Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình đình trong trong tro...

Tài liệu Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình đình trong trong trong thi hành án dân sự (luận văn thạc sỹ luật)

.DOC
148
1
122

Mô tả:

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. CĂN CỨ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ...........................7 1.1. Bản án, quyết đinn của Tòa án đã có niệu lực pnáp luật về xử lý tài sản tnế cnấp là quyền sử dụng đất của nộ gia đìnn................................................. 7 1.2. Quyết đinn tni nànn án, quyết đinn cƣỡng cnế tni nànn án về việc xử lý tài sản tnế cnấp là quyền sử dụng đất của nộ gia đìnn...................................17 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..................................................................................... 22 CHƢƠNG 2. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ............................................................................................................................ 23 2.1. Bảo quản tài sản bi k bikn là quyền sử dụng đất của nộ gia đìnn.........23 2.2. Đinn giá tài sản bi k bikn là quyền sử dụng đất của nộ gia đìnn...........26 2.3. Bán đấu giá và giao tài sản đấu giá là quyền sử dụng đất của nộ gia đìnn cno ngƣời trúng đấu giá.................................................................................... 32 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..................................................................................... 39 KẾT LUẬN............................................................................................................ 40 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tínn cấp tniết của đề tài Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và xu hướng hội nhập kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp hình thành, phát triển. Nhằm tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp và cá nhân phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường nên thị trường tài chính đã mở ra nhiều cơ chế cho vay thông thoáng hơn. Trong đó, hoạt động vay vốn ngân hàng có thế chấp bằng tài sản đã và đang diễn ra ngày càng sôi động, trở nên quan trọng, đóng vai trò là đòn bẩy cho sự phát triển của các doanh nghiệp, cá nhân trong bối cảnh cạnh tranh mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường. Theo đó, pháp luật về thi hành án dân sự trong xử lý tài sản thế chấp tại ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm hiệu lực các phán quyết dân sự về tài sản của Tòa án. Là tài sản có giá trị lớn, ổn định, nên quyền sử dụng đất là một trong các tài sản được ngân hàng ưu tiên để đảm bảo cho hợp đồng vay bằng việc thế chấp. Thông thường chỉ khi khách hàng không có tài sản là quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thì ngân hàng mới áp dụng biện pháp xử lý các tài sản khác. Tuy có vai trò quan trọng như vậy nhưng hiện nay tỷ lệ thi hành án liên quan đến xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình tại các ngân hàng đạt kết quả thấp. Nguyên nhân của tình trạng này là quy định của pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong thi hành án dân sự vẫn còn bất cập, hạn chế. Cụ thể: Thứ nhất, bất cập về phương thức bảo quản tài sản thi hành án là quyền sử dụng đất của hộ gia đình; Thứ hai, bất cập về định giá tài sản bị kê biên là quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong hoạt động xử lý tài sản thế chấp; Thứ ba, bất cập về giao tài sản đấu giá cho người trúng đấu giá; Thứ tư, bất cập về công tác phối hợp trong việc xử lý các tranh chấp liên quan đến hợp đồng mua bán tài sản đấu giá là quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong quá trình thi hành án; Thứ năm, bất cập về thứ tự xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong hợp đồng thế chấp tài sản. 2 Từ các bất cập nêu trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, khoa học các quy định của pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu quả về xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự là vấn đề có tính cấp thiết. Đó là lý do tác giả chọn đề tài “Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong thi hành án dân sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tìnn nìnn ngnikn cứu đề tài Đề cập về pháp luật THADS trong xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của hộ gia đình trong THADS, các nhà nghiên cứu đã có những công trình liên quan như sau: - Giáo trình, sách chuyên khảo Trường Đại học Luật Hà Nội (2020), “Giáo trình Luật THADS Việt Nam”, Nxb Công an nhân dân. Xử lý tài sản, trong đó có QSDĐ được nhóm tác giả trình bày trong phần về biện pháp cưỡng chế trong THADS. Trong phần nội dung này các căn cứ, nguyên tắc cũng như trình tự, thủ tục xử lý được phân tích khá chi tiết. Đây là tài liệu tham khảo quan trọng giúp tác giả trong việc triển khai nghiên cứu lý luận về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của hộ gia đình trong THADS. Tuy nhiên, công trình biên soạn nhằm giảng dạy trong các cơ sở đào tạo Luật, vì vậy không đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, không chỉ ra bất cập, vướng mắc và hướng hoàn thiện. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa một số nội dung, quan điểm về mặt lý luận từ công trình, tác giả cần phải triển khai việc nghiên cứu theo hướng đánh giá thực tiễn, chỉ ra bất cập, vướng mắc và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật. Học viện tư pháp (2010), “Giáo trình kỹ năng THADS”, Nxb Tư pháp. Trong công trình, các tác giả đã phân tích, minh hoạ khá chi tiết về các hoạt động kê biên, xử lý tài sản, bao gồm QSDĐ, những phân tích này là nguồn tài liệu tham khảo cho tác giả trong việc triển khai nghiên cứu về lý luận đối với đề tài của mình. Song đây cũng là công trình biên soạn nhằm phục vụ cho việc giảng dạy, nên không đánh giá thực tiễn, chỉ ra bất cập, vướng mắc cũng như đề xuất giải pháp hoàn thiện, vì vậy bên cạnh kế thừa một số nội dung của công trình, tác giả sẽ làm rõ các vấn đề này. Vũ Thị Hồng Yến (2017), Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật. Đây là công trình mang tính lý luận và chứa đựng những vấn đề về tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015. Tuy 3 nhiên, là công trình có tính lý luận nên chưa phản ánh được thực tiễn về xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong thi hành án dân sự. - Luận văn, luận án Ngô Minh Thuận (2013), “Pháp luật về xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ thông qua thi hành án”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Trong công trình này, tác giả đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về xử lý tài sản thế chấp, pháp luật xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ thông qua thi hành án. Luận văn đã khái quát được các phương thức xử lý tài sản thế chấp ngân hàng, quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam, pháp luật của một số nước trên thế giới trong hoạt động xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ thông qua thi hành án; phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ. Trên cơ sở đó đưa ra một số định hướng có tính nguyên tắc, đồng thời đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ thông qua thi hành án. Tuy nhiên, luận văn chưa đề cập các phương thức xử lý tài sản khác để thi hành án. Nguyễn Văn Hiệp “Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học, năm 2003. Trong đề tài này, tác giả đã đánh giá toàn bộ hệ thống pháp luật THADS hiện hành (pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành). Tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS, cơ quan quản lý THADS từ trung ương đến địa phương. Tác giả có làm sáng tỏ cơ sở lý luận về THADS như đối tượng, phạm vi, nguyên tắc, trình tự thủ tục THADS. Trong trình tự thủ tục THADS, tác giả đã tóm tắt và đánh giá sơ bộ về các thủ tục mà không đi sâu vào phân tích từng thủ tục cụ thể. - Bài viết tạp chí Lê Anh Tuấn (2013), “Một số vấn đề về cưỡng chế kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng đất để thi hành án”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (số 9), tr. 44-52. Tác giả đã nêu lên những khó khăn, phức tạp trong việc kê biên đối với g tài sản là QSDĐ, qua đó đã phân tích những khó khăn, bất cập trong áp dụng pháp luật về THADS cũng như pháp luật về dân sự, về đất đai để xác định chính xác QSDĐ nào được kê biên, không được kê biên; khó khăn trong kê biên quyền thuê đất, quyền cho thuê lại đất; vướng mắc trong kê biên nhà ở gắn liền với QSDĐ. Tác giả cũng 4 đã đưa ra một số kiến nghị định hướng chung để sửa đổi, bổ sung pháp luật và một số lưu ý trong tác nghiệp. Nguyễn Thị Nhàn và Trần Thị Lành (2016), “Quy định của pháp luật Việt Nam về xử lý tài sản bảo đảm trong thi hành án dân sự và thực tiễn thi hành”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10, tr.47-52. Tác giả bài viết phân tích quy định của pháp luật THADS về xử lý tài sản bảo đảm và thực tiễn tổ chức kê biên, xử lý tài sản bảo đảm để thi hành án. Trong đó, tác giả khai thác những nguyên nhân mà công tác THADS gặp khó khăn trong thực tiễn khi quy định của pháp luật về tín dụng, ngân hàng chưa đồng bộ với pháp luật THADS. Xét trong mối quan hệ với các nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn thì các công trình khoa học nêu trên mới chỉ đề cập đến những vấn đề về xử lý tài sản thế chấp của tất cả các loại tài sản hoặc chỉ tập trung vào việc xác lập, đăng ký giao dịch thế chấp tài sản và xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ theo các phương thức quy định trong pháp luật về giao dịch bảo đảm. Trên cơ sở những ý tưởng gợi mở từ các công trình nêu trên, luận văn được xem như là một công trình nghiên cứu độc lập và có tính hệ thống về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ theo quy định của pháp luật THADS hiện hành. 3. Mục đícn, nniệm vụ ngnikn cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Phát hiện những vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật hiện hành về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS và thực tiễn thực hiện từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục, kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn phải hoàn thành các nhiệm vụ sau: Một là, lý giải một cách hệ thống các quy định pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS. Hai là, nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS qua các vụ việc thi hành án cụ thể, để từ đó chỉ ra những nội dung, những vấn đề còn bất cập, thiếu sót, chưa phù hợp. Từ đó, kiến nghị để hoàn thiện quy định của pháp luật. 5 4. Đối tƣợng và pnạm vi ngnikn cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích các căn cứ luật định, các căn cứ này được vận dụng nhận định cụ thể trong các hồ sơ thi hành án có liên quan đến việc xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS. Đồng thời, đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm làm rõ các căn cứ để áp dụng một cách thống nhất, hạn chế các vi phạm với các nhận thức chủ quan khác nhau. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi nội dung: Tập trung nghiên cứu các quy định của Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành. - Phạm vi không gian: Đề tài nghiên nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS qua các báo cáo sơ kết, tổng kết Công tác THADS trên địa bàn tỉnh Bình Thuận những năm gần đây. - Phạm vi thời gian: Các quy định của pháp luật Việt Nam về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS từ khi ban hành Luật THADS năm 2008, được sửa đổi bổ sung năm 2014 đến nay. 5. Các pnƣơng pnáp ngnikn cứu Trong công trình này, các phương pháp cụ thể được sử dụng như sau: - Phương pháp phân tích được sử dụng để làm sáng tỏ cơ sở lý luận về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS trọng tâm là Chương 1. Phương pháp này cũng sử dụng trong chương 2 để phân tích về thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS. - Phương pháp phân tích luật viết được sử dụng để đánh giá thực trạng pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS, trên cơ sở đó, chỉ ra những hạn chế, bất cập của luật nhằm làm cơ sở đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật trong Chương 2. - Phương pháp bình luận án được sử dụng để nhận xét những hạn chế, thiếu sót của Luật cũng như những vướng mắc, khó khăn trong việc thi hành án về xử lý 6 tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS nhằm làm cơ sở kiến nghị, đề xuất trong Chương 2. - Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS trước đây và hiện nay nhằm chỉ ra sự tiến bộ hoặc hạn chế của Luật trong Chương 1 và Chương 2. - Phương pháp tổng hợp được sử dụng để đưa ra kết luận cũng như định hướng đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS. 6. Ý ngnĩa noa nọc và giá tri ứng dụng của đề tài Về mặt lý luận: Góp phần làm sáng tỏ lý luận về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS, đề xuất các giải pháp hoàn thiện và áp dụng thống nhất pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về giá trị thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của công trình là tài liệu trong công tác học tập Luật THADS nói chung, xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS nói riêng. 7. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 2 chương như sau: Chương 1. Căn cứ xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong thi hành án dân sự. Chương 2. Trình tự, thủ tục xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong thi hành án dân sự. 7 CHƢƠNG 1 CĂN CỨ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Điều 70 Luật THADS năm 2014 quy định về căn cứ để xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS, bao gồm: Bản án, quyết định; Quyết định thi hành án; Quyết định cưỡng chế thi hành án. Bản án, quyết định của Tòa án là một trong những căn cứ bắt buộc, để thực hiện biện pháp xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS. CHV dựa vào nội dung bản án, quyết định của Tòa án để ban hành quyết định THA và áp dụng biện pháp cưỡng chế. Quyết định thi hành án là căn cứ quan trọng và cần thiết trong hồ sơ thi hành án và là căn cứ để CHV lập hồ sơ thi hành án, cũng như tổ chức xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS. 1.1. Bản án, quyết đinn của Tòa án đã có niệu lực pnáp luật về xử lý tài sản tnế cnấp là quyền sử dụng đất của nộ gia đìnn Tại các Điều 28, Điều 36 và Điều 179 Luật THADS năm 2014 quy định: Tòa án đã ra bản án, quyết định phải chuyển giao bản án, quyết định đó cho cơ quan THADS có thẩm quyền trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án phải chuyển giao cho cơ quan THADS có thẩm quyền trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã kê biên tài sản, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc thu giữ các tài liệu khác có liên quan đến việc thi hành án thì khi chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan THADS, Tòa án phải gửi kèm theo bản sao biên bản về việc kê biên, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc tài liệu khác có liên quan và các trường hợp khác. Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định thi hành án khi có yêu cầu thi hành án đối với những bản án, quyết định của Tòa án và tổ chức khác trừ quy định tại Khoản 2 Điều 36 Luật này. Việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ cũng thực hiện theo quy định trên. Tòa án đã ra bản án, quyết định có văn bản giải thích những nội dung mà Bản án, quyết định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự hoặc của cơ quan THADS, trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. 8 Qua thực tiễn thi hành các bản án, quyết định của Tòa án về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS, tác giả nhận thấy còn tồn tại bất cập sau: Thứ nhất, về xác định tư cách đương sự của HGĐ sử dụng đất trong THADS. Theo Khoản 1 Điều 101 BLDS, HGĐ tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của HGĐ là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết. Theo Khoản 29 Điều 3 LĐĐ, HGĐ sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có QSDĐ chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ; nhận chuyển QSDĐ. Theo Khoản 1 Điều 3 Luật THADS năm 2014, đương sự bao gồm người được thi hành án, người phải thi hành án. Đương sự trong thi hành án được xác định theo bản án, quyết định của Toà án. Với các quy định trên về HGĐ, HGĐ sử dụng đất, có sự không thống nhất giữa BLDS và LĐĐ. Nếu căn cứ theo quy định của BLDS, HGĐ sử dụng đất không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự và không phải là đương sự trong THADS. Ngược lại, theo LĐĐ, HGĐ sử dụng đất lại là chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai và là đương sự trong THADS. Nếu căn cứ theo LHNGĐ, vợ chồng vừa là HGĐ sử dụng đất (sự kiện kết hôn), đồng thời là chủ sử dụng đất nhưng không phải là tổ chức. Vậy trong trường hợp này, cơ quan THADS ra quyết định thi hành án với đương sự trong các vụ án về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ là HGĐ sử dụng đất hay là từng cá nhân là thành viên của hộ. Đây là quy định không nhất quán trong luật. Sở dĩ đặt vấn đề đối với trường hợp này là vì liên quan đến việc ra quyết định thi hành án và tổ chức việc thi hành, có sự khác nhau giữa cá nhân, cơ quan, tổ chức là đương sự trong THADS. Chẳng hạn: Điểm c Khoản 2 Điều 24 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, quy định: “Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Đối với tài sản thuộc quyền sở 9 hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Chấp hành viên thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng cho các thành viên trong hộ gia đình biết. Với quy định này, vợ chồng đồng thời là thành viên hộ gia đình về quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình”. Ví dụ: Bản án 54a/2019/DS-PT ngày 12/04/2019 về "Yêu cầu tuyên bố hợp 1 đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu" của TAND tỉnh Đắk Lắk . Theo bản án, gia đình ông Y K Byă là hộ đồng bào dân tộc tại chỗ, ngày 04/01/2001 UBND tỉnh Đắk Lắk cấp CNQSDĐ số O 367121, tờ bản đồ số 25, thửa đất số 116, diện tích 1.350m² thị trấn E, huyện E mang tên hộ ông Y K. Tại thời điểm kê khai đăng ký cấp giấy CNQSDĐ không thể hiện có các thành viên trong HGĐ. Năm 2005 ông Y K Byă, bà H’B Niê chuyển nhượng diện tích đất trên cho vợ chồng ông Trần Văn G và bà Đặng Thị Minh T với giá 300.000.000 đồng, khi bán đất có ghi “Giấy chuyển nhượng đất thổ cư”, được buôn trưởng là ông Y D Bkrông xác nhận. Sau khi chuyển nhượng, vợ chồng ông Y K Byă, bà H’B Niê đã giao giấy CNQSDĐ và bàn giao thửa đất cho vợ chồng ông G, bà T quản lý, sử dụng từ năm 2005. Ngày 25/4/2012, vợ chồng ông G, bà T vay vốn Ngân hàng Nchi nhánh huyện Ea S Đắk Lắk, do giấy CNQSDĐ vẫn đang đứng tên hộ ông Y K Byă nên vợ chồng ông G nhờ vợ chồng ông Y K Byă ký hợp đồng thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba với Ngân hàng để bảo đảm cho khoản vay của ông G, bà T, tài sản thế chấp là thửa đất số 116, tờ bản đồ số 25, diện tích 1350m2 nêu trên. Do không trả được nợ, ngày 06/10/2016 Ngân hàng, ông G, bà T, vợ chồng ông Y K, bà H’B và bà H’Y Niê đã thống nhất lập “Văn bản thỏa thuận về việc bán đấu giá tài sản thế chấp”. Ngày 20/10/2016, Ngân hàng đã ký hợp đồng với Công ty cổ phần dịch vụ đấu giá T để bán tài sản thế chấp nêu trên, vợ chồng ông Trần Trọng N, bà Phạm Thị H đã mua trúng tài sản đấu giá và đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký QSDĐ huyện E đăng ký biến động sang tên ông N vào ngày 17/3/2017. Các nguyên đơn là chị H’N Niê, anh Y B Niê, chị H’L Niê, chị H’N Niê, anh Y Ơ Niê và chị H’Y Niê (con của ông Y K Byă và bà H’B Niê) đã khởi kiện đề nghị 1https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-54a2019dspt-ngay-12042019-ve-yeu-cau-tuyen-bo-hopdong-the-chap-quyen-su-dung-dat-vo-hieu-81785, truy cập lúc 20h ngày 2.6.2021. 10 Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba ngày 25/4/2012 được ký giữa Ngân hàng với ông Y K Byă và bà H’B Niê là vô hiệu vì đây là tài sản chung của HGĐ, căn cứ vào giấy CNQSDĐ. Hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đều không chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn. Trong vụ án này, tác giả nhận thấy: Một, về nguyên tắc khi QSDĐ ghi là HGĐ thì QSDĐ đó là của hộ, bao gồm các thành viên của gia đình. Cho đến sau này, Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT, ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Bộ Tài nguyên và môi trường về việc quy định chi tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai mới bổ sung nội dung này cụ thể hơn. Theo đó, điểm c Khoản 5 Điều 6 của Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT mới xác định cụ thể hơn: Hộ gia đình sử dụng đất thì ghi “Hộ gia đình, gồm ông” (hoặc “Hộ gia đình, gồm bà”), sau đó ghi họ tên, năm sinh, tên và số giấy tờ nhân thân của chủ hộ gia đình; địa chỉ thường trú của hộ gia đình. Trường hợp chủ hộ gia đình không có quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì ghi người đại diện là thành viên khác của hộ gia đình có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình. Dòng tiếp theo ghi “Cùng sử dụng đất, cùng sở hữu tài sản gắn liền với đất (hoặc Cùng sử dụng đất hoặc Cùng sở hữu tài sản) với … (ghi lần lượt họ tên, năm sinh, tên và số giấy tờ nhân thân của những thành viên còn lại trong hộ gia đình có chung quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất).” Hai, về quyền của thành viên HGĐ sử dụng đất. Điểm c, d, đ khoản 2 Điều 179 LĐĐ quy định: Hộ gia đình được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm có quyền để thừa kế, tặng cho, cho thuê tài sản; thế chấp bằng tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế khác hoặc cá nhân theo quy định của pháp luật. Đối chiếu quy định này với vụ án trên, điểm vướng mắc là quyền của người từ đủ 15 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi. Theo Khoản 2 Điều 77 LHNGĐ, con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ. Như vậy dưới góc độ dân sự nói chung, con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, họ có một số quyền liên quan đến việc định đoạt tài sản như để lại di chúc chẳng hạn. Theo các quy định 11 hiện hành, người chưa thành niên là thành viên của hộ gia đình sử dụng đất và trong phạm vi nhất định thì họ vẫn có quyền đối với quyền sử dụng đất. Ba, tại Điểm 4, Mục I, Phần III Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ, khi giải quyết vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất mà GCNQSDĐ đó được cấp cho HGĐ và tại thời điểm giải quyết tranh chấp, thành viên HGĐ đã có sự thay đổi so với thời điểm cấp GCNQSDĐ, cách xác định thành viên HGĐ theo quy định tại Khoản 29, Điều 3, LĐĐ như sau: - Thời điểm để xác định HGĐ có bao nhiêu thành viên có QSDĐ là thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ; nhận chuyển QSDĐ. - Việc xác định ai là thành viên HGĐ căn cứ vào hồ sơ cấp GCNQSDĐ. Trường hợp cần thiết, Tòa án có thể yêu cầu UBND có thẩm quyền GCNQSDĐ xác định thành viên HGĐ tại thời điểm cấp GCNQSDĐ để làm căn cứ giải quyết vụ án và đưa họ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. - Khi giải quyết vụ án dân sự, ngoài những người là thành viên HGĐ có QSDĐ, Tòa án phải đưa người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất của HGĐ, người có công sức đóng góp làm tăng giá trị QSDĐ hoặc tài sản trên đất tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo hướng dẫn này, điểm bất cập chính là thời điểm xác định HGĐ có QSDĐ. Đó là thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ; nhận chuyển QSDĐ. Thay vì hướng dẫn theo hướng vừa là thời điểm có được QSDĐ, vừa là người có khả năng sử dụng đất. nếu là đất được giao, vừa đảm bảo tài chính nếu là đất thuê, nhận chuyển nhượng và các hình thức khác. Đối chiếu với vụ án trên, đây là đất do nhà nước giao, nên về nguyên tắc vẫn là đất của hộ. Bốn, hầu hết các bản án của Tòa, khi quyết định chủ thể có nghĩa vụ thi hành cho người được thi hành án là các cá nhân cụ thể. Khái niệm HGĐ chủ yếu là để xác định phạm vi người có quyền hoặc nghĩa vụ trong vụ án. Năm, Tòa án có sự chưa nhất quán trong việc xác định tài sản của hộ và thành viên của HGĐ khi giải quyết vụ án có việc xử lý tài sản thế chấp là QSĐĐ của HGĐ. Ví dụ: Bản án 17/2017/KDTM-PT ngày 18/12/2017 về tranh chấp hợp đồng 2 tín dụng . 2 https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-172017kdtmpt-ngay-18122017-ve-tranh-chap-hop-dongtin-dung-15765, truy cập lúc 19h ngày 5.6.2021. 12 Công ty trách nhiệm hữu hạn S vay của Ngân hàng thương mại cổ phần C Việt Nam- chi nhánh Thanh Hóa số tiền 8.850.000.000 đồng với tài sản thế chấp là QSDĐ và tài sản gắn liền với đất tại địa chỉ số 82 Hàng Đ, phường B, thành phố Thanh Hóa, theo GCNQSDĐ số AG 725924 do UBND thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 29/11/2006, theo Hợp đồng thế chấp QSDĐ và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số 10560055/HĐBĐ ngày 15/11/2010 ký giữa Ngân hàng TMCP C Việt Nam - Chi nhánh Thanh Hóa với bên có tài sản là hộ ông Đ, bà O, bên vay vốn là Công ty S. Anh Q, anh S, anh T (là các con của ông Đ, bà O) có yêu cầu độc lập: Yêu cầu Tòa án hủy Hợp đồng thế chấp số 10560055/HĐBĐ ngày 15/11/2010, giữa ông Đ, bà O với ngân hàng. Bản án số 11/2017/KDTM-ST ngày 06/9/2017 của TAND thành phố Thanh Hóa quyết định: Không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng C về quyền yêu cầu cơ quan thi hành án kê biên, phát mại tài sản đảm bảo là QSDĐ và tài sản gắn liền với đất tại địa chỉ: Số nhà 82 Hàng Đ, phường B, thành phố Thanh Hóa, theo GCNQSDĐ số AG 725924 do UBND thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 29/11/2006, theo Hợp đồng thế chấp QSDĐ và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số 10560055/HĐBĐ ngày 15/11/2010 ký giữa Ngân hàng C với bên có tài sản là ông Đ, bà O, bên vay vốn là Công ty S. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 17/2017/KDTM-PT ngày 18/12/2017 của TAND tỉnh H quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng Công thương, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 11/2017/KDTM-ST ngày 6/9/2017 của TAND thành phố T. Quyết định giám đốc thẩm số 17/2018/KDTM-GĐT ngày 19/11/2018 của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Hà Nội đã quyết định: Hủy toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm, phúc thẩm nêu trên để giải quyết lại theo quy định của 3 pháp luật . Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm cho rằng nhà đất trên là của HGĐ, hội đồng giám đốc thẩm cho rằng đây là tài sản chung của vợ chồng. Theo tác giả, với sự không nhất quán trong việc xác định tư cách, nội hàm, quyền, nghĩa 3https://vksndtc.gov.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=22 D48E 3E00E317DB107E3706F225B1CE22F006B7C704FC8B6894F6ABCA85660A&ItemID=7633&webP=porta l, truy cập lúc 21h ngày 15.6.2021. 13 vụ của các thành viên trong HGĐ, khái niệm HGĐ cần được sửa đổi theo như quy định của BLDS. Việc sửa đổi này đảm bảo sự thống nhất trong pháp luật về địa vụ pháp lý của HGĐ cũng như quyền, nghĩa vụ của các thành viên trong HGĐ nói chung, HGĐ sử dụng đất nói riêng. Từ thực tiễn trên, tác giả kiến nghị: Một, HGĐ sử dụng đất quy định tại Khoản 29 Điều 3 LĐĐ là HGĐ với tư cách là tập thể có ít nhất từ hai người trở lên được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ; nhận chuyển QSDĐ. QSDĐ của HGĐ sử dụng đất là tài sản của các thành viên của HGĐ sử dụng đất. HGĐ sử dụng đất khi tham gia các quan hệ pháp luật thì các thành viên của HGĐ là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch hoặc ủy quyền QSDĐ. Người sử dụng đất phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Người chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thực hiện theo chế độ đại diện, giám hộ quy định tại BLDS năm 2015. Khi sửa đổi LĐĐ 2013, bỏ chủ thể HGĐ sử dụng đất quy định tại Khoản 29 Điều 3 LĐĐ, thay vào đó là người sử dụng đất. Hai, khi xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ, Tòa án xác định nguồn gốc tài sản hình thành là của HGĐ sử dụng đất nhưng khi xác định nghĩa vụ thì phải xác định nghĩa vụ của từng chủ thể cụ thể trừ nghĩa vụ liên đới. Ba, trong THADS, đương sự bao gồm cơ quan, tổ chức, cá nhân với tư cách là người được thi hành án, người phải thi hành án. HGĐ sử dụng đất không phải là đương sự trong thi hành án. Bốn, vợ chồng là thành viên của HGĐ sử dụng đất trong xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ là những cá nhân và nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án là nghĩa vụ liên đới hoặc nghĩa vụ của cá nhân. QSDĐ vợ chồng là tài sản chung của vợ chồng theo Điều 33 LHNGĐ, không phải là tài sản của HGĐ sử dụng đất. Thứ hai, về nội dung bản án xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ. Theo quy định, cơ quan THADS, căn cứ vào nội dung bản án, yêu cầu của đương sự ra quyết định thi hành án. Mục đích của xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGD để THADS nhằm đảm bảo thi hành quyền và nghĩa vụ của các đương sự và người có quyền, lợi ích liên quan trong các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành. Khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì cơ quan THADS xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước 14 nhằm chấm dứt quyền sử dụng của người phải thi hành án để đảm bảo quyền cho người được thi hành án. Tuy nhiên, một số bản án của Tòa án, trong phần nhận định, quyết định không tương thích với nhau hoặc nội dung quyết định trong bản án, quyết định của Tòa án không rõ ràng nên khi ra quyết định THA rất khó để thi hành. Điều này càng làm cho việc thi hành án kéo dài hoặc phải yêu cầu giải quyết theo thủ tục tố tụng khác. Ví dụ: Bản án số: 04/2017/KDTM-ST ngày 29/5/2017 V/v Tranh chấp hợp 4 đồng tín dụng của TAND huyện Thái Thụy, Thái Bình . Theo bản án trên, HĐXX quyết định: “Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn T, địa chỉ: Xóm 5, thôn T1, xã T2, huyện T3, tỉnh Thái Bình phải trả cho nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ do Chi nhánh Thái Bình làm đại diện số tiền là 361.059.372 đồng. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, Công ty Trách nhiệm hữu hạn T không thanh toán xong nợ thì Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ do Chi nhánh Thái Bình làm đại diện có quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ theo Hợp đồng thế chấp bất động sản số H0580/1/HĐTC-02 ngày 02/12/2013 giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ với vợ chồng ông K và bà N2 được đăng ký tại UBND huyện T3 ngày 02 tháng 12 năm 2013; hợp đồng sửa đổi bổ sung hợp đồng thế chấp/cầm cố số 0910H0743/1/HĐTC- 02/PLHĐTC ngày 09/12/2014 giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ với vợ chồng ông K và bà N2 được đăng ký tại UBND huyện T3 ngày 09 tháng 12 năm 2014. Tài sản thế chấp gồm: QSDĐ và tài sản trên đất theo GCNQSDĐ số BC 423460 do UBND huyện Thái Thụy cấp ngày 20 tháng 2 08 năm 2010 mang tên ông K và bà N2; diện tích thửa đất là 460m (trong đó có 2 2 400m đất ở và 60m đất trồng cây lâu năm), địa chỉ thửa đất: xóm 5, thôn T1, xã T2, huyện T3, tỉnh Thái Bình và toàn bộ tiền tài sản được đền bù do TSTC bị quy hoạch, giải tỏa một phần hoặc toàn bộ theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; phần giá trị tăng lên do sửa chữa nâng cấp TSTC; Tòan bộ số tiền, tài sản được bồi thường thiệt hại đối với TSTC từ bên thứ ba; Toàn bộ hoa lợi lợi tức và các quyền phát sinh từ TSTC; Tài sản khác gắn liền với đất, kể cả tài sản hình thành trong tương lai từ TSTC; khoản tiền bảo hiểm trong trường hợp TSTC được bảo hiểm; và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Trường hợp tài sản thế chấp không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì bị đơn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn”. 4Bản án số: 04/2017/KDTM-ST ngày 29/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, Thái Bình. 15 Với bản án này, tác giả nhận thấy: Một, theo thỏa thuận, tài sản bảo đảm khoản nợ cho Công ty trách nhiệm hữu hạn T là QSDĐ và tài sản trên đất theo GCNQSDĐ số BC 423460 do Uỷ ban nhân dân huyện T3 cấp ngày 20 tháng 08 năm 2010 chủ sử dụng/sở hữu là vợ chồng ông 2 K và bà N2; diện tích thửa đất là 460m , địa chỉ thửa đất: Xóm 5, thôn T1, xã T2, huyện T3, tỉnh Thái Bình và toàn bộ tiền tài sản phát sinh theo tài sản thế chấp. Việc đảm bảo này là đúng luật. Hai, cách xử lý của Hội đồng xét xử trong bản án này vừa thừa vừa thiếu. Thừa là: “Trường hợp tài sản thế chấp không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì bị đơn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn”. Đây là điều đương nhiên vì phạm vi bảo đảm tài sản của hộ ông K và bà N2 là trong phạm vi giá trị QSDĐ đã thế chấp. Phần thiếu và khó có khả năng thi hành án là “Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, Công ty Trách nhiệm hữu hạn T không thanh toán xong nợ thì Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ do Chi nhánh Thái Bình làm đại diện có quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ theo Hợp đồng thế chấp bất động sản số H0580/1/HĐTC-02 ngày 02/12/2013 giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ với vợ chồng ông K và bà N2”. Theo cách tuyên trên, việc xử lý tài sản của hộ ông K và bà N2 không phải là nhiệm vụ của cơ quan THADS. Nếu sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, Công ty Trách nhiệm hữu hạn T không thanh toán xong nợ, vợ chồng ông K và bà N2 không tự nguyện thi hành thì Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ không thể xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ và cũng không thể yêu cầu cơ quan THADS tổ chức thi hành vì theo bản án, quyền này là của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ Nếu có tranh chấp hoặc không thi hành được, Ngân hàng chỉ có thể khởi kiện hoặc đề nghị giám đốc thẩm bản án trên. Song song với tình trạng trên, là việc xử lý tài sản thế chấp là chưa triệt để. Trên mảnh đất của vợ chồng đã thế chấp có nhà do vợ chồng xây dựng trước thời điểm thế chấp nhưng không thế chấp các tài sản trên đất, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm không xem xét tài sản này dẫn đến khó khăn trong thi hành án và không bảo 5 đảm quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng . Khi giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp, việc xác định chủ tài sản thế chấp là rất quan trọng, trong đó, có việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng hay là 5Nguyễn Thúy Hiền, “Những vấn đề rút kinh nghiệm khi giải quyết vụ án liên quan đến giao dịch bảo đảm”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/thoi-su/nhung-van-de-rut-kinh-nghiem-khi-giai-quyet-vu-an-lien-quan-dengiao-dich-bao-dam, truy cập lúc 22h ngày 20.6.2021. 16 tài sản chung, nếu giấy chứng nhận một bên đứng tên; tình trạng vợ chồng là đang tồn tại quan hệ hôn nhân hay đã chấm dứt; tình trạng tài sản là nếu vợ chồng ly hôn thì tài sản thế chấp thuộc loại tài sản đã chia hay chưa chia. Nếu các thông tin này đã được làm sáng tỏ thì bản án thi hành thuận lợi, ngược lại, việc thi hành kéo dài do các bên tranh chấp phân chia tài sản, tính có hiệu lực của hợp đồng thế chấp và các quan hệ khác liên quan, kể cả quyền lợi của người thứ ba có liên quan. 6 Ví dụ: Kết quả giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao . Vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng nguyên đơn là Ngân hàng N, bị đơn là vợ chồng ông Trần Bá C bà Hoàng Thị T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vợ chồng ông Trần Vĩnh H bà Nguyễn Thị N. Ngày 24/01/2011, Ngân hàng và vợ chồng ông H bà N ký hợp đồng thế chấp QSDĐ và tài sản gắn liền với đất (nhà 2 tầng trên diện tích đất 105 m2 tại Tổ 13, thị trấn C, có GCNQSDĐ cấp cho HGĐ ông H) để bảo lãnh cho ông C vay tiền của Ngân hàng. Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2015/DSST ngày 05/2/2015, TAND huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, quyết định: Buộc vợ chồng ông C bà T trả nợ cho Ngân hàng N 1.238.797.000 đồng, trong đó có 900 triệu đồng nợ gốc; công nhận hợp đồng thế chấp có hiệu lực thi hành. Bản án dân sự phúc thẩm số 13/2016/DSPT ngày 13/4/2016, TAND tỉnh Hà Tĩnh đã sửa bản án sơ thẩm về phần hợp đồng thế chấp, tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu. Quyết định giám đốc thẩm số 14/2017/DS-GĐT ngày 27/3/2017, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Hà Nội đã hủy bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại. Ngày 13/02/2020, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã hủy Quyết định giám đốc thẩm và một phần Bản án phúc thẩm, bản án sơ thẩm về phần thế chấp tài sản để giải quyết sơ thẩm lại. Từ các kết quả xét xử trong vụ án này, tác giả nhận thấy: (i) Vụ án được xét xử quá nhiều lần với nhiều thủ tục khác nhau và kết quả là Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã hủy Quyết định giám đốc thẩm và một phần Bản án phúc thẩm, bản án sơ thẩm về phần thế chấp tài sản để giải quyết sơ thẩm lại; (ii) Quyết định giám đốc thẩm xác định hợp đồng thế chấp có hiệu lực toàn bộ là chưa toàn diện vì QSDĐ của HGĐ có hai thành viên đã trên 15 tuổi nhưng không được có ý kiến về hợp đồng thế chấp; (iii) Bản án phúc thẩm cho rằng pháp luật chưa có quy định việc vừa thế chấp vừa bảo lãnh một tài sản nên hợp đồng vô hiệu 6https://toaanquangnam.gov.vn/thong-tin-nghiep-vu-xet-xu-thang-7-2020/, truy cập lúc 19h ngày 7.6.2021. 17 là chưa chính xác vì pháp luật không cấm; (iv) Bản án sơ thẩm xác định hợp đồng thế chấp có hiệu lực toàn bộ; (v) Nếu cơ quan THADS đã thi hành một trong số các bản án phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm thì việc thi hành phải tạm đình chỉ đối với phần chưa thi hành theo Điều 49 LTHADS và chờ kết quả xét xử theo quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao khi giải quyết sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm lại. Kiến nghị: Từ thực tiễn nêu trên về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ, theo tác giả, TAND Tối cao cần có chuyên đề về giải quyết các tranh chấp tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ, theo hướng như sau: Một, khi giải quyết các tranh chấp tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình, các Tòa án phải xác định rõ về tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất là của hộ hay của các nhân, nguồn gốc hình thành tài sản và chứng thư pháp lý. Hai, nếu tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất là của vợ chồng (thường ghi là hộ) thì tài sản đó của vợ chồng theo Điều 33 LHNGĐ hay theo hộ gia đình theo quy định tại Khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013. Thành viên của hộ là những người nào và năng lực hành vi của họ. Ba, nếu tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của vợ chồng thì tình trạng pháp lý về quan hệ vợ chồng và tình trạng tài sản của họ (đang tồn tại hôn nhân hay ly hôn; nếu đã ly hôn thì đã chia hay chưa chia tài sản). Bốn, nếu tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của nam, nữ chung sống thì tình trạng tài sản giữa họ là như thế nào (tài sản chung, riêng). 1.2. Quyết đinn tni nànn án, quyết đinn cƣỡng cnế tni nànn án về việc xử lý tài sản tnế cnấp là quyền sử dụng đất của nộ gia đìnn Theo Điều 70 LTHADS, quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành án là căn cứ để cơ quan THADS, CHV tổ chức việc thi hành án khi đương sự không tự nguyện thi hành. Theo Điều 13 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, CHV căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; quyết định thi hành án; tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; yêu cầu bằng văn bản của đương sự và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí thi hành án 18 theo quy định của pháp luật. Đối với việc xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ cũng áp dụng các thủ tục nêu trên theo quy định chung của pháp luật THADS. Qua nghiên cứu về việc thi hành thi hành các bản án, quyết định của Tòa án về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ về việc ra quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành án trong việc xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ, tác giả nhận thấy còn có tồn tại, bất cập như sau: Thứ nhất, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án, CHV ra quyết định cưỡng chế thi hành án về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ không hiệu quả do bản án của Tòa án chưa giải quyết triệt để nội dung tranh chấp. Nguyên nhân của tình trạng này là do khi cấp GCNQSDĐ cho công dân, các cơ quan nhà nước đều ghi cấp cho hộ ông (hoặc bà) nên khó phân biệt đâu là tài sản của vợ chồng hay của HGĐ. Trong đó có tình trạng hồ sơ cấp GCNQSDĐ bị thất lạc hoặc không lưu trữ nên CHV không xác định được phần QSDĐ của các thành viên của HGĐ. Do không xác định được thành viên của HGĐ nên việc thông báo, tống đạt giấy tờ cho những người có quyền không đầy đủ, chính xác. Tình trạng không xác định được nguồn gốc của tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ cũng là một khó khăn cho việc THADS. CHV không xác định được nguồn gốc QSDĐ khi đương sự được thừa kế, tặng cho, chuyển nhượng, chuyển đổi và các căn cứ khác. Tương tự, CHV cũng không xác định được người để lại di sản, tặng cho, chuyển nhượng, chuyển đổi. Đối với đất được Nhà nước giao, cho thuê thì không rõ chủ thể giao, người được giao, cho thuê; mục đích, phương án giao, cho thuê. Chính vì điều này mà quá trình xét xử Tòa án cũng gặp rất nhiều khó khăn, không minh định được quyền của người sử dụng đất. Đây cũng là lý do mà bản án quyết định của Tòa án xác định không rõ về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ và cơ quan THADS khó khăn trong việc thi hành xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ. Ví dụ: Viện Kiểm sát kháng nghị đối với các bản án kinh doanh thương mại 7 sơ thẩm về tranh chấp hợp đồng tín dụng . Ngân hàng cho anh Nông Văn H và chị Vi Thị M vay số tiền 300.000.000 đồng với mục đích là kinh doanh tạp hóa. Tài sản thế chấp là 01 thửa đất diện tích 2 1.460m thôn K, xã A, huyện S theo GCNQSDĐ được cấp ngày 15/9/2000 mang 7https://vksbacgiang.gov.vn/baiviet/70/9541, truy cập lúc 22h ngày 12.6.2021. 19 tên hộ ông M. Ngân hàng đề nghị Tòa án giải quyết, buộc anh H, chị M phải trả đầy đủ gốc, lãi và yêu cầu xử lý tài sản thế chấp nêu trên để thu hồi nợ theo quy định pháp luật. Chị Vi Thị M vắng mặt tại nơi cư trú, Tòa án không thu thập được lời khai của chị M. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Nông Văn M đồng ý để ngân hàng xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ nhưng ông đề nghị chỉ xử lý tài sản là 2 diện tích đất vườn cùng tài sản trên đất, còn 360m diện tích đất ở và nhà thì ông xin được giữ lại để làm chỗ ở tuổi già. Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST ngày 07/02/2020 của TAND huyện S đã giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng; miễn toàn bộ án phí cho anh H, chị M vì là hộ nghèo. Trong vụ án trên, tác giả nhận thấy: Một, hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng với anh H và chị M là giao dịch không bắt buộc phải có đảm bảo về tài sản. Điều 6 thể hiện: “Bảo đảm tiền vay: Không có đảm bảo bằng tài sản”. Hồ sơ vụ án không có tài liệu chứng cứ là hợp đồng thế chấp tài sản theo nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm. Hai, dù là hợp đồng không có bảo đảm bằng tài sản nhưng anh Nông Văn H được ông Nông Văn M bảo đảm bằng việc thế chấp tài sản là 01 thửa đất diện tích 2 1.460m thôn K, xã A, huyện S theo GCNQSDĐ mang tên hộ ông M. Ba, trong vụ án này, Tòa án chưa làm rõ HGĐ ông M tại thời điểm được cấp GCNQSDĐ gồm những ai, người thừa kế của bà V (vợ ông M) là không đảm bảo QSDĐ của các chủ thể này. Bốn, quyết định của bản án là “Ngân hàng được quyền yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm như: GCNQSDĐ số Q619876 do UBND huyện S cấp ngày 15/9/2000 ...” là không đúng. Vì GCNQSDĐ là chứng thư pháp lý chứ không phải là tài sản. Với nội dung quyết định nêu trên, cơ quan THADS, CHV không thể thi hành. Năm, cơ quan THADS, CHV khi ra quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành án, xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ ông M sẽ gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Bởi, các thành viên trong hộ ông M sẽ cản trở, khiếu nại hoặc khởi kiện xác định tài sản chung của hộ. Thứ hai, đối tượng của xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ không đúng như nội dung bản án, quyết định mà Tòa án tuyên.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan