Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh hủa phăn cộng hoà dân chủ nhân dân lào...

Tài liệu Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh hủa phăn cộng hoà dân chủ nhân dân lào

.PDF
80
114
103

Mô tả:

LUẬN VĂN: Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề đói nghèo xuất hiện và tồn tại như một thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia cũng như của nhân loại. Cuộc chiến chống đói nghèo luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới, riêng ở Lào việc xoá đói giảm nghèo được Đảng và Nhà nước ưu tiên hàng đầu và là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Hiện nay, ở các hộ gia đình nghèo đói chiếm tỷ lệ đến 28,7% trong các hộ gia đình cả nước, chủ yếu trên địa bàn nông thôn và miền núi; giải quyết tốt vấn đề xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa chiến lược đối với sự ổn định và phát triển của đất nước. Nếu không giải quyết tốt vấn đề xoá đói giảm nghèo đất nước Lào sẽ không thể thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, sẽ dẫn đến mất ổn định chính trị xã hội. Trong quá trình thực hiện việc xoá đói giảm nghèo ở Lào nói chung và ở tỉnh Hủa Phăn nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, công tác xoá đói giảm nghèo còn nhiều bất cập, chưa hiệu quả, chưa định hướng rõ về mô hình xoá đói giảm nghèo, chưa thật sự bền vững, còn nhiều vấn đề bức xúc đang đặt ra, cần giải quyết và nhìn chung, nhận thức cách tiếp cận và phương thức giải quyết vấn đề đói nghèo cũng có nhiều khác biệt, giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế. Công cuộc xoá đói giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và là một chủ trương lớn và quyết sách của Đảng và Nhà nước Lào. Thực hiện việc xoá đói, giảm nghèo như thế nào, để đáp ứng được các mục tiêu chiến lược mà nền kinh tế đã đặt ra. Hủa Phăn là một tỉnh miền núi nằm ở miền Bắc CHDCND Lào, Nơi đây trước kia là khu căn cứ địa cách mạng, là nơi có vị trí chiến lược trọng yếu về mặt quân sự, an ninh quốc phòng cả nước. Cách thủ đô Viêng Chăn khoảng 650 km, phía Đông và phía Bắc giáp với tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Luông Pra Bang; Có biên giới giáp với Việt Nam như: Tỉnh Thanh Hoá, Tỉnh Sơn La và Nghệ An, có chiều dài 619 Km; có diện tích 16.500 K m2, phần lớn là núi chiếm 90%, diện tích cả tỉnh. 10% là đồng bằng và trung du. đa dân tộc có dân số 280.393 người; là một tỉnh còn nghèo cơ sở hạ tầng còn yếu, có điểm xuất phát thấp, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, lực lượng lao động chủ yếu vẫn là nông dân và canh tác nông nghiệp, năng suất lao động thấp. Thêm vào đó, thiên tai, tình hình thù địch gây không ít khó khăn cho việc phát triển kinh tế xã hội, đại bộ phận dân cư chủ yếu là ở nông thôn và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đời sống của dân cư còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao, mặc dù công tác xoá đói giảm nghèo đã đưa các ngành, các cấp chỉ đạo thực hiện. Song vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi giải quyết cấp bách về đói nghèo. Đó là những vấn đề đang được đặt ra một cách cấp bách cả trên phương diện lý luận và thực tiễn hiện nay đối với nước CHDCND Lào nói chung và của chính quyền, các đoàn thể và nhân dân ở tỉnh Hủa Phăn nói riêng. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “ Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào”, làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế Chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xoá đói giảm nghèo là một hiện tượng rất phổ biến, nó đã được Đảng và Nhà nước Lào, các nhà khoa học, các nhà quản lý… quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Cho đến nay ở Lào đã có một số công trình nghiên cứu, luận văn tốt nghiệp đề cập đến vấn đề xoá đói giảm nghèo, trong đó có các công trình như: - Mr. Oivin, Mr. Leonell, Mr. Ifcudino (Nhóm tác giả ở Liên Hiệp Quốc) (1995) Phát triển vùng miền núi dân tộc ít người (gồm 8 tỉnh trong đó có tỉnh Hủa Phăn) năm 1995-2000. Các tác giả đã đề cập đến vấn đề đầu tư về cơ sở hạ tầng, về giáo dục và y tế ở các vùng dân tộc miền núi; nêu lên mối quan hệ phân cấp tài chính quyền địa phương trong công tác xoá đói giảm nghèo qua hệ thống phân phối ngân sách. - Báo cáo tổng hợp của uỷ ban kế hoạch nhà nước Lào (2000), Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và tâm nhìn đến năm 2020 của CHDCND Lào. - Luận văn thạc sĩ của Sổm Phết Khăm Ma Ni: Thực trạng và giải pháp xoá đói giảm nghèo ở tỉnh BOLIKHĂMXAY nước CHDCND Lào, Học viện Chính trị quốc gia HCM, 2002. - Luận văn thạc sĩ của. Kẹo Đa La Kon Sou Ri Vông: Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Sê Kông CHDCND Lào, thực trạng và giải pháp; Học viện Chính trị quốc gia HCM, 2005. - Luận văn thạc sĩ của Xổm Phít Coong Xắp: Chính sách xoá đói giảm nghèo ở CHDCND Lào (Qua khảo sát ở tỉnh Xay Nha Bu Ly), Học viện Chính trị quốc gia HCM, 2007. ở Việt Nam cũng đã có nhiều hội nghị, công trình nghiên cứu và bài viết liên quan đến vấn đề xoá đói giảm nghèo như: - Ngô Quang Minh (1999), Tác động kinh tế của nhà nước góp phần xoá đói giảm nghèo trong quá trình CNH, HĐH, Nxb CTQG HN. - Luận văn thạc sĩ kinh tế của Bùi Thị Lý: Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia HCM, 2000. - Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam tổ chức hội thảo: Xoá đói giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số: phương pháp tiếp cận, năm 2001. - Hội thảo nghiên cứu giảm nghèo ở nông thôn từ cách tiếp cận vi mô. Chương trình nghiên cứu Việt Nam, Hà Lan (VNRP), Đà Nắng 1-10/05/2002. - Ngân hàng Thế giới (2004), Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam. - Luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Hoàng Lý: Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Gia Lai Thực trạng và giải pháp, Học viện Chính trị quốc gia HCM, 2005. - Luận văn thạc sĩ kinh tế của Giàng Thị Dung: Xoá đói giảm nghèo ở các huyện biên giới tỉnh Lào trong giai đoạn hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia HCM, 2006. Các công trình nghiên cứu và bài viết trên đây đã đề cập đến xoá đói giảm nghèo dưới các góc độ và khía cạnh khác nhau cả về lý luận và thực tiễn, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề đói nghèo ở tỉnh Hủa Phăn dưới góc độ kinh tế chính trị. Chính vì vậy, đây là vấn đề cần được nghiên cứu. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Phân tích thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn nước CHDCND Lào từ năm 2001 đến 2007. Từ đó thấy được những kết quả đạt được và những vấn đề còn hạn chế, đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá một số lý luận về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo. - Làm rõ sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn. - Phân tích tình hình đói nghèo ở tỉnh Hủa Phăn, chỉ rõ các nguyên nhân. - Làm rõ thực trạng xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn, từ đó khái quát những thành tựu, hạn chế, và những vấn đề đặt ra trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ giới hạn tập trung nghiên cứu vấn đề xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Hủa Phăn nước CHDCND Lào. Thời điểm khảo sát đánh giá và phân tích thực trạng từ 2001 đến 2007. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản, các quan điểm của Đảng NDCM Lào, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhất là đường lối chính sách trong thời kỳ đổi mới, kế thừa kết quả những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề xoá đói giảm nghèo. Những tổng kết thực hiện xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu xoá đói giảm nghèo, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn; phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic, tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh, tham khảo ý kiến của các cán bộ, chuyên gia… 6. Đóng góp về khoa học của luận văn - Phân tích, đánh giá thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn và đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo của tỉnh trong thời gian tới. - Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định chính sách xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Hủa Phăn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo 1.1. Quan niệm về đói nghèo và các nhân tố ảnh hưởng tới đói nghèo 1.1.1. Quan niệm về đói nghèo Lịch sử phát triển của xã hội loại người ở mỗi giai đoạn được đánh dấu bằng trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - theo đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động ngày càng cao thì nhu cầu được đáp ứng ngày càng nhiều, càng phong phú và ngược lại, khi một bộ phận xã hội do trình độ sản xuất lạc hậu, năng suất lao động xã hội thấp không thể đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của mình như ăn, mặc, ở, đi lại v.v... thua xa các bộ phận xã hội khác thì sẽ rơi vào tình trạng đói nghèo. Ngày nay, khi khoa học - công nghệ càng phát triển dưới sự thống trị của nhiều thể chế khác nhau thì khoảng cách giàu, nghèo ngày càng lớn. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới thì trên toàn thế giới tổng số người nghèo gia tăng từ 1,2 tỷ người năm 1987 đến nay đã lên 1,5 tỷ người và nếu chiều hướng này cứ tiếp tục thì đến năm 2015 con số người đói nghèo sẽ là 1,9 tỷ người. Trước thực trạng đó, thế giới cũng đã có nhiều nỗ lực và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong cuộc chiến chống đói nghèo. Theo đánh giá của một số tổ chức quốc tế như: Liên Hiệp quốc, Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB).. thì số người có mức thu nhập dưới 1 USD/1 ngày ở khu vực Châu á giảm nhanh (từ năm 1990 đến năm 2002 đã giảm 223 triệu người) dẫn đầu các khu vực trên thế giới về xoá đói giảm nghèo, hy vọng vào năm 2015 số người nghèo ở đây sẽ giảm 690 triệu người còn 150 triệu người [14, tr.5]. Hiện nay, đói nghèo không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia mà là vấn đề có tính toàn cầu, bởi lẽ ở tất cả các quốc gia trên thế giới, kể cả những nước giàu nhất về kinh tế như Mỹ, Đức, Nhật... người nghèo vẫn còn và khó có thể hết người nghèo khi trong các xã hội chưa thể chấm dứt những rủi ro về kinh tế, xã hội, môi trường và sự bất bình đẳng trong phân phối của cải làm ra. Rủi ro quá nhiều trong sản xuất và đời sống làm cho một bộ phận dân cư rơi vào tình trạng tổn thương về thể xác, tài chính và những điều kiện cơ bản của cuộc sống và kết quả trở thành nghèo. Tháng 3 năm 1995, tại Hội nghị thượng định thế giới về phát triển xã hội ở Copenhagen Đan Mạch, những người đứng đầu các quốc gia đã trịnh trọng tuyên bố: chúng tôi cam kết thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo trên thế giới, thông qua các hành động quốc gia kiên quyết và sự hợp tác quốc tế, coi đây như một đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo đức xã hội, chính trị, kinh tế của nhân loại. Chúng ta thường thấy nhiều khái niệm về nghèo như: nghèo đói, nghèo khổ, giàu nghèo, phân hoá giàu nghèo hay khoảng cách giàu nghèo, những khái niệm này được các học giả, các nhà khoa học định nghĩa dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau như nghèo về vật chất, nghèo về tri thức, nghèo về văn hoá... Mặt khác, bên cạnh khái niệm nghèo, còn sử dụng khái niệm đói để phân biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư. Chính vì vậy, hiện nay chúng ta thường thấy khái niệm kép đói nghèo hoặc nghèo đói. Đói nghèo là một hiện tượng tồn tại ở tất cả các quốc gia, dân tộc. Nó là một khái niệm rộng, luôn thay đổi theo không gian và thời gian [3, tr.7]. Cho đến nay, khái niệm nghèo đói được dùng nhiều nhất là khái niệm đã được đưa ra tại Hội nghị bàn về giảm nghèo đói do ủy ban kinh tế và xã hội của châu á - Thái Bình Dương (escap) tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9/1993, đã đưa ra khái niệm nghèo đói như sau: Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận, tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương. Đây chính là một khái niệm chung nhất về nghèo đói, một khái niệm mở, có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ biến về nghèo. Các tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hoá được bỏ ngỏ bởi vì còn phải tính đến sự khác biệt chênh lệch giữa điều kiện tự nhiên điều kiện xã hội và trình độ phát triển của mỗi vùng miền khác nhau. Vấn đề quan trọng nhất mà khái niệm này đã đưa ra được đó chính là những nhu cầu cơ bản của con người, nếu không được thoả mãn thì họ chính là những người nghèo đói. Một khái niệm mở như vậy sẽ dễ dàng được các tổ chức và các quốc gia chấp nhận. Khái niệm sẽ được mở rộng hơn theo sự phát triển của xã hội, nhất là khi nhu cầu cơ bản của con người được mở rộng theo thời gian. Từ khái niệm chung này, khi nghiên cứu thực trạng nghèo đói, người ta đã đưa ra hai khái niệm, đó là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối: Đó là sự thiếu hụt so với mức sống (những nhu cầu) tối thiểu. Nghèo tuyệt đối đề cập đến vị trí của một cá nhân, hộ gia đình trong mỗi quan hệ với đường nghèo khổ mà giá trị tuyệt đối của họ cố định theo thời gian. Nghèo tuyệt đối thường được tính trên những nhu cầu dinh dưỡng và một số hàng hoá khác, do vậy một đường nghèo tuyệt đối được dùng để thực hiện các so sánh nghèo đói. Nghèo tương đối: Đó là sự thiếu hụt của các cá nhân hộ gia đình so với mức sống trung bình đạt được. Sự thiếu hụt này dựa trên cơ sở một tỷ lệ nào đó so với mức thu nhập bình quân của dân cư, có quốc gia xác định dựa trên thu nhập bình quân, có quốc gia lại dựa trên 1/3 thu nhập bình quân. Đây là khái niệm khá đầy đủ về đói nghèo, được nhiều nước trên thế giới sử dụng. ở Việt Nam quan niệm về nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối là: Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (nhu cầu về ăn, mặc, nhà ở, chăm sóc y tế, giáo dục...) Nghèo tương đối: chủ yếu phản ánh tình trạng một bộ phận dân cư không được thoả mãn những nhu cầu tối thiểu của con người, trước hết là ăn, mặc, ở... nghèo tương đối lại phản ánh sự chênh lệch về mực sống của một bộ phận dân cư khi so sánh với mức sống trung bình của cộng đồng địa phương trong một thời kỳ nhất định. Do đó, có thể xóa dần nghèo tuyệt đối, phương còn nghèo tương đối luôn xảy ra trong xã hội, vẫn đề quan tâm ở đây là rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo và hạn chế sự phân hóa giàu nghèo, giảm thiểu tới mức thấp nhất tỷ lệ nghèo tương đối. Dựa vào những khái niệm chung do các tổ chức quốc tế đưa ra và căn cứ vào thực trạng kinh tế-xã hội ở Việt Nam trong chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo đến năm 2005 và 2010 Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu á - Thái Bình Dương do escap tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9/1993. Đồng thời vấn đề đói nghèo ở Việt Nam còn được nghiên cứu ở cấp độ khác nhau như cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng, nêu bên cạnh khái niệm nghèo đói ở Việt Nam còn có một số khái niệm sau: Đói: là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng thường vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cộng đồng. Hộ đói: là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà ở tạm bợ, rách nát... Hộ nghèo: là hộ đói ăn không đủ, mặc không đủ lành, không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất... Xã nghèo: là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng thiết yếu như điện, đường, trường, trạm, nước sạch... trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao. Vùng nghèo: là địa bàn tương đối rộng nằm ở những khu vực khó khăn, hiểm trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao [3, tr.9]. ở CHDCND Lào: Nghèo được hiểu là vấn đề không đảm bảo được nhu cầu thiết yếu cơ bản về sinh hoạt hàng ngày như: thiếu lương thực (chất lượng khẩu phần thức ăn thấp dưới 2100 kg/ca/oly/ngày/người); thiếu mặc; lối sống không ổn định, không có khả năng tiếp cận về giáo dục, y tế và điều kiện đi lại gặp khó khăn. Hoặc quan niệm khác, nghèo không chỉ là mức thu nhập, tiêu dùng thấp và mức độ thấp của các thành quả trong giáo dục, y tế, trạng thái dinh dưỡng mà còn bao gồm tủi nhục bạo lực rủi ro, không có tiếng nói và không có quyền lực. Còn đói (với ý nghĩa biểu hiện trực tiếp là đói ăn, thiếu lương thực, thực phẩm để duy trì sự tồn tại của con người) thường chỉ có ở các nước nghèo, chậm phát triển. Đói cũng có hai dạng: đói kinh nghiệm và đói gay gắt chỉ mức độ và tính chất của đói là mức thấp nhất của nghèo. Đã lâm vào tình trạng đói. Đói: là sự đói ăn, thiếu lương thực, thực phẩm để nhằm duy trì nhu cầu tồn tại của con người. Trong cuộc sống hàng ngày, đói bao giờ cũng gắn liền với nghèo, do nghèo mà không thể giải quyết được sự thiếu ăn, thiếu lương thực, không có điều kiện trao đổi mua bán với các cá nhân khác trong cộng đồng, khi mà bản thân không tự đáp ứng đủ lương thực, thực phẩm cho nhu cầu cần thiết [12, tr.11]. Hiện nay CHDCND Lào đang sử dụng thước đo như: lấy lương thực, tài sản, thu nhập, có con cháu đi học cấp một trở lên và mức sống theo qui định của Bộ Y tế để đánh giá mục độ nghèo đói. Trong một loạt các tiêu chí đánh giá nghèo đói như thu nhập, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, chi tiêu gia đình, hưởng thụ văn hóa..., thì các chi tiêu thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng hoặc một năm, được xác định là tiêu chí chính. Có 4 chuẩn mực để xác định tình trạng nghèo đói hay trên diện nghèo đói của các hộ gia đình ở Lào. Đó là: Một là, có nhà ở tương đối, một tầng trở lên (nhà gỗ hay nhà xây). Hai là, có cơm đủ ăn cả năm, mức sống tối thiểu quy ra gạo nếp là 133/người/năm. Ba là, có trẻ em đi học và tốt nghiệp cấp một trở lên. Bốn là, mức sống đúng theo quy định của bộ y tế (ăn, mặc, ở), với mức tiêu chuẩn trên thì hộ nào đạt dưới mức này thì thuộc vào hộ nghèo. Tính theo thu nhập nhân khẩu một tháng hoặc một năm được đo bằng chi tiêu giá trị hoặc hiện vật quy đổi của Bộ Lao động Thương bình-xã hội, năm 1996 tiêu chuẩn xác định nghèo đói là: Hộ đói, là hộ có số gạo nếp bình quân đầu người đầu người là dưới 12 kg/tháng. Hộ nghèo, là hộ có số gạo nếp bình quân đầu người/tháng: dưới 25 kg/người, ở thành thị; dưới 20 kg/người ở nông thôn và dưới 15 kg/người, ở nông thôn và vùng sâu vùng xa. Hoặc tính bằng tiền thì hộ nghèo được hiểu là hộ có thu nhập bình quân đầu người 85.000 kíp/người/tháng (vùng đô thị), dưới 50.000 kíp/người/tháng (vùng nông thôn). Năm 2001-2005, văn phòng chính phủ đã đạt được tiêu chuẩn hộ gia đình, bản và khu vực trọng điểm đã hoàn thành về phát triển. * Cấp gia đình: - Có đủ lương thực để ăn (có gạo nếp 16kg/tháng/người). - Có nhà ở kiên cố vững vàng - Hộ gia đình nghèo đói là hộ gia đình có thu nhập ổn định bình quân (85.000 kíp/người/tháng); đảm bảo chi tiêu trong sinh hoạt: ăn, mặc, ở, đồ dùng gia đình, y tế, chi phí học hành của con cái. - Người lớn trong gia đình có độ tuổi 15-45 tuổi phải biết chữ, trẻ em trong độ tuổi đi học được đi học. - Thực hiện khẩu hiệu 3 sạch: ăn sạch, uống sạch và ở sạch. - Có phương tiện đi lại thuận tiện + Cấp Bản: - Số hộ gia đình trong bản phải chiếm trên 90% số hộ có gạo đủ ăn (16kg/người/tháng). - Số hộ gia đình trong bản phải chiếm trên 75% có nhà kiên cố. - Số hộ gia đình trong bản phải chiếm 80% ổn định về nghề nghiệp. Thu nhập chung của bản bình quân 85.000 kíp/tháng. - Trong bản có trường tiểu học, hay bản khác nhưng có thể đi học được; trẻ em trong độ tuổi đi học phải được đi học; người lớn có độ tuổi 15-45 có tỷ lệ biết chữ trên 85%. - Mọi gia đình trong bản thực hiện được 3 sạch như: ăn sạch, uống sạch, và ở sạch. - Trong bản có hộp thuốc, hiệu bán thuốc hay trạm y tế. - Có đường ô tô vào tới bản được hai mùa, có điện thắp sáng ở chỗ có điều kiện thuận lợi. - Bản có sự ổn định về xã hội. - Các tổ chức Đảng, chính quyền, quần chúng phải vững mạnh và hoạt động có hiệu quả. * Cấp khu vực trọng điểm: - Các bản trong khu vực trọng điểm chiếm trên 90% có gạo đủ ăn. - Các bản trong khu vực trọng điểm phải thực hiện hoàn tất việc giao đất khoán rừng, chấm dứt việc phát rẫy làm nương và trồng cây thuốc phiện; nông dân trong các hộ có nghề nghiệp ổn định, có sự phát triển hàng hóa, thu nhập bình quân 58.000 kíp/người/tháng. - Các bản trong khu vực trọng điểm phải có trên 75% nhà ở kiên cố. - Nhân khẩu trong khu vực trọng điểm có độ tuổi từ 15 trở lên phải biết chữ với trình độ cấp II hay cao hơn chiếm trên 85%; trẻ em trong độ tuổi đi học phải được đi học; khu vực trọng điểm phải có trường cấp II, có trạm tập huấn và dạy nghề, có trạm thí nghiệm và thực nghiệm ở những nơi có điều kiện. - Có trạm y tế và bệnh viện nhỏ cỡ 12-15 giường. - Có cơ hội để trao đội mua-bán hàng hóa và các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ trong khu vực trọng điểm. - Có hơn 75% số bản thực hiện ba sách. - Có đường ô tô đi lại được hai mùa tới các bản trong khu vực trọng điểm. - Bản phải được dùng điện ở những nơi có đủ điều kiện có nguồn điện. - Có văn phòng và có ban chỉ đạo trọng điểm thường trực ở cụm trọng điểm làm thường xuyên. Việc đưa ra các khái niệm nghèo cả về định tính và định lượng nhằm phân định mức độ nghèo và tìm ra giải pháp giảm nghèo. Tuy nhiên trong xã hội chúng ta thường hay gặp các khái niệm như đói nghèo; nghèo khổ; giàu nghèo và phân hóa giàu nghèo... Các khái niệm nêu trên là cách tiếp cận khác nhau về đói nghèo. Từ quan niệm về đói nghèo chúng ta nhìn nhận và đánh giá đầy đủ hơn về đói nghèo. Việc đánh giá đói nghèo chỉ có trong phạm vi nhất định với một không gian và thời gian nhất định như xét đói nghèo trong phạm vi một nước, một vùng, miền và trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Nó không phải là chuẩn mực chung nhất, có tính tuyệt đối cho tất cả các quốc gia trong tất cả các giai đoạn lịch sử. Khi các điều kiện trên thay đổi thì khái niệm về đói nghèo cũng có sự thay đổi. Bởi vì tác động của quy luật phát triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, về chế độ chính trị giữa các quốc gia, nên sự giàu nghèo giữa các quốc gia, các khu vực, các nhóm dân cư ở các giai đoạn lịch sử có sự khác nhau. Tóm lại, đói nghèo là tình trang bị thiếu thốn ở nhiều phương diện như: thu nhập hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định... Qua nghiên cứu, chúng ta nhận thấy đói nghèo có nguồn gốc căn nguyên từ kinh tế; nhưng với tư cách là hiện tượng tồn tại phổ biến ở các quốc gia trong tiến trình phát triển, đói nghèo thực chất là hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, chứ không thuần túy chỉ là vấn đề kinh tế cho dù các tiêu chí về kinh tế. Vì vậy, khi nghiên cứu những tác động ảnh hưởng đến thực trạng, xu hướng, cách thức giải quyết vấn đề đói nghèo cần phải đánh giá những tác động của nhân tố chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng có như vậy mới đề ra được các giải pháp đồng bộ cho công tác xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn nước CHDCND Lào. 1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo 1.1.2.1. Các yếu tố tự nhiên Các nhân tố về tự nhiên có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến quá trình hình thành và tồn tại của đói nghèo trong mỗi vùng, mỗi quốc gia thường bao gồm các nhân tố sau: Vị trí địa lý, đất đai địa hình, khí hậu thời tiết. - Về vị trí địa lý: Đây là nhân tố có vai trò rất quan trọng tác động đến sự phát triển kinh tế của vùng và của các quốc gia. Bởi nguyên nhân cơ bản nhất của nghèo đói là xuất phát từ nguyên nhân kinh tế. Nếu một vùng hay một quốc gia có vị trí địa lý thuận lợi về giao thông đường thủy, đường bộ, đường không hoặc nằm trong khu vực kinh tế năng động phát triển thì vùng đó, quốc gia đó sẽ có điều kiện để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của mọi tầng lớp trong xã hội. Trong thời đại ngày nay, thời đại phát triển kinh tế toàn cầu, thì nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới có mối liên hệ rằng buộc và đan xen nhau chặt chẽ. Tuy nhiên đây không phải là nhân tố quyết định mà nó còn phụ thuộc vào các chính sách, vào nhận thức của từng quốc gia và có thể khắc phục được. - Về đất đai địa hình: Đất đai là một nhân tố cực kỳ quan trọng trong quá trình sản xuất của cải vật chất của xã hội. Nó là tiền đề ban đầu cho mọi quá trình sản xuất. Trong sản xuất nông nghiệp, tác động của yếu tố đất đai rất rõ ràng. Nếu sản xuất nông nghiệp mà đất đai cằn cỗi, hoặc không đủ đáp ứng cho nhu cầu của con người về sản xuất ra các sản phẩm thì sẽ dẫn đến khó khăn về lương thực và nghèo đói là vấn đề gần như hiển nhiên. Một vùng hay một quốc gia mà yếu tố đất đai bị bó hẹp về diện tích và độ mầu mỡ thì rất khó khăn trong việc phát triển nông nghiệp. Đi đôi với yếu tố đất đai thì yếu tố địa hình cũng có tác động đến sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu địa hình thuận lợi tức là không bị chia cắt xé nhỏ và phức tạp thì thuận lợi cho sản xuất, cho giao lưu hàng hoá, ngược lại thì nó cản trở việc mở rộng quy mô đầu tư và giao lưu giữa các vùng, cản trở việc đầu tư cho giáo dục và y tế cũng như việc bảo vệ an ninh quốc phòng. - Về khí hậu thời tiết: Đây là nhân tố cũng có tác động rất lớn đến quá trình sản xuất, đến sự hình thành nghèo đói của vùng hay của một quốc gia, một khu vực. Bởi thời tiết, khí hậu thuận lợi sẽ tác động tích cực đến sản xuất, đời sống nhất là trong nông nghiệp, làm cho cây trồng, vật nuôi phát triển, năng suất cao hơn, thuận lợi cho đầu tư phát triển các ngành kinh tế. Việc giao lưu hàng hoá giữa các vùng cũng dễ dàng thuận lợi. Ngược lại nếu thời tiết, khí hậu diễn biến phức tạp như nắng lắm, mưa nhiều, biên độ nóng, lạnh quá lớn; hoặc xảy ra động đất núi lửa bão lụt, hạn hán... thì sẽ làm tổn thất về người và tài sản, huỷ hoại môi trường sinh thái... Nó dễ dẫn đến sự nghèo đói là điều khó có thể tránh khỏi. Do đó, trong các giải pháp xoá đói giảm nghèo cũng phải tính đến yếu tố này. 1.1.2.2. Các yếu tố xã hội Các yếu tố xã hội cũng có nhiều tác động đến quá trình hình thành đói nghèo như: Dân số và lao động, thành phần dân tộc, trình độ lao động và phong tục tập quán v.v... - Về dân số và lao động: Đây là nhân tố thường xuyên liên quan đến nghèo đói trong một vùng hay trong một quốc gia. Bởi dân số và lao động vừa là chủ thể nhưng cũng vừa là đối tượng của nghèo đói. Nó có tác động tích cực và tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Nếu dân số và lao động hài hoà hợp lý trong một vùng hay trong một quốc gia thì nó sẽ có tác dụng kích thích sản xuất phát triển, giải quyết được các nhu cầu cần thiết của cuộc sống con người. Ngược lại nếu dân số và lao động bất hợp lý thì nó sẽ cản trở sản xuất, cản trở việc phát triển kinh tế làm nảy sinh và hình thành nghèo đói trong xã hội. Vậy, sự bất hợp lý đó là dân số quá cao so với các yếu tố liên quan đến đời sống, đến sản xuất như đất đai, nhà cửa, mức sinh hoạt trường học, y tế và các yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật khác; hay tỷ lệ lao động quá thấp so với dân số do không hạn chế sinh đẻ hay do hiện tượng “già hoá” v.v... - Về thành phần dân tộc, trình độ dân trí và phong tục tập quán: Các yếu tố này trong một vùng hay trong một quốc gia thường liên quan hữu cơ với nhau, có tác động tương hỗ thúc đẩy lẫn nhau đến quá trình phát triển kinh tế xã hội. Nếu trong một quốc gia có nhiều thành phần dân tộc sẽ có nhiều phong tục tập quán khác nhau và trình độ dân trí hay trình độ lao động của dân cư cũng khác nhau. Do đó, nó cũng có yếu tố vừa tích cực vừa tiêu cực cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nó vừa đa dạng phong phú về kinh nghiệm, về đa dạng các sản phẩm nhưng nó cũng cản trở đến sản xuất, đó là sự không đồng đều về nhận thức về trình độ lao động và sự khác nhau về phong tục tập quán, do đó khó khăn trong việc hình thành các chính sách về kinh tế - xã hội cho phù hợp với điều kiện riêng của các vùng, miền khác nhau để hạn chế sự đói nghèo. 1.1.2.3. Các yếu tố kinh tế Các yếu tố về điều kiện tự nhiên là yếu tố khách quan ban đầu cho phát triển kinh tế, thì các yếu tố về kinh tế là yếu tố nền tảng có vai trò quan trọng quyết định đến xoá đói giảm nghèo. - Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật: Đây cũng là nhân tố tác động trực tiếp đến sự đói nghèo. Nếu một vùng hay một quốc gia mà các yếu tố về vật chất kỹ thuật thấp kém sẽ hạn chế rất nhiều đến sự phát triển kinh tế. Vùng đó quốc gia đó khó có thể đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của con người, như ăn, ở, mặc, đi lại, giao tiếp... Do đó, nghèo đói là một sự đương nhiên. Cơ sở vật chất kỹ thuật là cơ sở là sức mạnh của một quốc gia, nó là điều kiện quan trọng trong công tác xoá đói giảm nghèo. - Cơ chế chính sách của nhà nước về kinh tế - xã hội: Đây là một tiền đề quan trọng trong việc xoá đói giảm nghèo. Nếu có đồng bộ các chính sách và phù hợp với điều kiện khả năng của mỗi vùng trong một quốc gia nó sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách đồng bộ hạn chế việc chỉ thiên về mặt kinh tế hoặc chỉ thiên về mặt xã hội thì khó có giải pháp xoá đói giảm nghèo một cách toàn diện, bền vững hoặc có xoá đói giảm nghèo thì chỉ được cho một vài bộ, phận, và mang tính không bền vững, khả năng tái nghèo đói cao. Trong mỗi giai đoạn và mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước Lào đều có những chủ trương chính sách phù hợp với tình hình cụ thể để đạt được mục tiêu nhất định. Xoá đói giảm nghèo là một chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là sự kết hợp thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của CHDCND Lào. Thực tế trong những năm qua cho dù mức đầu tư cho miền núi nói chung và vùng sâu, vùng xa ở tỉnh Hủa Phăn nói riêng còn thấp về mặt lượng, kéo dài về thời gian, nhưng đã chứng minh rằng cùng đầu tư như nhau, nhưng ở địa phương nào có mặt bằng dân trí tốt hơn, bản thân các hộ nông dân tiếp cận nhiều hơn với thị trường và xã hội, thì ở đó thực sự đời sống được cải thiện nhanh hơn. Sự đầu tư của Nhà nước thông qua chính sách kinh tế, các chương trình quốc gia thực sự là “cú hích”, “bà đỡ” từng bước xoá đói giảm nghèo. Ngoài những nhân tố cơ bản nên trên đói nghèo còn có những nhân tố khác ảnh hưởng đến đói nghèo như: bệnh dịch, chiến tranh (hậu quả chiến tranh để lại)... sự ảnh hưởng của từng nhân tố còn tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng vùng, từng bản khác nhau. Song giữa các nhân tố luôn là một sự hoà quyện gắn bó tác động đến đói nghèo. Xoá đói giảm nghèo còn là sự thống nhất trong mục tiêu chung của chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Mục tiêu kinh tế là tăng trưởng kinh tế, hiệu quả kinh tế, tăng GDP, còn mục tiêu xã hội là ổn định an toàn xã hội, nâng cao chất lượng cuốc sống. Giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội lai có điểm chung là nhằm phát triển đất nước. Do đó, mọi chính sách kinh tế và xã hội đều phải hướng vào mục tiêu trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con người, đảm bảo công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân. Cả chính sách kinh tế và chính sách xã hội đều hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Phát triển kinh tế thị trường phải theo quy luật của thị trường, Đảng và Nhà nước Lào coi đó là phương tiện để thực hiện nhanh chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Lào. Mặt khác, khi nói đến tiến bộ xã hội là đề cập đến chất lượng của xã hội đó. Điều này lại lệ thuộc vào chế độ xã hội hay là thể chế chính trị của mỗi quốc gia. Tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước Lào là vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế vừa đảm bảo cả công bằng xã hội, giải quyết được xoá đói giảm nghèo, đạt được sự tiến bộ xã hội đúng với khái niệm của nó là phục vụ cho phát triển con người. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước Lào đã sớm có chính sách đổi mới kinh tế, từ nền kinh tế sản xuất theo cơ chế quan liêu bao cấp chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Như trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá V tại Đại hội VII đã quán triệt quan điểm về xây dựng kinh tế theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là: Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. 1.2. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào Như chúng ta đã biết đói nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà còn là vấn đề chính trị - xã hội và là một trong những nội dung cơ bản trong phát triển kinh tế bền vững ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Giải quyết tình trạng đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội vừa cơ bản, lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách nhằm bảo đảm phát tiễn kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, kể từ khi bắt đầu đổi mới (năm 1986) mở cửa phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian qua đã mang lại những thành công rực rỡ, đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và bước vào giai đoạn phát triển mới, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh những thành công đó làm cho nền kinh tế đã dần đi vào ổn định và từng bước được phát triển vững chắc, cuộc sống của đại đa số nhân dân được cải thiện, nâng lên cả về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, trên thực tế tỷ lệ nghèo đói ở CHDCND Lào vẫn còn rất cao. Năm 2006 tỷ lệ nghèo đói ở Lào là 38%, trong đó tỷ lệ nghèo đói ở nông thôn là 53%, ở thành thị là 24%. Lào là một trong những nước xếp vào loại nghèo. Tỉnh Hủa Phăn là một tỉnh đa dân tộc, mỗi dân tộc mang tín ngưỡng tôn giáo và phong tục tập quán khác nhau, là một tỉnh còn nghèo, cơ sở hạ tầng còn yếu, có điểm xuất phát thấp, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, tự cung tự cấp khép kín lạc hậu, đời sống của đại bộ phận dân cư thấp, nhất là đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu vùng xa còn hết sức khó khăn. Qua kiểm tra người nghèo của Tổng cục Thống kê nhà nước với vốn tài trợ của Ngân hàng Phát triển châu á (theo chuẩn nghèo của Chính phủ quy định năm 2000), tỷ lệ nghèo năm 2000 chiếm 74%; đến năm 2005 chiếm 53% của tổng số hộ nghèo cả tỉnh. Đến năm 2007, còn có 5 huyện nghèo trong 8 huyện cả tỉnh chiếm 62,5%; bản nghèo còn 486 bản trong 744 bản chiếm 65,32%, tổng số bản toàn tỉnh có số hộ nghèo còn 22.327 hộ trong 43.964 hộ chiếm 50,78% tổng số hộ gia đình toàn tỉnh [24, tr.27]. Từ Đại hội lần thứ VI (1996) đến Đại hội VII (2001) Đảng đề ra chủ trương xoá đói giảm nghèo trong 5 năm tới, phát triển nông thôn phải kết hợp đồng bộ và có trọng điểm. Việc phát triển nông thôn gắn liền với việc xoá đói giảm nghèo, chấm dứt việc phát rẫy làm nương và chấm dứt việc trồng thuốc phiện - cần sa. Do vậy, từng địa phương phải tiếp tục vận động xây dựng cơ sở toàn diện, thực hiện chỉ tiêu, xây dựng huyện thành đơn vị cơ sở. Tổ chức thực hiện một cách đồng bộ và quy hoạch khu vực trọng điểm phát triển rõ ràng, dựa trên tiềm năng thế mạnh của từng khu vực. Để hoàn thành chỉ tiêu về xoá đói giảm nghèo đó, trước hết chúng ta phải xác định tiêu chí đói nghèo của nhân dân. Sau đó thu nhập số liệu về vấn đề đói nghèo của từng hộ gia đình, từng bản. Chúng ta phải nghiên cứu xây dựng chiến lược xoá đói giảm nghèo. Từ đó, mới xây dựng triển khai thành chương trình, dự án cấp Quốc gia để xoá đói giảm nghèo, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ và có ngân sách riêng để thực hiện chương trình (dự án) đó trong từng năm. Từng địa phương phải xây dựng dự án xoá đói giảm nghèo cho địa phương mình, quy định thành khu vực trọng điểm để giải quyết xoá đói giảm nghèo. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiếp tục quan tâm nhiều hơn nữa tới vấn đề xoá đói giảm nghèo đã xác định: Tiếp tục xoá đói giảm nghèo trong 47 huyện nghèo đói là trọng điểm theo kế hoạch đề ra để phát triển và xây dựng dự án phát triển cụm bản, khắc phục và xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích dịch vụ giáo dục và y tế cho hộ nghèo, khuyến khích vốn đầu tư cấp bản, đồng thời gắn liền với sản xuất hàng hoá truyền thống của nhân dân trên cơ sở vốn đầu tư về kinh tế 7,5-8% và thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo xuống còn 15% so với năm 2000 [40, tr.123]. Quá trình thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo ở CHDCND Lào nói chung và ở tỉnh Hủa Phăn nói riêng. Mặc dù đã có những tiến bộ nhưng tại các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thiếu tính đồng bộ, thống nhất cả về nhận thức và hành động, chưa tìm ra những giải pháp thiết thực phù hợp với đặc điểm tình hình của các vùng dân tộc. Thực trạng đói nghèo ở Hủa Phăn đang là một vấn đề bức xúc cần được quan tâm giải quyết. Công tác xoá đói giảm nghèo là cần thiết bởi những nội dung cơ bản sau: Một là, vấn đề xoá đói giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Công việc xoá đói giảm nghèo là yếu tố căn bản để đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững, ngược lại chỉ có tăng trưởng kinh tế cao, bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo tự vươn lên thoát khỏi sự nghèo đói. Hai là, xoá đói giảm nghèo không phải là công việc trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh. Xoá đói giảm nghèo không phải là sự phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát khỏi nghèo. Xoá đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà là còn là nhân tố quan trọng tạo ra mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm lực lượng sản xuất và đảm bảo sự ổn định của đất nước. Ba là, xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở của tăng trưởng kinh tế trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững, tạo ra những cơ hội thuận lợi để người nghèo và cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh và hưởng thụ từ những thành quả của tăng trưởng kinh tế. Chính sách xoá đói giảm nghèo là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Xoá đói giảm nghèo được đặt trong một bộ phận của chiến lược 10 năm; kế hoạch 5 năm về phát triển kinh tế - xã hội từ trung ương đến cơ sở. Xoá đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước mà của cả toàn xã hội, của mọi tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, của mọi thành phần kinh tế và tranh thủ các nguồn lực quốc tế mà trước hết bản thân chính người nghèo phải tự vươn lên để thoát nghèo. Xoá đói giảm nghèo không chỉ nhằm vào những người nghèo mà còn nhằm vào cả tầng lớp người giàu có, tạo ra một nhóm giàu hợp thức giàu trước, từ đó tạo ra những động lực mạnh mẽ để có thể thúc đẩy, hỗ trợ người nghèo; nhóm xã hội nghèo thoát nghèo. Xoá đói giảm nghèo là một quá trình lâu dài và có tính lịch sử cụ thể, được tiến hành từng bước, có lộ trình và có trọng tâm trọng điểm. Bởi lẽ, nghèo đói là một vấn đề xã hội mang tính cơ cấu của mọi xã hội. Như vậy, tiến trình xoá đói giảm nghèo đòi hỏi phải có sự kiên trì, có tầm nhìn chiến lược và cần tránh nôn nóng hoặc tiến hành theo kiểu phong trào. Cần phải đặt ra chỉ tiêu có tính khả thi để thực hiện từng bước. 1.3. Kinh nghiệm Việt Nam và một số tỉnh ở Lào trong xoá đói giảm nghèo 1.3.1. Kinh nghiệm của Việt Nam Việt Nam cũng là một nước rất thành công về xoá đói giảm nghèo trong hai thập kỷ gần đây. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, Việt Nam đã giảm được tỷ lệ nghèo từ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan