Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận v...

Tài liệu Xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

.DOC
47
1
93

Mô tả:

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. CHỦ THỂ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM................................................. 6 1.1. Quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự về chủ thể có quyền xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm................................................................................... 6 1.2. Thực tiễn áp dụng quy định về chủ thể có quyền xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm................................................................................................. 15 1.3. Nguyên nhân của những hạn chế và giải pháp hoàn thiện quy định Pháp luật về chủ thể có quyền xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.....................20 1.3.1. Nguyên nhân........................................................................................ 20 1.3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Tố tụng hình sự về chủ thể có quyền xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm......................................... 21 Kết luận chƣơng 1................................................................................................ 23 CHƢƠNG 2. TRÌNH TỰ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM............................................... 25 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm................................................................................................. 25 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm................................................................................................................... 30 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.................................... 33 2.3.1. Nguyên nhân........................................................................................ 33 2.3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Tố tụng hình sự về trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm......................................................... 34 Kết luận chƣơng 2................................................................................................ 39 KẾT LUẬN............................................................................................................ 42 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Xét hỏi là thủ tục quan trọng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đây là một “phiên điều tra công khai” nhằm kiểm tra cũng như thu thập chứng cứ, làm cơ sở cho hoạt động tranh luận liền ngay sau đó cũng như làm căn cứ cho việc kết án của Tòa án có thẩm quyền. Ngày 02 tháng 01 năm 2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08NQ/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, trong đó có đoạn nói: “Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người có quyền lợi, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy 1 định...” . Tiếp đến, ngày 02 tháng 6 năm 2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đề ra những nhiệm vụ và phương hướng mới trong công tác cải cách tư pháp với mục tiêu đề ra là “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu 2 quả và hiệu lực cao” . Bên cạnh đó Nghị quyết cũng đề cập “đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là 3 khâu đột phá của hoạt động tư pháp” . Pháp luật tố tụng hình sự đã trải qua 3 lần pháp điển hóa, 3 bộ luật ở 3 thời kỳ đã quy định khá rõ những nội dung có liên quan đến thủ tục xét hỏi. Nhằm thực hiện yêu cầu của Bộ chính trị về cải cách tư pháp, các bộ luật Tố tụng hình sự, đặc biệt là Bộ luật Tố tụng hình sự được ban hành năm 2015 đã có những nội dung mới về chủ thể có quyền hỏi cũng như trình tự xét hỏi tại phiên tòa, đáp ứng phần nào yêu cầu của tình hình xã hội mới cũng như yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp mà Bộ chính trị đã xác định từ năm 2005. Tuy nhiên, từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có 1Bộ Chính trị, Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp 2 Bộ Chính trị, Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 3 Bộ Chính trị, Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 2 hiệu lực cho đến nay, bằng kiểm nghiệm thực tiễn cho thấy rằng, có một số nội dung liên quan đến hai vấn đề trên đã bộc lộ những điểm chưa hợp lý. Hội đồng xét xử trở thành người xét hỏi chính, người “bảo vệ” bản cáo trạng thay cho Kiểm sát viên trong khi vai trò của Hội đồng xét xử phải là “trọng tài” lắng nghe, điều khiển và kết án; ngược lại, Kiểm sát viên lẽ ra phải thật sự tích cực, chủ động xét hỏi thì lại “ỷ lại” và thành viên Hội đồng xét xử; bị cáo có quyền đặt câu hỏi nhưng phải có sự đồng ý của Chủ tọa phiên tòa; ngược lại, bị hại, đương sự lại không được quyền đặt câu hỏi trong mọi trường hợp. Những hạn chế trong thực tiễn này một phần xuất phát từ chính những quy định của pháp luật hiện hành. Vì vậy, để tăng cường và phát huy triệt để chức năng, vai trò của các chủ thể khi thực hiện hoạt động xét hỏi cũng như để tăng cường hơn nữa tính tranh tụng trong xét xử, một số nội dung trong quy định của pháp luật Tố tụng về hai vấn đề trên cần phải được thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp. Để có thể hiểu rõ hơn những quy định của pháp luật cũng như khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định về chủ thể xét hỏi và trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, từ đó có những kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật cũng như đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét hỏi tại phiên tòa, tác giả đã chọn đề tài “Chủ thể và trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Theo nghiên cứu của học viên, liên quan đến đề tài xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các phạm vi, góc độ khác nhau như: Luận án tiến sỹ luật học: “Thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Kiện năm 2016; Tác giả Nguyễn Ngọc Kiện đã nghiên cứu thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là vai trò trọng tâm trong quá trình tranh tụng. Những kiến thức lý luận và thực tiễn về xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa được cung cấp đầy đủ. Tuy nhiên, vì phạm vi nghiên cứu rộng nên có một số nội dung tác giả phân tích chưa sâu: ví dụ như vai trò của Hội thẩm trong hoạt động xét hỏi, hay nội dung liên quan đến phần xét hỏi chưa được tập trung nhiều như nội dung liên quan đến phần tranh luận. Luận văn thạc sỹ có: “Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” của tác giả Đỗ Văn Thinh năm 2006, tác giả Đỗ Văn Thinh nghiên cứu tổng hợp tất cả những vấn đề liên quan 3 đến thủ tục xét hỏi nhưng đề tài được thực hiện năm 2006 nên hiện nay có nhiều nội dung không còn phù hợp. “Trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Đặng Anh Việt năm 2017. Vì đề tài theo định hướng ứng dụng nên tác giả chỉ giải quyết 2 vấn đề chính là trình tự xét hỏi của Hội đồng xét xử; và trình tự xét hỏi của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng mà cụ thể là người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. “Xét hỏi của Kiển sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Hà Ngọc Châu, năm 2018. Tác giả Trần Hà Ngọc Châu tập trung nghiên cứu những quy định về hoạt động xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đồng thời khảo sát việc áp dụng các quy định này tại chính Viện Kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, Tp Hồ Chí Minh. Tác giả cũng đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng xét hỏi của Kiểm sát viên tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm. “Trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Quốc Hùng năm 2020. Tác giả nghiên cứu một cách chuyên sâu các vấn đề lý luận có liên quan đến trình xét hỏi tại phiên tòa; việc khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng cũng được tiến hành một cách khá toàn diện trên phạm vi cả nước. “Xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của Phạm Tiểu Thơ năm 2020. Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng về hoạt động xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm. Nội dung luận văn phù hợp với phạm vi nghiên cứu, thực tiễn tác giả khảo sát trong phạm vi 2 tỉnh là Tiền Giang và Đồng Nai. “Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” (2019) của tác giả Trương Thị Thu Hải. Tác giả tập trung phân tích những vấn đề pháp lý cũng như thực tiễn hoạt động xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm. Luận văn tập trung vào trình tự và nội dung xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm. Khóa luận tốt nghiệp có: “Hoàn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Dung năm 2013; “Hoàn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Chu Thị Hảo năm 2012; “Xét hỏi và nâng cao tính tranh tụng trong trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án” của tác giả Cao Thị Mi Sa, năm 2009. Những khóa 4 luận này đều được thực hiện trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được ban hành nên ít nhiều nội dung có những chỗ không còn phù hợp với hiện nay. Bài viết chuyên ngành có: “Về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” của tác giả Lê Thị Thúy Nga, đăng trên Tạp chí Luật học số 07 năm 2008; Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xét hỏi và tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự” của TS. Nguyễn Chí Dũng; “Những vấn đề Kiểm sát viên cần lưu ý trong xét hỏi, công bố tài liệu chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa hình sự” của tác giả Lê Xuân Quang, đăng trên Tạp chí Kiểm sát năm 2021. “Bảo đảm quyền của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở thủ tục xét hỏi” của tác giả Võ Quốc Tuấn trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22 (326) T11/2016; “Một số ý kiến đối với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” của tác giả Hồ Nguyễn Quân-Tòa án quân sự Khu 4 vực 1 Quân khu 4 trên trang thông tin điện tử của trường Đại học kiểm sát Hà Nội . Những bài viết này phân tích các quy định của pháp luật về một khía cạnh nào đó của thủ tục xét hỏi, đồng thời có đề cập đến thực tiễn xét hỏi; một số bài viết tập trung vào kỹ năng xét hỏi của từng chủ thể như Thẩm phán, Kiểm sát viên, Người bào chữa để nâng cao chất lượng xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã kế thừa những kiến thức, kinh nghiệm của một số Luận án, Luận văn và các bài viết nêu trên. Bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra và giải quyết những vấn đề còn chưa phù hợp trong quy định của pháp luật mà các công trình nghiên cứu trên chưa đề cập đến từ đó đưa ra kiến nghị, đề xuất để đóng góp một phần trong công tác hoàn thiện pháp luật nói chung và quy định về chủ thể có quyền xét hỏi và trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: tác giả mong muốn đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về chủ thể và trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Đồng thời đề xuất những giải pháp mang tính thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét hỏi của các chủ thể tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Nhiệm vụ: để đạt được mục đích đã nêu trên thì luận văn có nhiệm vụ phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chủ thể và trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện hoạt động xét hỏi của của các chủ thể trong thời gian qua, chỉ ra những vướng mắc, bất cập, 4Hồ Nguyễn Quân, “Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp”, http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/742, truy cập ngày 01/6/2021; 5 trong đó xác định rõ các nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó; từ đó, đề xuất, kiến nghị các giải pháp để hoàn thiện pháp luật cũng như những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét hỏi. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động chủ thể có quyền xét hỏi và trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: học viên nghiên cứu các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về 2 vấn đề là chủ thể có quyền xét hỏi và trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Phạm vi không gian: Luận văn khảo sát kết quả thực hiện hoạt động xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong phạm vi cả nước. Phạm vi thời gian: Luận văn khảo sát kết quả thực hiện hoạt động xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong vòng 5 năm (2016 – 2021) 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện luận văn, học viên áp dụng phương pháp phân tích luật để phân tích, đánh giá các quy định của BLTTHS; Ngoài ra trong luận văn học viên còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông thường như phương pháp so sánh, nghiên cứu vụ án điển hình, thống kê, tổng hợp để hoàn thành luận văn của mình. 6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả nghiên cứu của đề tài Dự kiến kết quả nghiên cứu: Đề tài góp phần hoàn thiện nội dung Điều 307, Điều 309, Điều 310, Điều 311 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Địa chỉ ứng dụng: Kết quả nghiên cứu của tác giả đóng góp cho quá trình xây dựng pháp luật Tố tụng hình sự về vấn đề chủ thể và trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Ngoài ra, luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong các trường đại học, các cơ sở đào tạo pháp luật 7. Bố cục luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 2 chương với cơ cấu như sau: Chƣơng 1. Chủ thể xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam Chƣơng 2. Trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam 6 CHƢƠNG 1 CHỦ THỂ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự về chủ thể có quyền xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm Xét hỏi là một khâu quan trọng của quá trình xét xử tại phiên tòa, đây được xem như là một cuộc điều tra công khai được thực hiện qua việc xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Hệ thống chứng cứ đã được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập từ trước sẽ được kiểm tra, đánh giá một cách công khai, toàn diện thông qua việc đặt câu hỏi và trả lời của các chủ thể có liên quan, đồng thời có thể thu thập thêm những chứng cứ mới thông qua hoạt động này. Cùng với hoạt động tranh luận, kết quả của hoạt động xét hỏi sẽ giúp Hội đồng xét xử xác định được căn cứ để có thể tuyên một bản án đúng người đúng tội đúng pháp luật. Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông thì “xét” là tìm hiểu, cân nhắc để nhận biết, đánh giá, kết luận về cái gì đó; còn “hỏi” là nói ra 5 những điều mình muốn người ta cho mình biết với yêu cầu trả lời . Cũng theo Từ điển Tiếng Việt thì “xét hỏi” là “nhà chức trách hỏi kĩ để phát 6 hiện hành vi phạm pháp hoặc tìm hiểu sự thật về một vụ án” . Với nghĩa của Từ điển cho thấy hoạt động xét hỏi được thực hiện bởi “nhà chức trách” tức chủ thể có thẩm quyền, việc hỏi lúc này không đơn thuần là hỏi mà là “hỏi kỹ”, hỏi tường tận để phát hiện và xác định sự thật. Dưới góc độ pháp lý, hiện nay Bộ luật Tố tụng hình sự (sau đây gọi là BLTTHS) hay văn bản hướng dẫn không nêu rõ khái niệm này, tuy nhiên từ những quy định của BLTTHS về thủ tục xét hỏi từ Điều 306 đến Điều 318, tác giả xin đưa ra 1 khái niệm như sau: “Xét hỏi là hoạt động được thực hiện trong quá trình xét xử vụ án hình sự. Trong đó các chủ thể mà pháp luật cho phép, theo đúng trình tự sẽ đặt câu hỏi và bị cáo, những người tham gia tố tụng khác sẽ trả lời về những vấn đề có liên quan đến vụ án nhằm xem xét, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho việc tuyên án của Tòa án có thẩm quyền”. 5 Viện Ngôn ngữ học (2002), “Từ điển Tiếng Việt phổ thông”, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr 1058; 6 Trung tâm Từ điển học (2009), “Từ điển Tiếng Việt”, Nxb Đà Nẵng, tr. 1462; 7 Như vậy, có thể thấy rằng, thủ tục xét hỏi là một thủ tục mang đầy đủ những đặc điểm sau: - Xét hỏi là một hoạt động được tiến hành tại phiên toà xét xử vụ án hình sự. Phiên tòa này có thể là phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, thậm chí Giám đốc thẩm, Tái thẩm tùy vào trường hợp hội đồng Giám đốc thẩm, Tái thẩm có triệu tập những người tham gia tố tụng có liên quan hay không. - Xét hỏi là một hoạt động được thực hiện theo trình tự thủ tục do BLTTHS quy định. Đây được xem như là một “phiên điều tra công khai”, là cách thức để có thể thu thập cũng như đánh giá chứng cứ, do đó, sự chặt chẽ trong trình tự là điều phải đảm bảo. Hiện nay, BLTTHS 2015 đã quy định rất cụ thể trình tự cũng như các hoạt động cần làm khi tiến hành hoạt động xét hỏi tại tòa cũng như trách nhiệm của những chủ thể tham gia hoạt động xét hỏi phải tuân thủ theo. - Xét hỏi là một hoạt động được thực hiện bởi những chủ thể mà pháp luật đã ghi nhận. Đây có thể là người tiến hành tố tụng - những chủ thể có trách nhiệm làm sáng tỏ những tính tiết có liên quan đến vụ án hình sự như Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, hoặc cũng có thể là người tham gia tố tụng - những chủ thể góp phần vào việc xác định sự thật vụ án hoặc người tham gia để bảo vệ quyền lợi ích cho những người tham gia tố tụng khác như Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, người giám định, người định giá tài sản, bị cáo. Hoạt động xét hỏi được điều hành bởi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, các chủ thể còn lại sẽ tuân thủ theo sự điều hành thống nhất đó. - Xét hỏi là hoạt động được thực hiện dưới phương thức chủ thể có thẩm quyền sẽ đặt câu hỏi, chủ thể được hỏi sẽ trả lời một cách trực tiếp, công khai. Thông qua đó hệ thống chứng cứ sẽ được kiểm tra, đánh giá một cách trực tiếp, công khai, toàn diện, đồng thời có thể phát hiện thêm những tình tiết mới liên quan đến vụ án hình sự, giúp Tòa án có căn cứ để thực hiện hoạt động xét xử cũng như tuyên án. Như vậy, một trong những đặc điểm nổi bật của thủ tục xét hỏi đó chính là được thực hiện bởi những chủ thể được pháp luật TTHS ghi nhận, đây có thể là người tiến hành tố tụng cũng có thể là người tham gia tố tụng. Vậy chủ thể có quyền thực hiện hoạt động xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là chủ thể nào. Trước khi có BLTTHS 1988, thủ tục xét hỏi nói chung và chủ thể tiến hành hoạt động xét hỏi nói riêng được ghi nhận một cách rải rác ở nhiều văn bản tùy vào thời kỳ. 8 Sau khi có BLTTHS đầu tiên ra đời năm 1988, vấn đề chủ thể có quyền xét hỏi được quy định cụ thể và thống nhất trong bộ luật. BLTTHS 1988 đã dành chương XIX, từ Điều 180 đến Điều 190 để quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa. Theo đó, tại Điều 181 quy định 1. Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. 2. Khi xét hỏi từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các Hội thẩm nhân dân, sau đó đến Kiểm sát viên, Người bào chữa. Những người tham gia phiên toà cũng có quyền đề nghị với chủ toạ phiên toà hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng 7 tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định . Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, người hỏi bao gồm Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân, Kiểm Sát viên, Người bào chữa, Người giám định. Người tham gia phiên tòa không có quyền hỏi nhưng có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những vấn đề cần làm sáng tỏ. So với việc quy định rải rác như trước đây, sự cụ thể, rõ ràng này đã là bước tiến mới. Tuy nhiên, trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hoặc có bị cáo bị đưa ra xét xử mà khung hình phạt lên đến tử hình, Hội đồng xét xử gồm 3 Thẩm phán và 2 Hội thẩm thì Thẩm phán không phải chủ tọa phiên tòa có được hỏi không? Thêm nữa, quyền hỏi của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự cũng chưa được ghi nhận bởi tư cách tố tụng này thời điểm đó chưa được ghi nhận. Đến BLTTHS 2003 được ban hành, các quy định về hoạt động xét hỏi, trong đó có quy định về chủ thể xét hỏi được quy định rõ ràng hơn. Theo quy định Khoản 2 Điều 207 BLTTHS 2003 thì chủ thể xét hỏi bao gồm hai nhóm: người tiến hành tố tụng là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm, Kiểm sát viên; người tham gia tố tụng là Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người giám định, những người tham gia phiên tòa khác cũng có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi những vấn đề, tình tiết cần làm sáng tỏ. Việc bổ sung thêm một số chủ thể như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hay thay đổi từ Hội thẩm nhân dân thành Hội thẩm là những thay đổi phù hợp. Tuy nhiên, với những quy định như trên, một số hạn chế đã từng tồn tại ở BLTTHS 1988 nay vẫn chưa được khắc phục: đó chính là vai trò của những Thẩm phán không phải là chủ tọa phiên tòa thì có quyền hỏi hay không. Thực tế cho thấy, bên cạnh Thẩm phán 7BLTTHS (1988), Điều 181 9 chủ tọa phiên tòa thì các Thẩm phán còn lại (Đối với hội đồng xét xử gồm 5 thành viên) vẫn tiến hành xét hỏi bình thường, tuy nhiên, sự thiếu sót trong kỷ thuật lập pháp là điều phải thừa nhận. Sau 12 năm thi hành, BLTTHS 2015 được ban hành vào ngày 27/11/2015 đã thay thế cho BLTTHS năm 2003. Bộ luật đã có những sửa đổi căn bản, toàn diện gồm 510 Điều, trong đó, bổ sung mới 176 Điều, sửa đổi 317 Điều, bãi bỏ 26 Điều. Bộ luật ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm quyền con người. Thủ tục xét hỏi cũng có những thay đổi đáng kể: thủ tục xét hỏi đã trở thành một phần trong thủ tục tranh tụng thay cho thủ tục thẩm vấn và tranh luận tách bạch trước đây; chủ thể tiến hành hỏi và trình tự hỏi cũng đã có những thay đổi để khắc phục một số hạn chế trước đây đã vướng phải. Về chủ thể có quyền xét hỏi, Điều 307 BLTTHS 2015 đã quy định “1. Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. 2. Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản.” Như vậy, có thể hiểu chủ thể có quyền xét hỏi cũng bao gồm 2 nhóm giống như trước đây: người tiến hành tố tụng là Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên; người tham gia tố tụng là Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người giám định, người định giá tài sản. Và những người tham gia tố tụng khác cũng có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Như vậy, quy định về chủ thể đã hoàn thiện hơn về kỹ thuật lập pháp, đó là đã xác định rõ thẩm quyền xét hỏi của chủ thể là Thẩm phán không phải là chủ tọa phiên tòa, đồng thời đã bổ sung chủ thể mới là người định giá tài sản. Điều này được giải thích là vì tư cách tố tụng này chỉ mới được chính thức ghi nhận trong 10 BLTTHS năm 2015. Các chủ thể này trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình sẽ phải thực hiện hoạt động xét hỏi để có thể làm sáng tỏ nội dung vụ án. Vai trò của từng chủ thể được thể hiện như sau: * Thành viên Hội đồng xét xử Điều 254 BLTTHS 2015 quy định 1. Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Và Điều 463 BLTTHS quy định “Phiên tòa xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành.” Như vậy, tùy vào từng trường hợp mà số lượng cũng như thành phần của Hội đồng xét xử sẽ khác nhau nhưng tất cả các thành viên của hội đồng xét xử đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện hoạt động xét hỏi. Khoản 1 Điều 307 BLTTHS quy định “Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người” Với quy định như trên cho thấy vai trò của Hội đồng xét xử là rất lớn trong việc thực hiện hoạt động này, Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội và từng người liên quan đến hành vi phạm tội. Điều này có vẻ hợp lý với một nước có mô hình tố tụng thẩm vấn (mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm) hoặc một nước có mô hình tố tụng pha trộn nhưng nghiên về tính thẩm vấn bởi trong hai mô hình tố tụng trên, hoạt động xét hỏi là hoạt động đặc trưng, xuyên suốt trong quá trình tố tụng và nó được biểu hiện tập trung nhất tại phiên tòa xét xử. Với Việt Nam hiện nay, mô hình tố tụng của chúng ta vẫn còn mang dấu ấn của mô hình tố tụng thẩm vấn nhưng các hạt nhân hợp lý của mô hình tranh tụng, đặc biệt là tính “đối đầu” giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong việc bảo vệ hệ thống chứng cứ do các bên tự thu thập cũng như vai trò trọng tài của Hội đồng xét xử ngày càng được ghi nhận và tăng cường thì theo tác giả quy định tại khoản 1 Điều 307 về trách nhiệm làm rõ các nội dung khi xét hỏi của Hội đồng xét xử ít nhiều không còn phù hợp. Không thể phủ nhận hoàn toàn hiệu quả hoạt động xét hỏi của Tòa án hay cụ thể hơn là của Hội đồng xét xử, bởi nó đạt được mục đích kiểm soát tội phạm tuy nhiên cần phải nhìn nhận đúng vị trí của Tòa án dựa trên mối quan hệ với các chức 11 năng tố tụng. Chức năng của tòa án là chức năng xét xử, chức năng này được thực hiện thông qua Hội đồng xét xử tại phiên tòa và với quy định như trên thì tác giả cho rằng dường như Hội đồng xét xử đang làm thay chức năng buộc tội của Viện kiểm sát. Bất cập này kéo dài từ khi có BLTTHS đầu tiên cho đến nay, tuy nhiên, ở 2 lần ban hành trước, có thể bối cảnh xã hội khác, tư duy cũng như nhận thức về mô hình tố tụng, sự tách bạch giữa các chức năng tố tụng chưa rõ ràng, quy định đó có thể phù hợp ở một chừng mực nào đó. Còn hiện nay, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, để có thể “đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại 8 các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” thì nội dung này cần phải có sự điều chỉnh cho phù hợp. *Kiểm sát viên Là chủ thể đại diện cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội tại phiên tòa, vì vậy Kiểm sát viên tham gia vào hoạt động xét hỏi là điều đương nhiên, mặc khác để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, vai trò của Kiểm sát viên trong hoạt động xét hỏi ngày càng được chú trọng hơn, “Tại phiên tòa, Kiểm sát viên chủ động xét hỏi, tranh luận làm rõ các tình tiết của vụ án...” 9 Chứng minh tội phạm và người phạm tội là trách nhiệm của Kiểm sát viên tại phiên tòa.Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải làm rõ những nội dung đã nêu trong bảng cáo trạng. Việc xét hỏi sẽ giúp Kiểm sát viên củng cố được chứng cứ để chứng minh cho những luận điểm, luận cứ của mình đồng thời thuyết phục Hội đồng xét xử cũng như những người tham gia phiên tòa . Để những đề xuất của mình có cơ sở, về nguyên tắc Kiểm sát viên sẽ hỏi toàn bộ những vấn đề liên quan đến vụ án, cả những tình tiết liên quan đến việc buộc tội, những tình tiết liên quan đến việc gỡ tội của bị cáo. Có quan điểm cho rằng việc hỏi về những tình tiết có tính chất gỡ tội là mâu thuẫn vì “Viện kiểm sát thực hành 10 quyền công tố thì không thể vừa buộc tội vừa bào chữa cho bị cáo” . Dưới góc độ chức năng tố tụng thì có thể quan điểm này hợp lý, tuy nhiên, vì trách nhiệm chứng minh, xác định sự thật vụ án là của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố 8 Bộ chính trị, Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 9 VKSNDTC, Chỉ thị số 09/CT-VKSTC, ngày 06/4/2016 về Tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa. 10 Nguyễn Quốc Hùng (2020), “Trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP.HCM, tr. 41. 12 tụng (Điều 15 BLTTHS 2015) mà sự thật các cơ quan này xác định phải “khách quan, toàn diện và đầy đủ”, do đó, việc tiến hành xét hỏi về những vấn đề có liên quan đến những tình tiết gỡ tội cũng như những tình tiết khác không phải là tình tiết buộc tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, theo quan điểm của tác giả là hợp lý. * Ngƣời bào chữa Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Người bào chữa có thể là Luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, Bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý. Sự có mặt của Người bào chữa tại phiên tòa là cách thức để thực hiện triệt để nguyên tắc “đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội” đồng thời, cũng là cơ chế để thực hiện nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Như vậy, có thể thấy rằng với yêu cầu ngày càng cao về việc đảm bảo tính tranh tụng trong xét xử thì vai trò của Người bào chữa ngày càng trở nên quan trọng. Tại phiên tòa, Người bào chữa tham gia vào hoạt động xét hỏi và tranh tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị cáo. Tại phiên tòa, “sứ mệnh” của Người bào chữa là đưa ra những luận chứng, luận cứ để có thể bác bỏ sự buộc tội từ phía cơ quan buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, vì vậy, trong thủ tục xét hỏi, Người bào chữa sẽ hỏi những người tham gia tố tụng (bị cáo, bị hại, người làm chứng, người giám định...) về những vấn đề liên quan đến việc gỡ tội. Những câu hỏi của Người bào chữa sẽ đặt tiền đề tốt cho hoạt động tranh tụng ngay sau đó. Mặc khác, Để bảo vệ quyền lợi cho bị cáo, Người bào chữa phải quan sát toàn bộ quá trình xét hỏi và thái độ của người hỏi đối với bị cáo để kịp thời ngăn chặn những câu hỏi không đúng trọng tâm, thiếu khách quan, ảnh hưởng đến đời tư, kịp thời đề nghị Hội đồng xét xử chấn chỉnh những chủ thể có thái độ không phù hợp với văn hóa pháp đình khi đặt câu hỏi cho thân chủ của mình. Ngoài ra, Người bào chữa có quyền xem xét tài liệu, vật chứng tại phiên tòa hoặc cùng Hội đồng xét xử xem xét tại chỗ nếu cần thiết và có quyền đưa ra nhận xét về tất cả các chứng cứ đó để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án và gỡ tội cho bị cáo, có quyền nhận xét về báo cáo, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 315), quyền nhận xét về kết luận giám định, được hỏi người giám định về những vấn đề chưa rõ (Điều 316).. 13 * Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, bị hại BLTTHS 1988 khi quy định về chủ thể có quyền xét hỏi không bao gồm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, bị hại vì thời điểm đó, tư cách này chưa được pháp luật thừa nhận. Đến BLTTHS 2003 và sau đó là BLTTHS 2015, tư cách này đã được ghi nhận một cách chính thức, vì vậy, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sẽ có sự tham gia của chủ thể trên nhằm hướng đến việc bảo vệ quyền, lợi ích của những người có liên quan cũng như góp phần vào việc xác định sự thật vụ án. Đương sự bao gồm “nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền, lợi ích liên quan” (Điều 4). Đương sự, bị hại khi tham gia tố tụng có quyền nhờ Luật sư; người đại diện hoặc bào chữa viên nhân dân tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình (Điều 84). Tại phiên tòa sơ thẩm, các chủ thể này sẽ được tham gia vào hoạt động xét hỏi dưới sự điều hành của chủ tọa phiên tòa để làm rõ những tình tiết liên quan đến những đối tượng mà họ đứng ra bảo vệ. Tùy vào đối tượng mà họ bảo vệ, các câu hỏi sẽ tập trung các vấn đề khác nhau. Bên cạnh việc trực tiếp đặt ra những câu hỏi, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bị hại cũng có quyền được xem xét tại chỗ hoặc quyền được nhận xét những báo cáo, kết luận của các cơ quan, tổ chức khác hay kết luận giám định như Người bào chữa tuy rằng không được quy định trực tiếp quyền này như Người bào chữa, tuy nhiên, thông qua vài trò của “người khác tham gia phiên tòa” như quy định tại Điều 314, Điều 315, Điều 316, họ vẫn có quyền thực hiện những hoạt động trên khi tham gia vào thủ tục xét hỏi. * Ngƣời giám định, ngƣời định giá tài sản. Người giám định là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực cần giám định, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu hoặc người tham gia tố tụng yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật (Điều 68 BLTTHS) Người định giá tài sản là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực giá, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng yêu cầu định giá tài sản theo quy định của pháp luật. (Điều 69 BLTTHS). Người giám định và người định giá tài sản là những người tham gia tố tụng đưa ra những kết luận về những vấn đề mang tính chuyên môn. Các kết luận giám định, định giá tài sản là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng. Việc tham gia phiên tòa của người giám định và người định giá tài sản không phải là quy định bắt buộc trong mọi trường hợp, Tòa án sẽ triệu tập họ trong những trường hợp cần thiết. Tại phiên tòa, Người giám định, người định giá tài sản có quyền tham gia hoạt động 14 xét hỏi với cả 2 tư cách: người có quyền xét hỏi và là đối tượng bị xét hỏi. Dưới góc độ là người xét hỏi, Người giám định, người định giá tài sản sẽ được quyền hỏi “những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản”, việc này giúp cho kết luận giám định, định giá tài sản được làm rõ, tạo cơ sở vững chắc cho việc đánh giá chứng cứ của những người có thẩm quyền có mặt tại phiên tòa.(Khoản 2 Điều 307 BLTTHS). Tuy nhiên, thẩm quyền xét hỏi của người giám định, người định giá tài sản chỉ được quy định tại Điều 307 BLTTHS nhưng tại các Điều 309, Điều 310, Điều 311 quy định về nội dung hỏi các đối tượng bị hỏi lại không đề cập đến người giám định, đây là một hạn chế về kỹ thuật lập pháp cần phải khắc phục. * Bị cáo Xét hỏi là một hoạt động mang ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định sự thật vụ án cũng như để các chủ thể có thể thực hiện tốt các chức năng nhiệm vụ của mình. Hiện nay, bên cạnh những chủ thể có quyền đặt câu hỏi trực tiếp như đã trình bày, Pháp luật còn ghi quyền xét hỏi của bị cáo và quyền “xét hỏi” gián tiếp của người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa. Đối với những người tham gia tố tụng khác không phải là bị cáo, trong trường hợp có “những tình tiết cần làm sáng tỏ” thì những người này có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm. Đối với bị cáo thì được quyền đặt câu hỏi cho bị cáo khác, người làm chứng, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý. So với BLTTHS 2003, việc ghi nhận quyền được đặt câu hỏi của Bị cáo tại phiên tòa có thể xem là 11 một bước tiến mới , sự thay đổi này đã kịp thời đảm bảo được quyền lợi ích hợp pháp của bị cáo, đồng thời đáp ứng yêu cầu cái cách tư pháp, đặc biệt là nâng cao tính tranh tụng trong xét xử. Quyền được hỏi của bị cáo chính là cơ chế để bị cáo có thể thực hiện tốt quyền tự bào chữa tại phiên tòa, tham gia hiệu quả vào hoạt động tranh luận, đặc biệt trong trường hợp bị cáo không có Người bào chữa. Tuy nhiên, điểm mới này theo tác giả là chưa thật sự triệt để bởi vì bị cáo chỉ được đặt câu hỏi 12 khi có sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa , như vậy, thì vô hình trung, quyền này có thể sẽ bị hạn chế trong thực tế thi hành nếu Chủ tọa phiên tòa “không hợp tác” để cho bị cáo được hỏi. Đồng thời, tại Điều 307, điều luật chung quy định về chủ thể và thứ tự đặt câu hỏi thì lại không ghi nhận quyền này của bị cáo, mặc dù các điều luật chi tiết sau đó như Điều 309, 11 BLTTHS 2003 không quy định quyền được xét hỏi của bị cáo nên có tòa án cho phép bị cáo được quyền xét hỏi nhưng cũng có tòa không cho phép gây nên sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Xem thêm bài viết “Bị cáo có được hỏi tại phiên tòa? https://plo.vn/plo/bi-cao-co-duoc-hoi-tai-phien-toa-134418.html 12 Điều 310, Điều 310 BLTTHS 2015 15 Điều 310, Điều 311 thì lại quy định. Mặc khác, việc bổ sung quyền được hỏi của bị cáo khi được chủ tọa phiên toà đồng ý mà không bổ sung quyền này cho bị hại, đương sự thì liệu có hợp lý khi mà các chủ thể này cũng có nhu cầu tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chính mình. 1.2. Thực tiễn áp dụng quy định về chủ thể có quyền xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm Hoạt động xét hỏi là một hoạt động đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật vụ án, Pháp luật đã từng bước hoàn thiện để đảm bảo ngày càng tốt hơn hoạt động của các chủ thể có liên quan tại phiên tòa. Hoạt động xét xử nói chung và xét hỏi nói riêng tại phiên tòa sơ thẩm trong những năm qua đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận: * Đối với hoạt động của Thẩm phán – Hội thẩm Trong khoảng thời gian từ 2016 – 2021, Ngành tòa án đã xét xử các vụ án hình sự đạt tỷ lệ 99,5%; Chất lượng xét xử tiếp tục được bảo đảm và có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan hàng năm đều dưới 1,5%, Việc xét xử các vụ án hình sự bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, trong nhiệm kỳ không để xảy ra trường hợp nào kết án oan người không có tội. 13 Đội ngũ Thẩm phán luôn được đảm bảo về số lượng và chất lượng. Lãnh đạo ngành Tòa án thường xuyên đổi mới, đa dạng phương thức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kinh nghiệm xét xử cho các chức danh tư pháp. Đội ngũ Hội thẩm nhân dân không chỉ đủ về số lượng mà còn đảm bảo về chất lượng, đáp ứng yêu cầu của hoạt động xét xử. Tòa án nhân dân hiện đã thành lập đủ các Đoàn Hội thẩm và hiện đang có 16.913 Hội thẩm nhân dân phục vụ công 14 tác xét xử . Hội thẩm thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ, về cơ bản đã đảm bảo cơ chế Nhân dân tham gia hoạt động xét xử, hỗ trợ Tòa án hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, hoạt động ngày càng nề nếp, hiệu quả. Phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp được chỉ đạo đổi mới theo hướng công tác xét xử phải tuân thủ pháp luật, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng. Hội đồng xét xử thực hiện đầy đủ các quyền năng pháp lý. Trong hoạt động xét hỏi tại phiên tòa, thành viên hội đồng xét xử đã chủ động và tích cực thực hiện giúp cho việc xác 13 Báo cáo tóm tắt của Chánh án Toà án nhân dân tối cao về công tác của các Toà án trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV https://vietnamnet.vn/vn/tu-lieu/toan-van/bao-cao-tom-tat-cua-chanh-an-tandtc-nguyenhoa-binh- ve-cong-tac-nhiem-ky-722234.html 14 Báo cáo tóm tắt của Chánh án Toà án nhân dân tối cao về công tác của các Toà án trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV https://vietnamnet.vn/vn/tu-lieu/toan-van/bao-cao-tom-tat-cua-chanh-an-tandtc-nguyen-hoa-binh- ve- cong-tacnhiem-ky-722234.html 16 định sự thật vụ án được thực hiện một cách khá hiệu quả. Việc chuẩn bị cho hoạt động xét xử được thực hiện chu đáo, hầu hết các Thẩm phán, Hội thẩm đều nghiên cứu vụ án và có đề cương xét hỏi, tạo được thế chủ động tại phiên tòa. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động xét hỏi của Hội đồng xét xử tại phiên tòa còn tồn tại một số bất cập: - Điều 307 quy định. “Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi.” nhưng không có nghĩa Chủ tọa không thực hiện việc xét hỏi mà chỉ điều hành. Thực tế có trường hợp bản án của Tòa án bị kháng nghị giám đốc thẩm, chỉ vì chủ tọa phiên tòa không tham gia xét hỏi mà chỉ điều khiển để người khác xét hỏi, rồi kết luận việc xét hỏi tại phiên tòa. Việc chủ tọa không tham gia xét hỏi được coi là vi phạm nghiêm trọng 15 thủ tục tố tụng. - Tại một số phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử máy móc dựa vào kế hoạch xét hỏi đã chuẩn bị sẵn mà không đặt câu hỏi phù hợp với diễn biến tại phiên tòa. Chủ tọa có xu hướng lệ thuộc vào kết quả điều tra và cáo trạng của Viện kiểm sát, chính vì vậy mà việc xét hỏi không sôi nổi, dân chủ vì phán quyết đã được định sẵn, xét hỏi chỉ là hợp thức hóa những gì đã được thu thập tại giai đoạn điều tra, không chú ý đến việc tìm các mâu thuẫn nên xét hỏi không cặn kẽ, chưa thẩm tra hết các 16 tình tiết của vụ án đã chuyển sang phần tranh luận - Một số trường hợp, câu hỏi của chủ tọa phiên tòa thể hiện ngay định kiến buộc tội; hoặc trong khi xét hỏi những câu hỏi của Thẩm phán theo hướng làm sao để cho bị cáo phải khuất phục tại phiên tòa, vô hình trung Thẩm phán đã thực hiện thay chức năng buộc tội của Viện kiểm sát; Có những trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm lại giáo dục bị cáo theo kiểu dụ cung nếu thành khẩn nhận tội thì sẽ giảm nhẹ hình phạt, tạo cảm giác như Hội đồng xét xử đã có một kết luận sẵn cho việc xét xử vụ án đó. - Hoạt động xét hỏi của Hội thẩm trên thực tế vẫn chưa đạt được hiệu quả. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án trước của Hội thẩm không phải lúc nào cũng được đảm bảo, do đó câu hỏi của Hội thẩm đôi khi không có tác dụng làm rõ được các tình tiết của vụ án mà chỉ là những câu hỏi rất chung chung, vô thưởng vô phạt, hoặc có trường hợp, Hội thẩm có những phát ngôn không phù hợp tại phiên tòa khi thực hiện hoạt động xét hỏi, ví dụ như: Vụ án xảy ra ở Kon Tum, theo cáo 15 Đinh Văn Quế “Xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” https:// tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/xet-hoi-tai-phien-toa-hinh-su-so-tham-nhung-van-de-ly-luan-vathuc-tien. 16 Nguyễn Quốc Hùng (2020), tlđd (10), tr. 45. 17 trạng, đầu năm 2018 Bùi Xuân Lợi nhờ Phạm Thanh Toàn (nhà ở huyện Đắk Hà, Kon Tum) vận chuyển pháo đến huyện Đức Cơ, Gia Lai và hứa trả công cho Toàn 5 triệu đồng. Toàn đồng ý và mượn ô tô của một người khác rồi chạy về nhà Lợi để chở nhiều thùng carton và ba bao tải đựng hàng. Lợi đi trước dẫn đường còn Toàn chở pháo theo sau. Khi đến huyện Đức Cơ (Gia Lai), CSGT ra tín hiệu dừng xe kiểm tra. Toàn không chấp hành hiệu lệnh mà tăng ga bỏ chạy đến lô cao su thì dừng xe, bỏ trốn. Vài ngày sau Toàn ra đầu thú. Theo kết quả giám định số hàng Toàn chở trên xe là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khí đốt có gây tiếng nổ, phát ra ánh sáng màu) với khối lượng hơn 200 kg pháo. Từ đó Toàn bị khởi tố, truy tố về tội vận chuyển hàng cấm theo điểm c khoản 3 Điều 191 BLHS. Ngày 10-5, TAND huyện Đức Cơ (Gia Lai) đã đưa bị cáo Phạm Thanh Toàn ra xét xử sơ thẩm về tội danh trên. Hội đồng xét xử gồm một Thẩm phán chủ tọa và hai Hội thẩm nhân dân (HTND). Trong phần xét hỏi, vị HTND tên LĐH đã đặt câu hỏi với Toàn: “Có ai bắt bị cáo ký vào đấy không?”. Bị cáo đáp: “Không”. HTND tiếp: “Mình biết cái tội của mình rồi thì cứ nhận mẹ. Sao bị cáo cứ chối quanh co làm gì?”. 17 * Đối với hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa Trong khoảng thời gian 2016 – 2021, toàn ngành Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử 376.935 vụ/626.610 bị cáo theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm. Thông qua công tác kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án, đã phát hiện nhiều vi phạm và ban hành gần 6.000 kháng nghị phúc thẩm, tăng 50%; trong đó, số kháng nghị được Hội đồng xét xử chấp nhận đạt tỷ lệ 78,9%, tăng 8,5% và vượt 8,9% so với chỉ tiêu Nghị quyết 96 của Quốc hội; ban hành gần 700 kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, tăng 40% và số kháng nghị được Hội đồng xét xử chấp nhận đạt tỷ lệ 84,8%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết 96 của Quốc hội. Đặc biệt, các trường hợp Viện kiểm sát quyết định truy tố nhưng Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội chiếm tỷ lệ rất nhỏ và giảm nhiều theo từng năm (năm 2017, giảm 14,3%; năm 2018, giảm 50%; năm 2020, giảm 50% so với năm trước). 18 Điều này cho thấy hoạt động của ngành kiểm sát nói chung và hoạt động xét xử nói riêng đã có đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. 17 Ngân Nga “Luật sư „chỉnh‟ Hội thẩm nhân dân hỏi truy vấn” https://plo.vn/phap-luat/luat-suchinh-hoi-tham -nhan-dan-hoi-truy-van-834773.html 18 Báo cáo tóm tắt báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ Quốc Hội Khóa XIV của Viện Trưởng VKSND Tối cao (2021), đường dẫn https://www.vksndtc.gov.vn/tin-hoat-dong-vksnd-toi-cao/bao-cao-tongket-cong-tac-nhiem-ky-quoc-hoi-khoa-x-d2-t9125.html 18 Bên cạnh đó, Ngành kiểm sát đã đẩy mạnh phối hợp với Tòa án và đã tổ chức 19 gần 26.000 phiên tòa rút kinh nghiệm . Từ những phiên tòa này, ngành kiểm sát đã có những đánh giá kịp thời chất lượng thực hiện thủ tục xét hỏi cũng như tranh luận tại phiên tòa, từ đó có những giải pháp đổi mới toàn diện về mọi mặt nhằm thực hiện tốt chức năng của mình. Có được những kết quả như trên một phần là nhờ vào đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên ngày càng nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò của ngành Kiểm sát nhân dân trong hệ thống chính trị cũng như vai trò của Kiểm sát viên trong phiên tòa hình sự. Các Kiểm sát viên đã nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, chuẩn bị đề cương xét hỏi, có chiến thuật xét hỏi tốt, dự kiến các tình huống có thể phát sinh tại phiên tòa; hỏi có trọng tâm, trọng điểm và đã làm rõ thêm được căn cứ, cơ sở để khẳng định quan điểm truy tố đã được nêu trong bản Cáo trạng là đúng pháp luật. Kiểm sát viên cũng đã chủ động tích cực tham gia xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; đã chú trọng xét hỏi những vấn đề mà Hội đồng xét xử chưa hỏi hoặc xét hỏi chưa kỹ; Các câu hỏi cơ bản là rõ ràng, dễ hiểu, logic, không trùng lắp, bám sát nội dung vụ án, làm rõ hành vi khách quan, ý thức chủ quan, vai trò đồng phạm của từng bị cáo và mức bồi thường dân sự mà đại diện người bị hại yêu cầu; Giữa các Kiểm sát viên có sự phối hợp nhịp nhàng trong việc phân công xét hỏi các bị cáo. 20 Tuy nhiên, theo đánh giá, hiện nay, vấn đề xét hỏi của Kiểm sát viên vẫn còn một số hạn chế : Kiểm sát viên không tích cực tham gia vào hoạt động xét hỏi, câu hỏi còn sơ sài, lan man hoặc ỷ lại vào Hội đồng xét xử do Hội đồng xét xử đã hỏi hết các vấn đề cần hỏi nên Kiểm sát viên không còn gì để hỏi; cũng có những trường hợp Kiểm sát viên đặt những câu hỏi trùng lặp với Hội đồng xét xử; hay Kiểm sát viên hỏi chỉ một vài câu hỏi cho có hình thức, chủ yếu hỏi bị cáo có cảm thấy oan sai không, thủ tục nhận cáo trạng có đảm bảo không chứ không hỏi gì về 21 nội dung vụ án. Một số trường hợp Kiểm sát viên chưa có câu hỏi dự phòng khi các bị cáo thay đổi lời khai; Kiểm sát viên đặt nhiều câu hỏi buộc tội, thiếu câu hỏi gỡ tội; Khi các bị cáo chối tội, Kiểm sát viên có đấu tranh nhưng chỉ tập trung công 19 Báo cáo tóm tắt báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ Quốc Hội Khóa XIV của Viện Trưởng VKSND tối cao (2021); đường dẫn https://www.vksndtc.gov.vn/tin-hoat-dong-vksnd-toi-cao/bao-cao-tongket-cong-tac-nhiem-ky-quoc-hoi-khoa-x-d2-t9125.html 20 Thông báo tổng hợp ý kiến nhận xét về phiên tòa hình sự rút kinh nghiệm trực tuyến toàn quốc năm 2017; đường dẫn https://kiemsat.vn/thong-bao-tong-hop-y-kien-nhan-xet-ve-phien-toa-hinh-su-rut-kinhnghiem-truc - tuyen-toan-quoc-nam-2017-48642.html 21 Phạm Tiểu Thơ (2020) “Xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” luận văn thạc sĩ, trường Đại học Luật Tp .HCM, tr. 29 19 bố các lời khai của bị cáo về việc không bị mớm cung, ép cung mà chưa đưa ra được các tài liệu, chứng cứ trực tiếp để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo; Kiểm sát viên còn đặt câu hỏi thể hiện sự gợi ý, mớm cung, chứa hàm ý trả lời, đôi lúc vội vã kết luận đúng sai, đưa ra một số lập luận mang tính quy chụp, áp đặt; Kiểm sát viên chưa đấu tranh làm rõ lý do các bị cáo khai khác với lời khai tại Cơ quan điều tra, chưa xét hỏi đến cùng để làm rõ lời khai nào là đúng, chưa hỏi các bị cáo có tài liệu, chứng cứ chứng minh các bị cáo bị ép cung, mớm cung; Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa xét hỏi có tính chất mớm cung, ép cung nhưng Kiểm sát viên không phát hiện và đề nghị chấn chỉnh. Khi Luật sư đề nghị, Kiểm sát viên vẫn không có ý kiến; Một số người làm chứng vắng mặt nhưng Kiểm sát viên không đề nghị Hội đồng xét xử công bố lời khai của những người này trong quá trình điều tra; Kiểm sát viên xét đôi lúc làm thay quyền điều khiển của Chủ tọa phiên tòa, không thông qua Chủ tọa để hỏi các bị cáo và người làm chứng. 22 * Đối với hoạt động của Ngƣời bào chữa; ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đƣơng sự Trong những năm gần đây, khi vấn đề tranh tụng đã được coi trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, vai trò của Người bào chữa ngày càng được nâng cao, chất lượng cũng như số lượng Người bào chữa cũng vì thế mà tăng lên rất nhiều. Tính đến cuối năm 2020 Luật sư thành viên có số lượng 15.107. So với năm 23 2019 có 13.859 luật sư, số lượng luật sư đã tăng 1.248 luật sư . Riêng đoàn luật sư Tp Hồ Chí minh tính đến tháng 11/2020 là 6293 luật sư; tổng số vụ Đoàn luật sư 24 tham gia bao chữa là 2612 vụ án, trong đó có 672 vụ án là bào chữa chỉ định. Tham gia vào hoạt động xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, người bào chữa đã có những câu hỏi có chất lượng, đi vào trọng tâm, không chỉ bảo vệ được thân chủ của mình mà còn góp phần vào việc xác định sự thật vụ án, giúp cho Hội đồng xét xử ra bản án mang tính khách quan, chính xác. Những trường hợp “vẽ đường” cho bị cáo trả lời sai hoặc “dựng lên màn kịch” sao cho có lợi cho thân chủ mình đã được giải 22 Thông báo tổng hợp ý kiến nhận xét về phiên tòa hình sự rút kinh nghiệm trực tuyến toàn quốc năm 2017; đường dẫn https://kiemsat.vn/thong-bao-tong-hop-y-kien-nhan-xet-ve-phien-toa-hinh-su-rut-kinhnghiem-truc-tuyen-toan-quoc-nam-2017-48642.html 23 Hội nghị Tổng kết tổ chức hoạt động năm 2020 và phương hướng hoạt động Năm 2021 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam; đường dẫn https://www.liendoanluatsu.org.vn/post/h%E1%BB%99i-ngh%E1%BB %8B-t%E1 %BB%95ng-k%E1%BA%BFt-t%E1%BB%95-ch%E1%BB%A9c-ho%E1%BA%A1t%C4%91%E1%BB% 99ng-n%C4%83m-2020-v%C3%A0-ph%C6%B0%C6%A1ng-h%C6%B0%E1%BB %9Bng-ho%E1%BA% A1t-%C4%91%E1%BB%99ng-n%C4%83m-2021 24 Báo cáo về tổ chức và hoạt động của đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020; Đường dẫn http:// hcmcbar.org/NewsDetail.aspx?language=&CatPK=6&NewsPK=1002
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan