Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn tây nguyên hiện nay...

Tài liệu Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn tây nguyên hiện nay

.PDF
176
390
94

Mô tả:

Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn tây nguyên hiện nay
BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay LUẬN ÁN TIẾN SĨ Hà Nội - 2014 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay Chuyên ngành: Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nƣớc Mã số : 63 31 02 03 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS, TS Phạm Văn Thắng 2. PGS, TS Phạm Xuân Mát Hà Nội - 2014 Mục lục Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VỮNG MẠNH TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN 1.1. 1.2. Chƣơng 2 2.1. 2.2. Chƣơng 3 Hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên Những vấn đề cơ bản về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN 5 9 24 24 48 66 Thực trạng xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên 66 Nguyên nhân và một số kinh nghiệm xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên 100 PHƢƠNG HƢỚNG, YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VỮNG MẠNH TRÊN ĐỊA BÀN 112 TÂY NGUYÊN HIỆN NAY Sự phát triển của tình hình nhiệm vụ và phương hướng, yêu cầu xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay 112 3.2. Những giải pháp tăng cường xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay 122 KẾT LUẬN 159 3.1. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 161 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 163 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Stt Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 01 Ban chấp hành Trung ương BCHTW 02 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH,HĐH 03 Các xã, phường, thị trấn Cấp xã 04 Dân tộc thiểu số DTTS 05 Diễn biến hòa bình DBHB 06 Hệ thống chính trị HTCT 07 Hệ thống chính trị cơ sở HTCTCS 08 Hội đồng nhân dân HĐND 09 Tổ chức cơ sở Đảng TCCSĐ 10 Trung học cơ sở THCS 11 Trung học phổ thông THPT 12 Uỷ ban nhân dân UBND 13 Mặt trận Tổ quốc MTTQ 14 Nhà xuất bản Nxb 5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu Xây dựng HTCTCS là một nội dung trọng yếu của đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay, tuy nhiên hiện nay đang có rất nhiều vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề về xây dựng HTCT nói chung và HTCTCS xã, phường, thị trấn trên địa bàn Tây Nguyên nói riêng. Nghiên cứu sinh đã có thời gian công tác ở Tây Nguyên gần 20 năm, trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn đơn vị tiến hành công tác dân vận, tham gia xây dựng HTCTCS, cùng với các lực lượng xử lý “điểm nóng” năm 2001 và năm 2004 tại tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông nhận thấy, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những diễn biến phức tạp, bạo loạn chính trị ở Tây Nguyên trong thời gian vừa qua bắt nguồn từ sự yếu kém của HTCTCS. Vấn đề cấp thiết đặt ra là làm thế nào để khắc phục được sự yếu kém đó?. Điều này luôn làm cho tác giả suy nghĩ, trăn trở, ấp ủ, hình thành ý tưởng nghiên cứu trong nhiều năm. Vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề: “Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay” làm đề tài luận án. Quá trình triển khai đề tài, nghiên cứu sinh đã tiến hành khảo cứu báo cáo của các tỉnh ở Tây Nguyên và Ban Chỉ đạo Tây Nguyên qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TƯ, Hội nghị lần thứ năm BCHTW Đảng khoá IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010; cùng với hệ thống tư liệu, số liệu do nghiên cứu sinh trực tiếp điều tra, khảo sát thực tiễn hoạt động xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến nay; đồng thời tham khảo kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nước ngoài, trong nước có liên quan đến xây dựng và hoạt động của HTCT. Đề tài tập trung luận giải những vấn đề cơ bản về HTCTCS và xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên; đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên 6 nhân và rút ra một số kinh nghiệm xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên những năm vừa qua; xác định phương hướng, yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay. Kết cấu của luận án gồm phần mở đầu, tổng quan vấn đề nghiên cứu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả đã được công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 2. Lý do lựa chọn đề tài Hệ thống chính trị cơ sở là cấp chấp hành, trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ, huy động mọi nguồn lực của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh ở cơ sở. HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên có trách nhiệm to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, chăm lo đời sống cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, BCHTW Đảng khoá IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, các tỉnh Tây Nguyên đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát huy vai trò của HTCTCS. TCCSĐ ở nhiều nơi được củng cố và tăng cường; chính quyền cấp xã được kiện toàn, hoạt động khá hiệu quả; MTTQ và các đoàn thể hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ. Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới, HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên đã bộc lộ không ít hạn chế, khuyết điểm, một số xã, phường, thị trấn, vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng bị hạ thấp, các đoàn thể tồn tại một cách hình thức; hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của bộ máy chính quyền còn yếu. Trình độ, năng lực của phần lớn cán bộ cấp xã còn hạn chế, nhất là cán bộ cấp xã người DTTS; cơ chế và chất lượng hoạt động của HTCTCS còn bất cập; điều kiện, phương tiện làm việc còn thiếu thốn; một số vấn đề về chính sách cán bộ ở cơ sở chưa được quan tâm đúng mức; kinh tế - xã hội phát triển chưa vững chắc, tỷ lệ hộ đói nghèo cao, việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống và xây dựng 7 đời sống văn hoá mới cho đồng bào Tây Nguyên chưa được quan tâm đúng mức; các vụ việc khiếu kiện tập thể liên quan đến quyền lợi đất đai của đồng bào, tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ của đội ngũ cán bộ cơ sở, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân còn xẩy ra nghiêm trọng ở nhiều địa phương cơ sở. Những yếu kém của HTCTCS ở một số nơi đã và đang làm giảm sút lòng tin của nhân dân, dẫn đến gây hậu quả xấu về kinh tế, chính trị - xã hội. Trong những năm tới, hoạt động của HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên bên cạnh những thuận lợi, phải đối mặt với không ít những khó khăn thách thức: – - , còn diễn biến do điều kiện lịch sử, địa lý, những hạn chế, khuyết điểm chủ quan và các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện âm mưu, thủ đoạn “DBHB”, bạo loạn lật đổ gây mất ổn định chính trị, mưu toan thành lập “Nhà nước Đê Ga tự trị”. Điều đó đặt ra yêu cầu khách quan, cấp bách phải quan tâm xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên thực sự vững mạnh. Vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay” làm đề tài luận án là vấn đề cơ bản, cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đề tài luận án không trùng lặp về nội dung với các công trình nghiên cứu đã công bố trong những năm gần đây. 3. Mục đích nghiên cứu Nhằm góp phần xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên vững mạnh, tạo cơ sở vững chắc cho xây dựng Tây Nguyên giàu mạnh về kinh tế, ổn định về chính trị, – an ninh, phát triển nhanh, bền vững về văn hóa, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên là đối tượng nghiên cứu của luận án. 8 * Phạm vi nghiên cứu Những vấn đề lý luận, thực tiễn, yêu cầu, giải pháp xây dựng HTCTCS vững mạnh bao gồm HTCTCS xã, phường, thị trấn ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng. Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, điều tra, khảo sát điểm một số xã, phường, thị trấn thuộc các tỉnh Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm . 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài * Đóng góp mới về khoa học - Làm rõ tính đặc thù của HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên và quan niệm xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên. - Tổng kết một số kinh nghiệm xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên. - Đề xuất giải pháp xây dựng TCCSĐ, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể nhân dân và đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ người dân tộc bản địa trên địa bàn Tây Nguyên. * Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Góp phần làm rõ thêm những vấn đề cơ bản về HTCTCS và xây dựng HTCTCS các xã, phường, thị trấn trên địa bàn Tây Nguyên. Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp cấp uỷ, chính quyền, ban ngành đoàn thể các tỉnh Tây Nguyên xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tiến hành xây dựng HTCTCS vững mạnh. Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy trong hệ thống các học viện, nhà trường, nhất là ở các trường chính trị tỉnh, trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, quận, thành phố thuộc các tỉnh Tây Nguyên và các học viện, nhà trường quân đội. 9 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị Một số sách viết về nền chính trị các nước tư bản: Chính trị so sánh - về các nền dân chủ Đức, Mỹ, Pháp, Anh, Ý (1991), Yves Meny [165]; American Government Freedom and Power (sự tự do và quyền lực của chính phủ Mỹ) (1992), Theodore j.Lowi, Benjamin Ginsberg; Chính trị học so sánh (1998), Rolf H.W. Thee và Frank L.Wilson [118]; British Politics (Nền chính trị Anh) (1998), Dennis Kavanagh; Comparative Politics- Aglobal introduction (so sánh các thể chế chính trị trên thế giới) (2000), Michael j.Sodaro; Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ (2002), Jay M.Shafritz [91]; Understanding democracy – An introduction to public choice (nhận thức về dân chủ, một sự lựa chọn công khai) (2003), F.Patrick Gunning. Các học giả trên đều cố gắng luận giải rằng đa nguyên chính trị là đặc trưng của thể chế chính trị tư sản và HTCT tư bản chủ nghĩa. Ở hầu hết các nước tư bản, ngoài các đảng tư sản còn có các đảng cộng sản và các đảng của các tầng lớp xã hội khác. Các đảng phái chính trị, tổ chức quần chúng hoàn toàn độc lập với chính quyền, trong đó, đảng cộng sản được quyền tồn tại hợp pháp với tư cách là tổ chức chính trị đối lập, đối kháng với các đảng tư sản. Bên cạnh đó, quyền lực của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội cũng ngày càng tăng lên. Hoạt động của các tổ chức đó trên một số phương diện đã làm tăng thêm quyền lực chính trị cho nhân dân. Các công trình trên đã làm rõ những vấn đề về hệ thống chính quyền nhà nước ở các nước tư bản; mối quan hệ giữa đảng phái chính trị và cơ quan nhà nước ở các nước tư bản, chức năng quản lý địa phương do cơ quan hành chính hoặc cơ quan tự quản thực hiện. Ở các nước tư bản cho dù chính quyền địa phương được tổ chức theo mô hình tự quản và xã hội công dân được xem như là độc lập đối với nhà nước nhưng hoạt động của nó vẫn phải nằm trong 10 khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Các chính trị gia tư sản cho rằng cơ cấu quyền lực chính trị ở các nước tư bản có sự tham gia của nhân dân, có các đảng chính trị cạnh tranh, nhờ đó mà tăng quyền lực chính trị cho nhân dân. Nhưng về thực chất, sự ra đời của HTCT tư bản chủ nghĩa là nhằm bảo vệ quyền lực chính trị của giai cấp tư sản, bản chất của HTCT tư bản chủ nghĩa vẫn là sự thống trị của giai cấp tư sản đối với toàn bộ đời sống xã hội, nhà nước ấy là nhà nước của giai cấp tư sản, hiến pháp, pháp luật là thể hiện ý chí của giai cấp tư sản cầm quyền, nền dân chủ tư sản thực chất chỉ là dân chủ với thiểu số giai cấp tư sản và vì giai cấp tư sản. Ở Liên Xô có công trình bàn về Đảng Cộng sản Liên Xô trong hệ thống chính trị của xã hội Xô Viết (những vấn đề phương pháp luận nghiên cứu) (1986) của V.Ia.Bôn-đa-rơ [161] đã phân tích rõ mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và những bộ phận cấu thành khác trong HTCT; luận giải vai trò của Đảng Cộng sản Liên Xô thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội XHCN, lãnh đạo xã hội; phân tích tác động qua lại của quyền lực nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống quản lý nhà nước gồm Xô Viết tối cao Liên Xô, 15 Xô Viết tối cao của các nước cộng hòa liên bang, 20 Xô Viết tối cao của các nước cộng hòa tự trị, hơn 50 nghìn Xô Viết địa phương hợp thành hệ thống thống nhất của các cơ quan quyền lực nhà nước. Mặc dù hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ năm 1991 nhưng thành quả xây dựng CNXH hơn 70 năm của Đảng Cộng sản Liên Xô là những bài học quí giá về xây dựng HTCT xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Ở Trung Quốc có công trình Cải cách chính phủ cơn lốc chính trị cuối thế kỷ XX (2002) của Tinh Tinh [131] đã trích dẫn, tổng hợp quan điểm của nhiều lãnh tụ Đảng Cộng sản Trung Quốc trong công cuộc cải cách cơ cấu nền hành chính, xem đó là một cuộc cách mạng. Cuộc cải cách cơ cấu là cơn lốc chính trị cuối thế kỷ XX, dựa trên các nguyên tắc: theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường XHCN, chuyển đổi chức năng của chính quyền, thực hiện chính quyền tách khỏi xí nghiệp; 11 tinh giảm, thống nhất, hiệu quả, điều chỉnh cơ cấu tổ chức chính quyền, thực hiện tinh giảm biên chế; thống nhất quyền hạn và trách nhiệm, xác định chức trách và quyền hạn của các ngành trong bộ máy chính phủ, phân công rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ, ngành, hoàn thiện cơ chế vận hành, hành chính; quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường xây dựng pháp chế cho hệ thống hành chính; trọng điểm cải cách là các bộ, ngành thành viên của Quốc Vụ viện. Ngoài văn phòng Quốc Vụ viện, sẽ tinh giảm từ 40 bộ, ngành xuống còn 29 bộ, ngành. Có hơn 4 triệu cán bộ các cấp “rời cương vị”, nguyên nhân của “rời cương vị” là “ điều tiết vô tình và sắp xếp có tình” [131, tr.23]. Các bài viết: “Không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ thẩm quyền, tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng chống biến chất và chống rủi ro” của Hạ Quốc Cường; “Thực tiễn và sự tìm tòi về xây dựng tổ chức cơ sở đảng và xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc” của Lý Bội Nguyên; “Kiên trì phương châm quản lý đảng nghiêm minh, triển khai cuộc xây dựng đảng phong liêm chính và đấu tranh chống tham nhũng” của Chu Húc Đông; “Kiên trì xây dựng lý luận tư tưởng là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng” của Trần Tuấn Hồng (2004) in trong kỷ yếu Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc [75]. Các tác giả thống nhất cho rằng Trung Quốc là nước nông nghiệp lớn, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là vấn đề trọng đại, liên quan đến toàn cục của cải cách mở cửa và xây dựng hiện đại hóa nông thôn mới XHCN đặc sắc Trung Quốc, điều then chốt là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vùng nông thôn, phát huy đầy đủ vai trò của đảng viên và tổ chức đảng ở nông thôn. Vì vậy, Đảng phải luôn kiên trì vũ trang lý luận khoa học, giáo dục truyền thống, kiên trì vũ trang lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng “ ba đại diện”, bồi dưỡng tri thức, văn hóa để thúc đẩy tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên; kết hợp xây dựng tư tưởng, tổ chức với xây dựng tác phong; phương châm là đảng ủy 12 lãnh đạo thống nhất, bộ ngành cơ quan cùng nắm, cùng quản, trên dưới cùng tiến hành và nắm chắc thường xuyên, không lơi lỏng, bình xét đảng viên một cách dân chủ, xử lý nghiêm đảng viên vi phạm tư cách. Lấy “kiên trì tiêu chuẩn, bảo đảm chất lượng, cải thiện cơ cấu, thận trọng phát triển” làm phương châm, trọng điểm là phát triển đảng viên mới trong nông dân….Vận dụng nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác –Lênin, nghiêm chỉnh tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, học tập kinh nghiệm mới mẻ của các đảng cộng sản khác, tiếp thu thành quả bổ ích của văn minh đương đại thì mới có thể quản lý Đảng nghiêm minh, thúc đẩy Đảng tiên phong liêm chính có hiệu quả. Bài viết “Thúc đẩy xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn, thực hiện quản lý của chính quyền cơ sở và tự trị của quần chúng thúc đẩy lẫn nhau một cách tích cực” (2009) của Vương Tề Ngạn [164]. Theo tác giả, kể từ cải cách mở cửa đến nay, Trung Quốc xây dựng tổ chức chính quyền cơ sở cấp xã, thị trấn, thiết lập thôn hành chính dưới xã, thị trấn, thôn hành chính bầu ra ủy ban dân làng theo “Luật tổ chức ủy ban dân làng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, thực hiện dân làng tự trị. Hiện nay, Trung Quốc có hơn 40 nghìn tổ chức chính quyền cơ sở, hơn 613 nghìn ủy ban dân làng, kết hợp giữa xây dựng chính quyền xã, thị trấn với phát triển tự trị dân làng góp phần củng cố nền tảng cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thúc đẩy kinh tế, xã hội nông thôn phát triển, tăng cường quản lý xã hội ở cơ sở. Theo tác giả, thúc đẩy hơn nữa xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn, bảo đảm dịch vụ công cộng không ngừng tăng lên của đông đảo nông dân; cải thiện dân sinh, phát triển dân chủ, phục vụ xã hội là nội dung quan trọng của xây dựng nông thôn mới XHCN. Để đạt được mục tiêu đó tác giả đề xuất các giải pháp như: khơi thông quan hệ xã, thôn, thực hiện quản lý của chính quyền và tự trị của dân làng thúc đẩy lẫn nhau một cách tích cực; cải tiến phương thức quản lý hành chính cơ sở, xây dựng chính quyền kiểu phục vụ, một mặt cần xác định rõ chức năng, vị trí của xã, thị trấn, thúc đẩy chuyển biến chức năng chính quyền xã, thị trấn, mặt khác cần thay đổi tư duy 13 quản lý và dịch vụ hiệu quả cao hơn, nâng cao hiệu quả quản lý và dịch vụ của chính quyền xã, thị trấn; phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo của TCCSĐ, nắm bắt phương hướng phát triển của tự trị quần chúng cơ sở. 1.1.2. Công trình nghiên cứu của nước ngoài về Tây Nguyên Tây Nguyên là địa bàn chiến lược cực kỳ quan trọng luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở nước ngoài, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, một số công trình của các tác giả người Pháp nghiên cứu về các dân tộc ở Tây Nguyên như: Về người M’nông Ga của G.Condominas; Về người Mạ của Bulbe; Les Jungles mois nghĩa là Rừng người Thượng (1912) của Henri Maitre viết về vùng rừng núi cao nguyên miền Trung Việt Nam được xuất bản lần đầu vào năm 1912 tại Pháp [70]. Các tác phẩm Về người Gia Rai; Rừng, Đàn bà và Điên loạn (2002); Miền đất huyền ảo (2003) của Jacques.Dournes [90]. Trong các công trình trên, các tác giả đã khảo cứu về địa lý, nguồn gốc, văn hoá, tín ngưỡng, phong tục của một số dân tộc đã sinh sống lâu đời ở Tây Nguyên. Kết quả nghiên cứu của các công trình này tuy đề cập được một vài nét về đặc điểm văn hóa của đồng bào Tây Nguyên, nhưng chưa toàn diện và ban đầu chỉ nhằm phục vụ cho công cuộc xâm lược của thực dân Pháp đối với nước ta. Trong thời kỳ 1954 - 1975, người Mỹ đã tăng cường nghiên cứu về các dân tộc Tây Nguyên nhằm duy trì ách cai trị của chủ nghĩa thực dân mới trên vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng này. Tài liệu “Tự do trong rừng thẳm”, “Lịch sử các sắc tộc vùng Tây Nguyên Việt Nam từ năm 1954 đến 1976” của Gerald Lormon G.Hickey [65]; “Những nhóm thiểu số ở Cộng hòa Nam Việt Nam” Westmoreland người Mỹ - chủ biên. Trong đó, các tác giả đã phân tích khá sâu sắc đặc điểm tự nhiên, văn hoá, dân tộc ở vùng Nam Trung bộ, đặc biệt là Tây Nguyên, nhưng mới chỉ nhấn mạnh vấn đề sắc tộc, làm cho người đọc hiểu sai lệch về quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên. Đây là vấn đề cấp thiết cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ đặc điểm địa lý, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên địa bàn Tây Nguyên và những giải pháp góp phần phát triển Tây Nguyên bền vững. 14 1.2. Công trình nghiên cứu ở trong nước 1.2.1. Các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ sở. Cuốn sách: Xây Dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền (1992) của PGS.PTS Đỗ Nguyên Phương và PTS Trần Ngọc Đường [113]. Công trình này đã đưa ra khái niệm về HTCT xã hội chủ nghĩa là tổng thể các lực lượng chính trị bao gồm đảng cộng sản, nhà nước, các đoàn thể nhân dân mang tính chất chính trị - xã hội hoạt động theo một cơ chế thống nhất phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, thực hiện đường lối, mục tiêu xây dựng CNXH. Cơ chế đó bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân do đảng cộng sản lãnh đạo. Đồng thời, công trình đã phân tích luận giải khá sâu sắc quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong HTCT nước ta. Quán triệt và thực hiện Nghị quyết 17/NQTW, Hội nghị lần thứ năm, BCHTW Đảng khóa IX (3/2002) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn” [40] đã có các công trình khoa học “Hệ thống chính trị cơ sở - đặc điểm, xu hướng và giải pháp” (2002) của TS Vũ Hoàng Công [34]; Sách “Các giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay”(2003) PGS.TS Tô Huy Rứa, PGS.TS Nguyễn Cúc, PGS.TS Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) [119]; Sách “Hệ thống chính trị cơ sở - thực trạng và một số giải pháp đổi mới” (2004) TS Chu Văn Thành - chủ biên [123]; Sách “Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay” (2004) của GS.TS Hoàng Chí Bảo - chủ biên [20] dựa trên cơ sở đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển ở nước ta hiện nay”. Các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ các vấn đề lý luận về HTCT, HTCTCS ở nước ta như: khái niệm, cấu trúc, bản chất, mục tiêu, cơ sở chính trị - xã hội của HTCT trong quá trình hình thành và phát triển; chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức thành viên và mối quan hệ giữa các tổ chức trong HTCT. Luận giải, làm rõ khái niệm HTCTCS, phân tích đặc điểm và tình 15 hình hoạt động của HTCTCS; đồng thời, dự báo những xu hướng biến đổi, phát triển của HTCTCS trong thời gian tới dưới tác động của sự biến đổi kinh tế - xã hội, dân số; yêu cầu xây dựng và thực thi nền dân chủ XHCN; yêu cầu tiếp tục đổi mới chính trị trong thời kỳ CNH,HĐH. Các công trình đều khẳng định bản chất, mục tiêu của đổi mới và nâng cao chất lượng của HTCT là nhằm thực hiện và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Cần tập trung giải quyết tốt mối quan hệ giữa HTCTCS với quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, các tác giả mới nghiên cứu HTCTCS ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ, còn đối với loại hình HTCTCS các xã, phường, thị trấn trên địa bàn Tây Nguyên có những đặc thù riêng mà các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu. Cuốn sách “Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005- 2020” (2008) của PGS.TS Trần Đình Hoan, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng làm Chủ nhiệm cùng với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, từ kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.10-02 “Các quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta giai đoạn 2005-2020” thuộc chương trình KX.10 “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” [73]. Trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với tổng kết thực tiễn đổi mới ở Việt Nam trong hơn 20 năm qua, các tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ tính tất yếu khách quan của việc đổi mới HTCT ở nước ta hiện nay, nêu ra các mục tiêu, quan điểm và nguyên tắc đổi mới HTCT; đề xuất phương hướng và các giải pháp đổi mới HTCT ở Việt Nam giai đoạn 2005-2020. Theo đó, đổi mới HTCT không nhằm mục tiêu tạo ra một HTCT mới hay thay đổi bản chất của HTCT hiện nay, mà thực hiện đổi mới theo hướng hoàn thiện để khắc phục các bất cập, yếu kém, tạo nên sự phù hợp của HTCT với các yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, 16 do dân, vì dân và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đổi mới HTCT nhằm giữ vững ổn định chính trị, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống lại mọi âm mưu “DBHB”. Đổi mới HTCT để củng cố, tăng cường, mở rộng nền tảng xã hội của HTCT, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tạo ra sự đồng thuận xã hội để thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển. Đổi mới HTCT luôn phải đảm bảo và nâng cao vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, trong đó, đổi mới, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới HTCT. Cuốn sách “Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”(2008) của GS.TS Nguyễn Phú Trọng - làm chủ nhiệm với sự tham gia của nhiều nhà khoa học [148], khi bàn về đổi mới HTCT, phát huy dân chủ XHCN, các tác giả đã phân tích khá sâu sắc tư duy lý luận của Đảng ta về HTCT đất nước. Theo các tác giả, trải qua 20 năm đổi mới, HTCT nước ta đã tập trung từng bước làm rõ các vấn đề: dân chủ XHCN; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN do nhân dân làm chủ. Mục tiêu cao nhất trong hoạt động của HTCT nước ta là giữ vững định hướng XHCN, gắn độc lập dân tộc với CNXH, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cuốn sách chuyên khảo của các tác giả GS.TS Lê Hữu Nghĩa, GS.TS Hoàng Chí Bảo, PGS.TS Bùi Đình Bôn (đồng chủ biên) (2008) “Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam” [107]; PGS.TS Lê Hữu Nghĩa có bài báo khoa học (2013) “Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [108]. Các tác giả khảng định đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là nội dung chủ yếu và căn bản của đổi mới HTCT ở nước ta hiện nay. Đề cập cơ sở lý luận, thực tiễn, những nhân tố tác động và yêu cầu đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay; sơ lược quá trình 17 hình thành và phát triển quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta; chỉ ra những ưu điểm, những hạn chế, yếu kém cùng với những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, trên cơ sở đó rút ra bản chất, xác định những quan điểm, nguyên tắc và đề xuất những nội dung, giải pháp chủ yếu của đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay, như: đổi mới về nhận thức, về tổ chức cán bộ; đổi mới thể chế, cơ chế và qui chế hoạt động của các tổ chức trong HTCT; đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đổi mới công tác giáo dục tuyên truyền trong Đảng và trong xã hội; đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và dự báo khoa học các vấn đề chính trị, xã hội phục vụ cho yêu cầu lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và thực hành dân chủ của nhân dân. Các tác giả cho rằng: đổi mới HTCT ở nước ta không có mục đích tự thân mà mục đích sâu xa, bản chất, quan trọng nhất của nó là hướng vào xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ và vai trò làm chủ thực sự của người dân 1.2.2. Những công trình nghiên cứu về Tây Nguyên và hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên Một số công trình chuyên khảo về dân tộc, quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm cuối thế kỷ XX như: Đề tài cấp Bộ “Xu hướng vận động của quan hệ dân tộc khu vực Tây Nguyên và đặc điểm chính sách dân tộc đối với Tây Nguyên” (1994 - 1995) do TS Nguyễn Văn Nam - chủ nhiệm [106]; cuốn sách “Vấn đề giao đất, giao rừng và định canh, định cư vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên” ( 2010) của PGS.TS Nguyễn Văn Nam [105]. Sách “Tây Nguyên – nơi hội tụ văn hóa truyền thống và tình đoàn kết các dân tộc” (2006) của các tác giả Đậu Xuân Luận, Nguyễn Kim Ninh, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Văn Lượng [98]. Sách “Tây Nguyên – vùng đất, con người” (2006) của các tác giả Đinh Văn Thiên, Lê Quang Lợi, Nguyễn Trường Sơn [126]. Các công trình trên đã nghiên cứu, khái quát về điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và 18 truyền thống trong đấu tranh cách mạng kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ; nêu bật những thành tựu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội Tây Nguyên. Sưu tầm, biên soạn những đặc điểm văn hóa cộng đồng, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, các công trình kiến trúc của các dân tộc Tây Nguyên. Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về xu hướng vận động quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, các tác giả đã xác định phương hướng, giải pháp xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với đặc điểm Tây Nguyên như: đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của điều kiện tự nhiên ở Tây Nguyên; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và vấn đề dân tộc, xây dựng quan hệ dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau; tích cực củng cố, đổi mới, xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT các cấp, đặc biệt là cơ sở; kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu "DBHB" chia rẽ dân tộc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Tuy đã nhấn mạnh đến xu hướng xích lại gần nhau giữa các dân tộc, nhưng nhóm nghiên cứu chưa đề cập những mầm mống, nguyên nhân làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc từ tình trạng bất bình đẳng giữa các dân tộc ở Tây Nguyên. Cùng với các công trình trên, cuốn sách: “ Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển bền vững vùng Tây Nguyên” (2010) của TS Bùi Minh Đạo [47] đã đề cập nhiều đặc trưng văn hóa, xã hội, con người Tây Nguyên hình thành từ những tác động của điều kiện tự nhiên - xã hội. Trong đó, yếu tố quan trọng được tác giả luận giải sâu sắc về hình thái tổ chức xã hội cổ truyền “làng” (plei, plơi, buôn, bon…) là đơn vị xã hội độc lập và duy nhất, mỗi buôn làng Tây Nguyên đều tồn tại thiết chế xã hội tự quản, làm nhiệm vụ quản lý và điều tiết các mối quan hệ giữa con người với nhau và các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thông qua luật tục và phong tục tập quán có sẵn tự ngàn xưa. Tuy nhiên, hiện nay làng của các DTTS Tây Nguyên không còn là một thực thể đơn nhất, mà bao trùm lên nó là hệ thống thiết chế chính trị của Nhà nước. Vì vậy, 19 buôn làng trở thành “cánh tay nối dài” của chính quyền cơ sở đến các hộ gia đình và từng người dân. Đặc trưng xã hội này là cơ sở xác định yếu tố tác động đến xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên. Luận án tiến sĩ triết học “Phát huy vai trò bộ đội địa phương trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà bình” của địch trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay” ( 2009) của Nguyễn Trường Sơn [121]. Trong đó, tác giả đã làm rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá Tây Nguyên của các thế lực thù địch và phân tích vai trò HTCTCS ở Tây Nguyên trong phòng, chống “DBHB” trên địa bàn. Đồng thời, tác giả chỉ ra thực trạng và đề xuất những nhóm giải pháp gồm: Xây dựng bộ đội địa phương các tỉnh Tây Nguyên vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong điều kiện mới; Cơ chế phối hợp và bảo đảm tài chính trong hoạt động xây dựng HTCTCS; Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ đội địa phương trong kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn Tây Nguyên. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập sâu sắc và toàn diện về đặc điểm, vai trò và các giải pháp xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay. Luận án tiến sĩ lịch sử “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 1996 đến năm 2006” (2012) của Lê Nhị Hòa [72] đã nghiên cứu làm sáng tỏ cả trên phương diện lý luận, tổng kết thực tiễn, hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên qua hai giai đoạn 1996 – 2000 và 2001 – 2006. Tác giả làm rõ kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng ở Tây Nguyên diễn ra theo 3 tuyến: kết hợp ngay trong mỗi lĩnh vực; kết hợp giữa hai lĩnh vực với nhau, kết hợp gián tiếp thông qua các lĩnh vực khác làm trung gian như: chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, đối ngoại… kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng tiến hành đồng thời và gắn bó chặt chẽ với nhau, trong đó phát triển kinh tế là trọng tâm, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu. Tác giả cũng làm rõ một 20 số hạn chế và đưa ra một số kinh nghiệm như: giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận lòng dân, đấu tranh chống những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Tuy nhiên, luận án chưa đề cập sâu sắc vấn đề vai trò của HTCT trong kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng và vấn đề xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên. Luận án tiến sĩ chính trị học “Tính tiền phong của đảng viên nông thôn các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay” (2012) của Nguyễn Văn Hào [66] đã luận giải khá rõ đặc điểm nông thôn Tây Nguyên, đưa ra khái niệm về tính tiền phong của đảng viên nông thôn ở địa bàn Tây Nguyên, đánh giá thực trạng, rút ra nguyên nhân và khái quát những kinh nghiệm, dự báo những nhân tố tác động và những giải pháp chủ yếu nâng cao tính tiền phong của đảng viên nông thôn ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, tác giả chưa luận giải rõ đặc trưng bản chất tính tiền phong của đảng viên chính là bản chất giai cấp công nhân, và tính tiên phong trong xây dựng tổ chức đảng, xây dựng HTCTCS (tr.65); trong chăm lo đời sống, vật chất, tinh thần của nhân dân. Luận án tiến sĩ chính trị học “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay” (2012) của Nguyễn Thành Dũng [62] đã phản ánh và luận giải về đặc điểm, địa lý, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, lịch sử văn hóa, dân tộc và đời sống của đồng bào Tây Nguyên; Phân tích chức năng, nhiệm vụ của Đảng ủy, HĐND,UBND cấp huyện ở Tây Nguyên; Đánh giá thực trạng, nguyên nhân và đúc rút bốn kinh nghiệm về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên; trên cơ sở những dự báo khoa học về tình hình quốc tế, trong nước và Tây Nguyên, tác giả đề ra hệ giải pháp nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân; cụ thể hóa tiêu chuẩn, chức danh cán bộ cấp huyện. Tuy nhiên, nội dung luận án
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan