LUẬN VĂN:
Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề đói nghèo xuất hiện và tồn tại như một thách thức lớn đối với sự phát
triển bền vững của mỗi quốc gia cũng như của nhân loại. Cuộc chiến chống đói nghèo
luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới, riêng ở Lào việc xoá đói
giảm nghèo được Đảng và Nhà nước ưu tiên hàng đầu và là nhiệm vụ chung của toàn
xã hội.
Hiện nay, ở các hộ gia đình nghèo đói chiếm tỷ lệ đến 28,7% trong các hộ gia
đình cả nước, chủ yếu trên địa bàn nông thôn và miền núi; giải quyết tốt vấn đề xoá đói
giảm nghèo có ý nghĩa chiến lược đối với sự ổn định và phát triển của đất nước. Nếu
không giải quyết tốt vấn đề xoá đói giảm nghèo đất nước Lào sẽ không thể thoát khỏi
tình trạng nghèo nàn lạc hậu, sẽ dẫn đến mất ổn định chính trị xã hội.
Trong quá trình thực hiện việc xoá đói giảm nghèo ở Lào nói chung và ở tỉnh
Hủa Phăn nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, công tác xoá đói
giảm nghèo còn nhiều bất cập, chưa hiệu quả, chưa định hướng rõ về mô hình xoá đói
giảm nghèo, chưa thật sự bền vững, còn nhiều vấn đề bức xúc đang đặt ra, cần giải
quyết và nhìn chung, nhận thức cách tiếp cận và phương thức giải quyết vấn đề đói
nghèo cũng có nhiều khác biệt, giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế.
Công cuộc xoá đói giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và là
một chủ trương lớn và quyết sách của Đảng và Nhà nước Lào. Thực hiện việc xoá đói,
giảm nghèo như thế nào, để đáp ứng được các mục tiêu chiến lược mà nền kinh tế đã
đặt ra.
Hủa Phăn là một tỉnh miền núi nằm ở miền Bắc CHDCND Lào, Nơi đây trước
kia là khu căn cứ địa cách mạng, là nơi có vị trí chiến lược trọng yếu về mặt quân sự, an
ninh quốc phòng cả nước. Cách thủ đô Viêng Chăn khoảng 650 km, phía Đông và phía
Bắc giáp với tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Luông Pra Bang; Có biên giới giáp với Việt
Nam như: Tỉnh Thanh Hoá, Tỉnh Sơn La và Nghệ An, có chiều dài 619 Km; có diện
tích 16.500 K m2, phần lớn là núi chiếm 90%, diện tích cả tỉnh. 10% là đồng bằng và
trung du. đa dân tộc có dân số 280.393 người; là một tỉnh còn nghèo cơ sở hạ tầng còn
yếu, có điểm xuất phát thấp, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, lực lượng lao động
chủ yếu vẫn là nông dân và canh tác nông nghiệp, năng suất lao động thấp. Thêm vào
đó, thiên tai, tình hình thù địch gây không ít khó khăn cho việc phát triển kinh tế xã
hội, đại bộ phận dân cư chủ yếu là ở nông thôn và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đời
sống của dân cư còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao, mặc dù công tác
xoá đói giảm nghèo đã đưa các ngành, các cấp chỉ đạo thực hiện. Song vẫn chưa đáp
ứng được đòi hỏi giải quyết cấp bách về đói nghèo. Đó là những vấn đề đang được đặt
ra một cách cấp bách cả trên phương diện lý luận và thực tiễn hiện nay đối với nước
CHDCND Lào nói chung và của chính quyền, các đoàn thể và nhân dân ở tỉnh Hủa
Phăn nói riêng.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “ Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào”, làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xoá đói giảm nghèo là một hiện tượng rất phổ biến, nó đã được Đảng và Nhà
nước Lào, các nhà khoa học, các nhà quản lý… quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ
khác nhau.
Cho đến nay ở Lào đã có một số công trình nghiên cứu, luận văn tốt nghiệp đề cập
đến vấn đề xoá đói giảm nghèo, trong đó có các công trình như:
- Mr. Oivin, Mr. Leonell, Mr. Ifcudino (Nhóm tác giả ở Liên Hiệp Quốc)
(1995) Phát triển vùng miền núi dân tộc ít người (gồm 8 tỉnh trong đó có tỉnh Hủa
Phăn) năm 1995-2000. Các tác giả đã đề cập đến vấn đề đầu tư về cơ sở hạ tầng, về
giáo dục và y tế ở các vùng dân tộc miền núi; nêu lên mối quan hệ phân cấp tài chính
quyền địa phương trong công tác xoá đói giảm nghèo qua hệ thống phân phối ngân
sách.
- Báo cáo tổng hợp của uỷ ban kế hoạch nhà nước Lào (2000), Quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và tâm nhìn đến năm 2020 của CHDCND Lào.
- Luận văn thạc sĩ của Sổm Phết Khăm Ma Ni: Thực trạng và giải pháp xoá đói
giảm nghèo ở tỉnh BOLIKHĂMXAY nước CHDCND Lào, Học viện Chính trị quốc gia
HCM, 2002.
- Luận văn thạc sĩ của. Kẹo Đa La Kon Sou Ri Vông: Xoá đói giảm nghèo ở
tỉnh Sê Kông CHDCND Lào, thực trạng và giải pháp; Học viện Chính trị quốc gia
HCM, 2005.
- Luận văn thạc sĩ của Xổm Phít Coong Xắp: Chính sách xoá đói giảm nghèo
ở CHDCND Lào (Qua khảo sát ở tỉnh Xay Nha Bu Ly), Học viện Chính trị quốc gia
HCM, 2007.
ở Việt Nam cũng đã có nhiều hội nghị, công trình nghiên cứu và bài viết liên
quan đến vấn đề xoá đói giảm nghèo như:
- Ngô Quang Minh (1999), Tác động kinh tế của nhà nước góp phần xoá đói
giảm nghèo trong quá trình CNH, HĐH, Nxb CTQG HN.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Bùi Thị Lý: Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở tỉnh
Phú Thọ hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia HCM, 2000.
- Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam tổ chức hội thảo: Xoá đói
giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số: phương pháp tiếp cận, năm 2001.
- Hội thảo nghiên cứu giảm nghèo ở nông thôn từ cách tiếp cận vi mô. Chương
trình nghiên cứu Việt Nam, Hà Lan (VNRP), Đà Nắng 1-10/05/2002.
- Ngân hàng Thế giới (2004), Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Hoàng Lý: Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh
Gia Lai Thực trạng và giải pháp, Học viện Chính trị quốc gia HCM, 2005.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Giàng Thị Dung: Xoá đói giảm nghèo ở các
huyện biên giới tỉnh Lào trong giai đoạn hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia HCM,
2006.
Các công trình nghiên cứu và bài viết trên đây đã đề cập đến xoá đói giảm
nghèo dưới các góc độ và khía cạnh khác nhau cả về lý luận và thực tiễn, nhưng chưa
có công trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề đói nghèo ở tỉnh Hủa Phăn dưới góc độ
kinh tế chính trị. Chính vì vậy, đây là vấn đề cần được nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa
Phăn nước CHDCND Lào từ năm 2001 đến 2007. Từ đó thấy được những kết quả đạt
được và những vấn đề còn hạn chế, đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản
nhằm thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá một số lý luận về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo.
- Làm rõ sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn.
- Phân tích tình hình đói nghèo ở tỉnh Hủa Phăn, chỉ rõ các nguyên nhân.
- Làm rõ thực trạng xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn, từ đó khái quát
những thành tựu, hạn chế, và những vấn đề đặt ra trong công cuộc xoá đói giảm nghèo.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh công tác
xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ giới hạn tập trung nghiên cứu vấn đề xoá đói giảm nghèo trên địa
bàn tỉnh Hủa Phăn nước CHDCND Lào. Thời điểm khảo sát đánh giá và phân tích thực
trạng từ 2001 đến 2007.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, tư tưởng Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản, các quan điểm của Đảng
NDCM Lào, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhất
là đường lối chính sách trong thời kỳ đổi mới, kế thừa kết quả những công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề xoá đói giảm
nghèo. Những tổng kết thực hiện xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu xoá đói giảm nghèo, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn; phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic,
tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh, tham khảo ý kiến của các cán bộ, chuyên gia…
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo ở
tỉnh Hủa Phăn và đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần giải quyết vấn đề xoá
đói giảm nghèo của tỉnh trong thời gian tới.
- Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định
chính sách xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Hủa Phăn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đói nghèo
và xoá đói giảm nghèo
1.1. Quan niệm về đói nghèo và các nhân tố ảnh hưởng tới đói nghèo
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo
Lịch sử phát triển của xã hội loại người ở mỗi giai đoạn được đánh dấu bằng
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - theo đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát
triển, năng suất lao động ngày càng cao thì nhu cầu được đáp ứng ngày càng nhiều,
càng phong phú và ngược lại, khi một bộ phận xã hội do trình độ sản xuất lạc hậu, năng
suất lao động xã hội thấp không thể đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của mình như
ăn, mặc, ở, đi lại v.v... thua xa các bộ phận xã hội khác thì sẽ rơi vào tình trạng đói nghèo.
Ngày nay, khi khoa học - công nghệ càng phát triển dưới sự thống trị của nhiều
thể chế khác nhau thì khoảng cách giàu, nghèo ngày càng lớn. Theo báo cáo của Ngân
hàng thế giới thì trên toàn thế giới tổng số người nghèo gia tăng từ 1,2 tỷ người năm
1987 đến nay đã lên 1,5 tỷ người và nếu chiều hướng này cứ tiếp tục thì đến năm 2015
con số người đói nghèo sẽ là 1,9 tỷ người.
Trước thực trạng đó, thế giới cũng đã có nhiều nỗ lực và đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể trong cuộc chiến chống đói nghèo. Theo đánh giá của một số tổ chức
quốc tế như: Liên Hiệp quốc, Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á
(ADB).. thì số người có mức thu nhập dưới 1 USD/1 ngày ở khu vực Châu á giảm
nhanh (từ năm 1990 đến năm 2002 đã giảm 223 triệu người) dẫn đầu các khu vực trên
thế giới về xoá đói giảm nghèo, hy vọng vào năm 2015 số người nghèo ở đây sẽ giảm
690 triệu người còn 150 triệu người [14, tr.5].
Hiện nay, đói nghèo không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia mà là vấn đề
có tính toàn cầu, bởi lẽ ở tất cả các quốc gia trên thế giới, kể cả những nước giàu nhất
về kinh tế như Mỹ, Đức, Nhật... người nghèo vẫn còn và khó có thể hết người nghèo
khi trong các xã hội chưa thể chấm dứt những rủi ro về kinh tế, xã hội, môi trường và
sự bất bình đẳng trong phân phối của cải làm ra. Rủi ro quá nhiều trong sản xuất và đời
sống làm cho một bộ phận dân cư rơi vào tình trạng tổn thương về thể xác, tài chính và
những điều kiện cơ bản của cuộc sống và kết quả trở thành nghèo. Tháng 3 năm 1995,
tại Hội nghị thượng định thế giới về phát triển xã hội ở Copenhagen Đan Mạch, những
người đứng đầu các quốc gia đã trịnh trọng tuyên bố: chúng tôi cam kết thực hiện mục
tiêu xoá đói giảm nghèo trên thế giới, thông qua các hành động quốc gia kiên quyết và
sự hợp tác quốc tế, coi đây như một đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo đức xã hội, chính trị,
kinh tế của nhân loại.
Chúng ta thường thấy nhiều khái niệm về nghèo như: nghèo đói, nghèo khổ,
giàu nghèo, phân hoá giàu nghèo hay khoảng cách giàu nghèo, những khái niệm này
được các học giả, các nhà khoa học định nghĩa dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác
nhau như nghèo về vật chất, nghèo về tri thức, nghèo về văn hoá... Mặt khác, bên
cạnh khái niệm nghèo, còn sử dụng khái niệm đói để phân biệt mức độ rất nghèo của
một bộ phận dân cư. Chính vì vậy, hiện nay chúng ta thường thấy khái niệm kép đói
nghèo hoặc nghèo đói.
Đói nghèo là một hiện tượng tồn tại ở tất cả các quốc gia, dân tộc. Nó là một
khái niệm rộng, luôn thay đổi theo không gian và thời gian [3, tr.7].
Cho đến nay, khái niệm nghèo đói được dùng nhiều nhất là khái niệm đã được
đưa ra tại Hội nghị bàn về giảm nghèo đói do ủy ban kinh tế và xã hội của châu á - Thái
Bình Dương (escap) tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9/1993, đã đưa ra khái
niệm nghèo đói như sau:
Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn
những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa
nhận, tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng địa
phương.
Đây chính là một khái niệm chung nhất về nghèo đói, một khái niệm mở, có
tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ biến về
nghèo. Các tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hoá được bỏ ngỏ bởi vì còn phải tính
đến sự khác biệt chênh lệch giữa điều kiện tự nhiên điều kiện xã hội và trình độ phát
triển của mỗi vùng miền khác nhau. Vấn đề quan trọng nhất mà khái niệm này đã đưa
ra được đó chính là những nhu cầu cơ bản của con người, nếu không được thoả mãn thì
họ chính là những người nghèo đói. Một khái niệm mở như vậy sẽ dễ dàng được các tổ
chức và các quốc gia chấp nhận. Khái niệm sẽ được mở rộng hơn theo sự phát triển của
xã hội, nhất là khi nhu cầu cơ bản của con người được mở rộng theo thời gian.
Từ khái niệm chung này, khi nghiên cứu thực trạng nghèo đói, người ta đã đưa
ra hai khái niệm, đó là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối: Đó là sự thiếu hụt so với mức sống (những nhu cầu) tối thiểu.
Nghèo tuyệt đối đề cập đến vị trí của một cá nhân, hộ gia đình trong mỗi quan
hệ với đường nghèo khổ mà giá trị tuyệt đối của họ cố định theo thời gian. Nghèo tuyệt
đối thường được tính trên những nhu cầu dinh dưỡng và một số hàng hoá khác, do vậy
một đường nghèo tuyệt đối được dùng để thực hiện các so sánh nghèo đói.
Nghèo tương đối: Đó là sự thiếu hụt của các cá nhân hộ gia đình so với mức
sống trung bình đạt được.
Sự thiếu hụt này dựa trên cơ sở một tỷ lệ nào đó so với mức thu nhập bình
quân của dân cư, có quốc gia xác định dựa trên thu nhập bình quân, có quốc gia lại dựa
trên 1/3 thu nhập bình quân.
Đây là khái niệm khá đầy đủ về đói nghèo, được nhiều nước trên thế giới sử
dụng.
ở Việt Nam quan niệm về nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối là:
Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả
mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (nhu cầu về ăn, mặc, nhà ở,
chăm sóc y tế, giáo dục...)
Nghèo tương đối: chủ yếu phản ánh tình trạng một bộ phận dân cư không được
thoả mãn những nhu cầu tối thiểu của con người, trước hết là ăn, mặc, ở... nghèo tương
đối lại phản ánh sự chênh lệch về mực sống của một bộ phận dân cư khi so sánh với
mức sống trung bình của cộng đồng địa phương trong một thời kỳ nhất định. Do đó, có
thể xóa dần nghèo tuyệt đối, phương còn nghèo tương đối luôn xảy ra trong xã hội, vẫn
đề quan tâm ở đây là rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo và hạn chế sự phân
hóa giàu nghèo, giảm thiểu tới mức thấp nhất tỷ lệ nghèo tương đối.
Dựa vào những khái niệm chung do các tổ chức quốc tế đưa ra và căn cứ vào
thực trạng kinh tế-xã hội ở Việt Nam trong chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa
đói giảm nghèo đến năm 2005 và 2010 Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về đói
nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu á - Thái Bình Dương do escap tổ
chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9/1993. Đồng thời vấn đề đói nghèo ở Việt Nam
còn được nghiên cứu ở cấp độ khác nhau như cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng, nêu
bên cạnh khái niệm nghèo đói ở Việt Nam còn có một số khái niệm sau:
Đói: là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ
dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng thường vay mượn của cộng đồng
và thiếu khả năng chi trả cộng đồng.
Hộ đói: là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành
đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà ở tạm bợ, rách nát...
Hộ nghèo: là hộ đói ăn không đủ, mặc không đủ lành, không đủ ấm, không có
khả năng phát triển sản xuất...
Xã nghèo: là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ
tầng thiết yếu như điện, đường, trường, trạm, nước sạch... trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù
chữ cao.
Vùng nghèo: là địa bàn tương đối rộng nằm ở những khu vực khó khăn, hiểm
trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao [3, tr.9].
ở CHDCND Lào: Nghèo được hiểu là vấn đề không đảm bảo được nhu cầu
thiết yếu cơ bản về sinh hoạt hàng ngày như: thiếu lương thực (chất lượng khẩu phần
thức ăn thấp dưới 2100 kg/ca/oly/ngày/người); thiếu mặc; lối sống không ổn định,
không có khả năng tiếp cận về giáo dục, y tế và điều kiện đi lại gặp khó khăn. Hoặc
quan niệm khác, nghèo không chỉ là mức thu nhập, tiêu dùng thấp và mức độ thấp của
các thành quả trong giáo dục, y tế, trạng thái dinh dưỡng mà còn bao gồm tủi nhục bạo lực rủi ro, không có tiếng nói và không có quyền lực.
Còn đói (với ý nghĩa biểu hiện trực tiếp là đói ăn, thiếu lương thực, thực phẩm
để duy trì sự tồn tại của con người) thường chỉ có ở các nước nghèo, chậm phát triển.
Đói cũng có hai dạng: đói kinh nghiệm và đói gay gắt chỉ mức độ và tính chất của đói
là mức thấp nhất của nghèo. Đã lâm vào tình trạng đói.
Đói: là sự đói ăn, thiếu lương thực, thực phẩm để nhằm duy trì nhu cầu tồn
tại của con người. Trong cuộc sống hàng ngày, đói bao giờ cũng gắn liền với nghèo, do
nghèo mà không thể giải quyết được sự thiếu ăn, thiếu lương thực, không có điều kiện
trao đổi mua bán với các cá nhân khác trong cộng đồng, khi mà bản thân không tự đáp
ứng đủ lương thực, thực phẩm cho nhu cầu cần thiết [12, tr.11].
Hiện nay CHDCND Lào đang sử dụng thước đo như: lấy lương thực, tài sản,
thu nhập, có con cháu đi học cấp một trở lên và mức sống theo qui định của Bộ Y tế để
đánh giá mục độ nghèo đói. Trong một loạt các tiêu chí đánh giá nghèo đói như thu
nhập, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, chi tiêu gia đình, hưởng thụ văn hóa..., thì các chi tiêu
thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng hoặc một năm, được xác định là tiêu chí
chính.
Có 4 chuẩn mực để xác định tình trạng nghèo đói hay trên diện nghèo đói của
các hộ gia đình ở Lào. Đó là:
Một là, có nhà ở tương đối, một tầng trở lên (nhà gỗ hay nhà xây).
Hai là, có cơm đủ ăn cả năm, mức sống tối thiểu quy ra gạo nếp là
133/người/năm.
Ba là, có trẻ em đi học và tốt nghiệp cấp một trở lên.
Bốn là, mức sống đúng theo quy định của bộ y tế (ăn, mặc, ở), với mức tiêu
chuẩn trên thì hộ nào đạt dưới mức này thì thuộc vào hộ nghèo.
Tính theo thu nhập nhân khẩu một tháng hoặc một năm được đo bằng chi tiêu
giá trị hoặc hiện vật quy đổi của Bộ Lao động Thương bình-xã hội, năm 1996 tiêu
chuẩn xác định nghèo đói là:
Hộ đói, là hộ có số gạo nếp bình quân đầu người đầu người là dưới 12
kg/tháng.
Hộ nghèo, là hộ có số gạo nếp bình quân đầu người/tháng: dưới 25 kg/người, ở
thành thị; dưới 20 kg/người ở nông thôn và dưới 15 kg/người, ở nông thôn và vùng sâu
vùng xa. Hoặc tính bằng tiền thì hộ nghèo được hiểu là hộ có thu nhập bình quân đầu
người 85.000 kíp/người/tháng (vùng đô thị), dưới 50.000 kíp/người/tháng (vùng nông
thôn).
Năm 2001-2005, văn phòng chính phủ đã đạt được tiêu chuẩn hộ gia đình, bản
và khu vực trọng điểm đã hoàn thành về phát triển.
* Cấp gia đình:
- Có đủ lương thực để ăn (có gạo nếp 16kg/tháng/người).
- Có nhà ở kiên cố vững vàng
- Hộ gia đình nghèo đói là hộ gia đình có thu nhập ổn định bình quân (85.000
kíp/người/tháng); đảm bảo chi tiêu trong sinh hoạt: ăn, mặc, ở, đồ dùng gia đình, y tế,
chi phí học hành của con cái.
- Người lớn trong gia đình có độ tuổi 15-45 tuổi phải biết chữ, trẻ em trong độ
tuổi đi học được đi học.
- Thực hiện khẩu hiệu 3 sạch: ăn sạch, uống sạch và ở sạch.
- Có phương tiện đi lại thuận tiện
+ Cấp Bản:
- Số hộ gia đình trong bản phải chiếm trên 90% số hộ có gạo đủ ăn
(16kg/người/tháng).
- Số hộ gia đình trong bản phải chiếm trên 75% có nhà kiên cố.
- Số hộ gia đình trong bản phải chiếm 80% ổn định về nghề nghiệp. Thu nhập
chung của bản bình quân 85.000 kíp/tháng.
- Trong bản có trường tiểu học, hay bản khác nhưng có thể đi học được; trẻ em
trong độ tuổi đi học phải được đi học; người lớn có độ tuổi 15-45 có tỷ lệ biết chữ trên
85%.
- Mọi gia đình trong bản thực hiện được 3 sạch như: ăn sạch, uống sạch, và ở
sạch.
- Trong bản có hộp thuốc, hiệu bán thuốc hay trạm y tế.
- Có đường ô tô vào tới bản được hai mùa, có điện thắp sáng ở chỗ có điều
kiện thuận lợi.
- Bản có sự ổn định về xã hội.
- Các tổ chức Đảng, chính quyền, quần chúng phải vững mạnh và hoạt động có
hiệu quả.
* Cấp khu vực trọng điểm:
- Các bản trong khu vực trọng điểm chiếm trên 90% có gạo đủ ăn.
- Các bản trong khu vực trọng điểm phải thực hiện hoàn tất việc giao đất khoán
rừng, chấm dứt việc phát rẫy làm nương và trồng cây thuốc phiện; nông dân trong các
hộ có nghề nghiệp ổn định, có sự phát triển hàng hóa, thu nhập bình quân 58.000
kíp/người/tháng.
- Các bản trong khu vực trọng điểm phải có trên 75% nhà ở kiên cố.
- Nhân khẩu trong khu vực trọng điểm có độ tuổi từ 15 trở lên phải biết chữ
với trình độ cấp II hay cao hơn chiếm trên 85%; trẻ em trong độ tuổi đi học phải được
đi học; khu vực trọng điểm phải có trường cấp II, có trạm tập huấn và dạy nghề, có
trạm thí nghiệm và thực nghiệm ở những nơi có điều kiện.
- Có trạm y tế và bệnh viện nhỏ cỡ 12-15 giường.
- Có cơ hội để trao đội mua-bán hàng hóa và các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ
trong khu vực trọng điểm.
- Có hơn 75% số bản thực hiện ba sách.
- Có đường ô tô đi lại được hai mùa tới các bản trong khu vực
trọng điểm.
- Bản phải được dùng điện ở những nơi có đủ điều kiện có nguồn điện.
- Có văn phòng và có ban chỉ đạo trọng điểm thường trực ở cụm trọng điểm
làm thường xuyên.
Việc đưa ra các khái niệm nghèo cả về định tính và định lượng nhằm phân định
mức độ nghèo và tìm ra giải pháp giảm nghèo. Tuy nhiên trong xã hội chúng ta thường
hay gặp các khái niệm như đói nghèo; nghèo khổ; giàu nghèo và phân hóa giàu nghèo...
Các khái niệm nêu trên là cách tiếp cận khác nhau về đói nghèo.
Từ quan niệm về đói nghèo chúng ta nhìn nhận và đánh giá đầy đủ hơn về đói
nghèo. Việc đánh giá đói nghèo chỉ có trong phạm vi nhất định với một không gian và
thời gian nhất định như xét đói nghèo trong phạm vi một nước, một vùng, miền và
trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Nó không phải là chuẩn mực chung nhất, có tính
tuyệt đối cho tất cả các quốc gia trong tất cả các giai đoạn lịch sử. Khi các điều kiện
trên thay đổi thì khái niệm về đói nghèo cũng có sự thay đổi. Bởi vì tác động của quy
luật phát triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, về chế độ chính
trị giữa các quốc gia, nên sự giàu nghèo giữa các quốc gia, các khu vực, các nhóm dân
cư ở các giai đoạn lịch sử có sự khác nhau.
Tóm lại, đói nghèo là tình trang bị thiếu thốn ở nhiều phương diện như: thu nhập
hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng những lúc khó
khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến, ít được tham gia vào quá trình ra quyết
định... Qua nghiên cứu, chúng ta nhận thấy đói nghèo có nguồn gốc căn nguyên từ kinh tế;
nhưng với tư cách là hiện tượng tồn tại phổ biến ở các quốc gia trong tiến trình phát triển,
đói nghèo thực chất là hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, chứ không thuần túy chỉ là vấn
đề kinh tế cho dù các tiêu chí về kinh tế. Vì vậy, khi nghiên cứu những tác động ảnh
hưởng đến thực trạng, xu hướng, cách thức giải quyết vấn đề đói nghèo cần phải đánh giá
những tác động của nhân tố chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng có như vậy mới
đề ra được các giải pháp đồng bộ cho công tác xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn nước
CHDCND Lào.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo
1.1.2.1. Các yếu tố tự nhiên
Các nhân tố về tự nhiên có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến quá trình hình
thành và tồn tại của đói nghèo trong mỗi vùng, mỗi quốc gia thường bao gồm các nhân tố
sau: Vị trí địa lý, đất đai địa hình, khí hậu thời tiết.
- Về vị trí địa lý:
Đây là nhân tố có vai trò rất quan trọng tác động đến sự phát triển kinh tế của
vùng và của các quốc gia. Bởi nguyên nhân cơ bản nhất của nghèo đói là xuất phát từ
nguyên nhân kinh tế. Nếu một vùng hay một quốc gia có vị trí địa lý thuận lợi về giao
thông đường thủy, đường bộ, đường không hoặc nằm trong khu vực kinh tế năng động
phát triển thì vùng đó, quốc gia đó sẽ có điều kiện để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh
tế, cải thiện đời sống của mọi tầng lớp trong xã hội. Trong thời đại ngày nay, thời đại
phát triển kinh tế toàn cầu, thì nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới có mối liên hệ
rằng buộc và đan xen nhau chặt chẽ. Tuy nhiên đây không phải là nhân tố quyết định
mà nó còn phụ thuộc vào các chính sách, vào nhận thức của từng quốc gia và có thể
khắc phục được.
- Về đất đai địa hình:
Đất đai là một nhân tố cực kỳ quan trọng trong quá trình sản xuất của cải vật
chất của xã hội. Nó là tiền đề ban đầu cho mọi quá trình sản xuất. Trong sản xuất nông
nghiệp, tác động của yếu tố đất đai rất rõ ràng. Nếu sản xuất nông nghiệp mà đất đai
cằn cỗi, hoặc không đủ đáp ứng cho nhu cầu của con người về sản xuất ra các sản phẩm
thì sẽ dẫn đến khó khăn về lương thực và nghèo đói là vấn đề gần như hiển nhiên. Một
vùng hay một quốc gia mà yếu tố đất đai bị bó hẹp về diện tích và độ mầu mỡ thì rất
khó khăn trong việc phát triển nông nghiệp. Đi đôi với yếu tố đất đai thì yếu tố địa hình
cũng có tác động đến sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu địa hình thuận lợi tức là không
bị chia cắt xé nhỏ và phức tạp thì thuận lợi cho sản xuất, cho giao lưu hàng hoá, ngược
lại thì nó cản trở việc mở rộng quy mô đầu tư và giao lưu giữa các vùng, cản trở việc
đầu tư cho giáo dục và y tế cũng như việc bảo vệ an ninh quốc phòng.
- Về khí hậu thời tiết:
Đây là nhân tố cũng có tác động rất lớn đến quá trình sản xuất, đến sự hình
thành nghèo đói của vùng hay của một quốc gia, một khu vực. Bởi thời tiết, khí hậu
thuận lợi sẽ tác động tích cực đến sản xuất, đời sống nhất là trong nông nghiệp, làm cho
cây trồng, vật nuôi phát triển, năng suất cao hơn, thuận lợi cho đầu tư phát triển các
ngành kinh tế. Việc giao lưu hàng hoá giữa các vùng cũng dễ dàng thuận lợi. Ngược lại
nếu thời tiết, khí hậu diễn biến phức tạp như nắng lắm, mưa nhiều, biên độ nóng, lạnh
quá lớn; hoặc xảy ra động đất núi lửa bão lụt, hạn hán... thì sẽ làm tổn thất về người và
tài sản, huỷ hoại môi trường sinh thái... Nó dễ dẫn đến sự nghèo đói là điều khó có thể
tránh khỏi. Do đó, trong các giải pháp xoá đói giảm nghèo cũng phải tính đến yếu tố
này.
1.1.2.2. Các yếu tố xã hội
Các yếu tố xã hội cũng có nhiều tác động đến quá trình hình thành đói nghèo
như: Dân số và lao động, thành phần dân tộc, trình độ lao động và phong tục tập quán
v.v...
- Về dân số và lao động:
Đây là nhân tố thường xuyên liên quan đến nghèo đói trong một vùng hay
trong một quốc gia. Bởi dân số và lao động vừa là chủ thể nhưng cũng vừa là đối tượng
của nghèo đói. Nó có tác động tích cực và tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế-xã
hội. Nếu dân số và lao động hài hoà hợp lý trong một vùng hay trong một quốc gia thì
nó sẽ có tác dụng kích thích sản xuất phát triển, giải quyết được các nhu cầu cần thiết
của cuộc sống con người. Ngược lại nếu dân số và lao động bất hợp lý thì nó sẽ cản trở
sản xuất, cản trở việc phát triển kinh tế làm nảy sinh và hình thành nghèo đói trong xã
hội. Vậy, sự bất hợp lý đó là dân số quá cao so với các yếu tố liên quan đến đời sống, đến
sản xuất như đất đai, nhà cửa, mức sinh hoạt trường học, y tế và các yếu tố cơ sở vật chất
kỹ thuật khác; hay tỷ lệ lao động quá thấp so với dân số do không hạn chế sinh đẻ hay do
hiện tượng “già hoá” v.v...
- Về thành phần dân tộc, trình độ dân trí và phong tục tập quán:
Các yếu tố này trong một vùng hay trong một quốc gia thường liên quan hữu
cơ với nhau, có tác động tương hỗ thúc đẩy lẫn nhau đến quá trình phát triển kinh tế xã hội. Nếu trong một quốc gia có nhiều thành phần dân tộc sẽ có nhiều phong tục tập
quán khác nhau và trình độ dân trí hay trình độ lao động của dân cư cũng khác nhau.
Do đó, nó cũng có yếu tố vừa tích cực vừa tiêu cực cho quá trình phát triển kinh tế - xã
hội. Nó vừa đa dạng phong phú về kinh nghiệm, về đa dạng các sản phẩm nhưng nó
cũng cản trở đến sản xuất, đó là sự không đồng đều về nhận thức về trình độ lao động
và sự khác nhau về phong tục tập quán, do đó khó khăn trong việc hình thành các chính
sách về kinh tế - xã hội cho phù hợp với điều kiện riêng của các vùng, miền khác nhau
để hạn chế sự đói nghèo.
1.1.2.3. Các yếu tố kinh tế
Các yếu tố về điều kiện tự nhiên là yếu tố khách quan ban đầu cho phát triển
kinh tế, thì các yếu tố về kinh tế là yếu tố nền tảng có vai trò quan trọng quyết định đến
xoá đói giảm nghèo.
- Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật:
Đây cũng là nhân tố tác động trực tiếp đến sự đói nghèo. Nếu một vùng hay
một quốc gia mà các yếu tố về vật chất kỹ thuật thấp kém sẽ hạn chế rất nhiều đến sự
phát triển kinh tế. Vùng đó quốc gia đó khó có thể đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu
của con người, như ăn, ở, mặc, đi lại, giao tiếp... Do đó, nghèo đói là một sự đương
nhiên. Cơ sở vật chất kỹ thuật là cơ sở là sức mạnh của một quốc gia, nó là điều kiện
quan trọng trong công tác xoá đói giảm nghèo.
- Cơ chế chính sách của nhà nước về kinh tế - xã hội:
Đây là một tiền đề quan trọng trong việc xoá đói giảm nghèo. Nếu có đồng bộ
các chính sách và phù hợp với điều kiện khả năng của mỗi vùng trong một quốc gia nó
sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách đồng bộ hạn chế việc chỉ thiên về mặt kinh
tế hoặc chỉ thiên về mặt xã hội thì khó có giải pháp xoá đói giảm nghèo một cách toàn
diện, bền vững hoặc có xoá đói giảm nghèo thì chỉ được cho một vài bộ, phận, và mang
tính không bền vững, khả năng tái nghèo đói cao.
Trong mỗi giai đoạn và mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước Lào đều có
những chủ trương chính sách phù hợp với tình hình cụ thể để đạt được mục tiêu nhất định.
Xoá đói giảm nghèo là một chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là sự kết
hợp thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển của CHDCND Lào.
Thực tế trong những năm qua cho dù mức đầu tư cho miền núi nói chung và
vùng sâu, vùng xa ở tỉnh Hủa Phăn nói riêng còn thấp về mặt lượng, kéo dài về thời
gian, nhưng đã chứng minh rằng cùng đầu tư như nhau, nhưng ở địa phương nào có mặt
bằng dân trí tốt hơn, bản thân các hộ nông dân tiếp cận nhiều hơn với thị trường và xã
hội, thì ở đó thực sự đời sống được cải thiện nhanh hơn. Sự đầu tư của Nhà nước thông
qua chính sách kinh tế, các chương trình quốc gia thực sự là “cú hích”, “bà đỡ” từng
bước xoá đói giảm nghèo.
Ngoài những nhân tố cơ bản nên trên đói nghèo còn có những nhân tố khác ảnh
hưởng đến đói nghèo như: bệnh dịch, chiến tranh (hậu quả chiến tranh để lại)... sự ảnh
hưởng của từng nhân tố còn tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng
vùng, từng bản khác nhau. Song giữa các nhân tố luôn là một sự hoà quyện gắn bó tác
động đến đói nghèo.
Xoá đói giảm nghèo còn là sự thống nhất trong mục tiêu chung của chính sách
kinh tế và chính sách xã hội. Mục tiêu kinh tế là tăng trưởng kinh tế, hiệu quả kinh tế,
tăng GDP, còn mục tiêu xã hội là ổn định an toàn xã hội, nâng cao chất lượng cuốc
sống. Giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội lai có điểm chung là nhằm phát triển đất
nước.
Do đó, mọi chính sách kinh tế và xã hội đều phải hướng vào mục tiêu trung
tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con người, đảm bảo công bằng về quyền
lợi và nghĩa vụ của công dân. Cả chính sách kinh tế và chính sách xã hội đều hướng
vào mục tiêu phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Phát triển kinh
tế thị trường phải theo quy luật của thị trường, Đảng và Nhà nước Lào coi đó là phương
tiện để thực hiện nhanh chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Lào.
Mặt khác, khi nói đến tiến bộ xã hội là đề cập đến chất lượng của xã hội đó.
Điều này lại lệ thuộc vào chế độ xã hội hay là thể chế chính trị của mỗi quốc gia. Tính
ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước Lào là vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế vừa
đảm bảo cả công bằng xã hội, giải quyết được xoá đói giảm nghèo, đạt được sự tiến bộ
xã hội đúng với khái niệm của nó là phục vụ cho phát triển con người. Chính vì vậy,
Đảng và Nhà nước Lào đã sớm có chính sách đổi mới kinh tế, từ nền kinh tế sản xuất
theo cơ chế quan liêu bao cấp chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Như trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá V tại Đại hội VII đã quán triệt quan điểm về xây dựng kinh tế
theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là: Lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm
xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh
tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
1.2. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hủa Phăn nước cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào
Như chúng ta đã biết đói nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà còn
là vấn đề chính trị - xã hội và là một trong những nội dung cơ bản trong phát triển kinh
tế bền vững ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Giải quyết tình trạng
đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội vừa cơ bản, lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp
bách nhằm bảo đảm phát tiễn kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, kể từ khi bắt đầu đổi mới (năm 1986) mở cửa
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian qua đã mang lại
những thành công rực rỡ, đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và
bước vào giai đoạn phát triển mới, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên
cạnh những thành công đó làm cho nền kinh tế đã dần đi vào ổn định và từng bước được
phát triển vững chắc, cuộc sống của đại đa số nhân dân được cải thiện, nâng lên cả về vật
chất và tinh thần. Tuy nhiên, trên thực tế tỷ lệ nghèo đói ở CHDCND Lào vẫn còn rất cao.
Năm 2006 tỷ lệ nghèo đói ở Lào là 38%, trong đó tỷ lệ nghèo đói ở nông thôn là 53%, ở
thành thị là 24%. Lào là một trong những nước xếp vào loại nghèo.
Tỉnh Hủa Phăn là một tỉnh đa dân tộc, mỗi dân tộc mang tín ngưỡng tôn giáo và
phong tục tập quán khác nhau, là một tỉnh còn nghèo, cơ sở hạ tầng còn yếu, có điểm
xuất phát thấp, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, tự cung tự cấp khép kín lạc hậu, đời
sống của đại bộ phận dân cư thấp, nhất là đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu
vùng xa còn hết sức khó khăn. Qua kiểm tra người nghèo của Tổng cục Thống kê nhà
nước với vốn tài trợ của Ngân hàng Phát triển châu á (theo chuẩn nghèo của Chính phủ
quy định năm 2000), tỷ lệ nghèo năm 2000 chiếm 74%; đến năm 2005 chiếm 53% của
tổng số hộ nghèo cả tỉnh. Đến năm 2007, còn có 5 huyện nghèo trong 8 huyện cả tỉnh
chiếm 62,5%; bản nghèo còn 486 bản trong 744 bản chiếm 65,32%, tổng số bản toàn tỉnh
có số hộ nghèo còn 22.327 hộ trong 43.964 hộ chiếm 50,78% tổng số hộ gia đình toàn
tỉnh [24, tr.27].
Từ Đại hội lần thứ VI (1996) đến Đại hội VII (2001) Đảng đề ra chủ trương
xoá đói giảm nghèo trong 5 năm tới, phát triển nông thôn phải kết hợp đồng bộ và có
trọng điểm. Việc phát triển nông thôn gắn liền với việc xoá đói giảm nghèo, chấm dứt
việc phát rẫy làm nương và chấm dứt việc trồng thuốc phiện - cần sa. Do vậy, từng địa
phương phải tiếp tục vận động xây dựng cơ sở toàn diện, thực hiện chỉ tiêu, xây dựng
huyện thành đơn vị cơ sở. Tổ chức thực hiện một cách đồng bộ và quy hoạch khu vực
trọng điểm phát triển rõ ràng, dựa trên tiềm năng thế mạnh của từng khu vực.
Để hoàn thành chỉ tiêu về xoá đói giảm nghèo đó, trước hết chúng ta phải xác
định tiêu chí đói nghèo của nhân dân. Sau đó thu nhập số liệu về vấn đề đói nghèo của
từng hộ gia đình, từng bản. Chúng ta phải nghiên cứu xây dựng chiến lược xoá đói
giảm nghèo. Từ đó, mới xây dựng triển khai thành chương trình, dự án cấp Quốc gia để
xoá đói giảm nghèo, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ và có ngân sách riêng để
thực hiện chương trình (dự án) đó trong từng năm. Từng địa phương phải xây dựng dự
án xoá đói giảm nghèo cho địa phương mình, quy định thành khu vực trọng điểm để
giải quyết xoá đói giảm nghèo.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiếp tục quan tâm nhiều hơn
nữa tới vấn đề xoá đói giảm nghèo đã xác định: Tiếp tục xoá đói giảm nghèo trong 47
huyện nghèo đói là trọng điểm theo kế hoạch đề ra để phát triển và xây dựng dự án phát
triển cụm bản, khắc phục và xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích dịch vụ giáo dục và y
tế cho hộ nghèo, khuyến khích vốn đầu tư cấp bản, đồng thời gắn liền với sản xuất hàng
hoá truyền thống của nhân dân trên cơ sở vốn đầu tư về kinh tế 7,5-8% và thực hiện
chương trình xoá đói giảm nghèo xuống còn 15% so với năm 2000 [40, tr.123].
Quá trình thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo ở CHDCND Lào nói chung
và ở tỉnh Hủa Phăn nói riêng. Mặc dù đã có những tiến bộ nhưng tại các tỉnh miền núi,
vùng sâu, vùng xa vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thiếu tính đồng bộ, thống nhất cả về
nhận thức và hành động, chưa tìm ra những giải pháp thiết thực phù hợp với đặc điểm
tình hình của các vùng dân tộc. Thực trạng đói nghèo ở Hủa Phăn đang là một vấn đề
bức xúc cần được quan tâm giải quyết.
Công tác xoá đói giảm nghèo là cần thiết bởi những nội dung cơ bản sau:
Một là, vấn đề xoá đói giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước. Công việc xoá đói giảm nghèo là yếu tố căn bản để
đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững, ngược lại chỉ có tăng
trưởng kinh tế cao, bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho
người nghèo tự vươn lên thoát khỏi sự nghèo đói.
Hai là, xoá đói giảm nghèo không phải là công việc trước mắt mà còn là
nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo, phấn đấu xây dựng một
xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh. Xoá đói giảm nghèo không phải
là sự phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng
tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát khỏi nghèo. Xoá đói giảm nghèo không đơn
thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có
nhiều khó khăn mà là còn là nhân tố quan trọng tạo ra mặt bằng tương đối đồng đều
cho phát triển, tạo thêm lực lượng sản xuất và đảm bảo sự ổn định của đất nước.
Ba là, xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở của tăng trưởng kinh tế trên diện
rộng với chất lượng cao và bền vững, tạo ra những cơ hội thuận lợi để người nghèo và
cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh và hưởng thụ
từ những thành quả của tăng trưởng kinh tế. Chính sách xoá đói giảm nghèo là một bộ
phận cấu thành quan trọng của hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Xoá đói giảm nghèo được đặt trong một bộ phận của chiến lược 10 năm; kế
hoạch 5 năm về phát triển kinh tế - xã hội từ trung ương đến cơ sở. Xoá đói giảm
nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước mà của cả toàn xã hội, của mọi tổ
chức đoàn thể chính trị - xã hội, của mọi thành phần kinh tế và tranh thủ các nguồn lực
quốc tế mà trước hết bản thân chính người nghèo phải tự vươn lên để thoát nghèo. Xoá
đói giảm nghèo không chỉ nhằm vào những người nghèo mà còn nhằm vào cả tầng lớp
người giàu có, tạo ra một nhóm giàu hợp thức giàu trước, từ đó tạo ra những động lực
mạnh mẽ để có thể thúc đẩy, hỗ trợ người nghèo; nhóm xã hội nghèo thoát nghèo. Xoá
đói giảm nghèo là một quá trình lâu dài và có tính lịch sử cụ thể, được tiến hành từng
bước, có lộ trình và có trọng tâm trọng điểm. Bởi lẽ, nghèo đói là một vấn đề xã hội
mang tính cơ cấu của mọi xã hội. Như vậy, tiến trình xoá đói giảm nghèo đòi hỏi phải
có sự kiên trì, có tầm nhìn chiến lược và cần tránh nôn nóng hoặc tiến hành theo kiểu
phong trào. Cần phải đặt ra chỉ tiêu có tính khả thi để thực hiện từng bước.
1.3. Kinh nghiệm Việt Nam và một số tỉnh ở Lào trong xoá đói giảm nghèo
1.3.1. Kinh nghiệm của Việt Nam
Việt Nam cũng là một nước rất thành công về xoá đói giảm nghèo trong hai thập
kỷ gần đây. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, Việt Nam đã giảm được tỷ lệ nghèo từ
- Xem thêm -