô tình khi từ chối như vậy
mà không báo với người có thẩm quyền để giải quyết có thể trong trường hợp xấu gây
ảnh hưởng đến tính mạng của người bệnh.
1.2.4. Các hành vi vi phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành
nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
Vi phạm hành chính đối với quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành
nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh là một trong các hành vi vi phạm
hành chính về khám bệnh, chữa bệnh trong lĩnh vực y tế. Các vi phạm hành chính về
hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề được quy định tại Điều 38 Nghị định số
117/2020/NĐ-CP (Xem phụ lục I)
Căn cứ Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 và Nghị định số 109/2016/NĐ-CP
quy định cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt
động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, tác giả phân nhóm các hành vi vi phạm
15
hành chính tại Điều 38 Nghị định 117/2020/NĐ-CP thành ba nhóm: Nhóm hành vi vi
phạm quy định về hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh; nhóm hành
vi vi phạm quy định về sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh,
chữa bệnh và nhóm hành vi vi phạm về sử dụng người hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh tại các cơ sở y tế.
Thứ nhất, nhóm hành vi vi phạm quy định về hành nghề của người hành nghề
khám bệnh, chữa bệnh, gồm: không đeo biển tên; không sử dụng trang bị phòng hộ
theo quy định của pháp luật; từ chối khám bệnh, chữa bệnh khi vượt quá khả năng
chuyên môn hoặc trái với phạm vi hoạt động chuyên môn của người hành nghề nhưng
không báo cáo với người có thẩm quyền hoặc không giới thiệu người bệnh đến cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh khác để giải quyết; làm lộ tình trạng bệnh, thông tin mà người
bệnh đã cung cấp và hồ sơ bệnh án, trừ trường hợp người bệnh đồng ý hoặc để chia sẻ
thông tin, kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán, chăm sóc, điều trị người
bệnh giữa những người hành nghề trong nhóm trực tiếp điều trị cho người bệnh hoặc
trong trường hợp khác được pháp luật quy định; chỉ định sử dụng các dịch vụ khám
bệnh, chữa bệnh hoặc gợi ý chuyển người bệnh tới cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác
vì vụ lợi; lạm dụng nghề nghiệp để xâm phạm danh dự, nhân phẩm, thân thể người
bệnh; tẩy xóa, sửa chữa hồ sơ bệnh án nhằm làm sai lệch thông tin về khám bệnh, chữa
bệnh; sử dụng hình thức mê tín trong khám bệnh, chữa bệnh; bán thuốc cho người
bệnh dưới mọi hình thức, trừ trường hợp được bán thuốc y học cổ truyền theo quy định
của pháp luật; đưa, nhận, môi giới hối lộ trong khám bệnh, chữa bệnh; không kịp thời
sơ cứu, cấp cứu, điều trị cho người bệnh; từ chối khám bệnh, chữa bệnh cho người
bệnh, trừ trường hợp được quyền từ chối khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của
pháp luật.
Xem xét các hành vi được quy định ở nhóm 1 (nhóm vi phạm quy định về hành
nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh), tác giả thấy rằng nhóm hành vi trên
có một số hành vi vi phạm ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh. Ví dụ hành vi
Không kịp thời sơ cứu, cấp cứu, điều trị cho người bệnh được quy định tại điểm e
Khoản 7 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP. Tương tự như vậy, hành vi Từ chối
khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh tại điểm g Khoản 7 Điều 38 Nghị định số
117/2020/NĐ-CP, người hành nghề trong trường hợp này nếu không kịp thời sơ cứu,
cấp cứu, điều trị hoặc từ chối khám bệnh, chữa bệnh, trừ trường hợp được quyền từ
chối theo quy định của pháp luật nhưng cũng phải thực hiện việc sơ cứu, cấp cứu theo
dõi cho đến khi người bệnh được chuyển đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thì sẽ gây
nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của con người. Vì vậy, có thể thấy rằng mức phạt
16
tiền đối với các hành vi này rất cao so với các hành vi khác, mức phạt tiền từ
30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Đối với các hành vi tuy cũng thuộc nhóm hành
vi vi phạm hành chính về hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
nhưng các hành vi đó chỉ gián tiếp không ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh,
hành vi này chỉ vi phạm quy định về trang phục y tế hoặc phòng hộ lao động theo quy
định của pháp luật, ví dụ như hành vi không đeo bảng tên tại điểm a Khoản 1 Điều 38
Nghị định số 117/2020/NĐ-CP; không sử dụng trang phục phòng hộ theo quy định của
pháp luật tại điểm b Khoản 1 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP, do tính chất
không nguy hiểm, không ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người bệnh, nên
những hành vi này có mức phạt vi phạm hành chính nhẹ nhất là phạt cảnh cáo hoặc
phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng.
So với Nghị định số 176/2013/NĐ-CP, nhóm vi phạm quy định về hành nghề của
người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh trong Nghị định số 117/2020/NĐ-CP đảm bảo
được tính kế thừa, một số hành vi còn phù hợp với thực tiễn sẽ không thay đổi và bổ
sung một số nội dung để phù hợp với tình hình thực tế xảy ra hành vi vi phạm như:
làm lộ tình trạng, thông tin mà người bệnh đã cung cấp và hồ sơ bệnh án, trừ trường
hợp người bệnh đồng ý hoặc chia sẻ thông tin, kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng
chẩn đoán, chăm sóc, điều trị người bệnh giữa người hành nghề trong nhóm trực tiếp
điều trị cho người bệnh hoặc trong trường hợp khác được pháp luật quy định điểm c
Khoản 3 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP; từ chối khám bệnh, chữa bệnh khi
vượt quá khả năng chuyên môn hoặc trái với phạm vi hoạt động chuyên môn của
người hành nghề nhưng không báo cáo với người có thẩm quyền hoặc không giới thiệu
người bệnh đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác để giải quyết, hành vi này quy định
rõ ràng và cụ thể hơn so với hành vi được quy định tại điểm e Khoản 5 Điều 28 Nghị
định số 176/2013/NĐ-CP, chỉ quy định chung chung “từ chối khám bệnh, chữa bệnh
cho người bệnh, trừ trường hợp được quyền từ chối khám bệnh, chữa bệnh theo quy
định của pháp luật”.
Thứ hai, nhóm vi phạm quy định về sử dụng chứng chỉ hành nghề của người
hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, gồm: người hành nghề đăng ký hành nghề cùng một
thời gian tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác nhau, tổng thời gian làm ngoài giờ
vượt quá quy định của Bộ luật Lao động, người hành nghề thực hiện hành nghề không
đúng thời gian đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; người nước ngoài trực tiếp
khám bệnh, chữa bệnh bằng tiếng Việt nhưng chưa được cơ sở đào tạo chuyên ngành y
do Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ định kiểm tra và công nhận thành thạo tiếng Việt hoặc bằng
ngôn ngữ khác không phải tiếng Việt mà chưa được đăng ký sử dụng; chỉ định điều trị,
17
kê đơn thuốc bằng ngôn ngữ khác không phải là tiếng Việt mà ngôn ngữ đó chưa được
đăng ký sử dụng hoặc người phiên dịch chưa được công nhận đủ trình độ phiên dịch
sang tiếng Việt; người hành nghề chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật từ hai cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh trở lên; làm người phụ trách từ hai khoa lâm sàng trở lên trong
cùng một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc trong cùng một thời gian hành nghề đồng
thời làm người phụ trách khoa của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác; người hành nghề
chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh kiêm nhiệm
phụ trách một khoa trong cùng một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không phù hợp với
phạm vi hoạt động chuyên môn trong chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh đã
được cấp; người hành nghề chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh không có mặt tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong thời gian cơ sở
đăng ký hoạt động mà không ủy quyền cho người khác theo quy định của pháp luật;
khám bệnh, chữa bệnh khi chưa được cấp chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh;
khám bệnh, chữa bệnh khi đang trong thời gian bị thu hồi chứng chỉ hành nghề hoặc bị
đình chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh; khám bệnh, chữa bệnh vượt quá phạm vi
hoạt động chuyên môn được ghi trong chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, trừ
trường hợp cấp cứu và trường hợp thực hiện thêm các kỹ thuật chuyên môn đã được
cho phép theo quy định của pháp luật; thuê, mượn chứng chỉ hành nghề khám bệnh,
chữa bệnh để hành nghề; cho người khác thuê, mượn chứng chỉ hành nghề khám bệnh,
chữa bệnh.
Xem xét các hành vi được quy định ở nhóm 2 (nhóm vi phạm quy định về sử
dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh), tác giả nhận
thấy nhóm hành vi trên có một số hành vi vi phạm ảnh hưởng đến sức khỏe của người
bệnh. Ví dụ hành vi Khám bệnh, chữa bệnh khi chưa được cấp chứng chỉ hành nghề
điểm a Khoản 7 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP là hành vi ảnh hưởng đến sức
khỏe, thậm chí là tính mạng của con người. Theo quy định và điều kiện để được cấp
chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh, đối với Bác sĩ khi được cấp chứng chỉ hành
27
nghề phải qua thời gian thực hành 18 tháng , sau đó phải được người có thẩm quyền
của cơ sở y tế nhận xét, đánh giá về mặt chuyên môn theo chuyên khoa đã đăng ký
thực hành, đánh giá về đạo đức nghề nghiệp theo quy định tại Điều 36, 37, 38 Luật
khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 và việc giao tiếp ứng xử của người đăng ký thực
hành theo quy định tại Thông tư số 07/2014/TT-BYT ngày 25/02/2014 của Bộ trưởng
Bộ Y tế quy định về quy tắc ứng xử của công chức, viên chức, người lao động làm
việc tại các cơ sở y tế. Khi đủ điều kiện như trên thì cá nhân mới làm hồ sơ xin cấp
27
Điểm a Khoản 1 Điều 24 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2009.
- Xem thêm -