BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
BÁO CÁO NGHIỆM THU
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CẤP CƠ SỞ
(Ñaõ chænh söû a theo Hoä i ñoà n g nghieä m thu ngaø y 31/12/2010)
XÂY DỰNG CÁC THÍ NGHIỆM ĐƠN GIẢN
NHẰM PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG DỰ ĐOÁN CHO TRẺ
5 - 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC
Mã số: CS.2009.19.49
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 – 2010
Toâi xin baøy toû loøng bieát ôn saâu saéc ñeán Ban Giaùm Hieäu, phoøng
Nghieân cöùu Khoa hoïc vaø caùc ñoàng nghieäp khoa Giaùo duïc Maàm non
tröôøng Ñaïi hoïc Sö phaïm TPHCM ñaõ taïo ñieàu kieän vaø hoã trôï cho toâi
trong quaù trình nghieân cöùu ñeà taøi.
Xin caûm ôn söï giuùp ñôõ, chia seû vaø ñoäng vieân cuûa gia ñình vaø baïn
beø trong quaù trình nghieân cöùu.
Maëc duø baûn thaân ñaõ coù nhieàu coá gaéng, song ñeà taøi nghieân cöùu
chaéc chaén khoâng traùnh khoûi nhöõng thieáu soùt. Toâi raát mong nhaän ñöôïc
söï chæ baûo, goùp yù cuûa caùc thaày coâ vaø ñoàng nghieäp.
Traân troïng caûm ôn!
TPHCM, ngaøy 20 thaùng 12 naêm 2010
Taùc giaû
ThS. Ñoã Chieâu Haïnh
i.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..........................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG THÍ
NGHIỆM NHẰM PHÁT TRIỂN KN DỰ ĐOÁN CHO TRẺ 5 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.....................................................................6
1.2. Các khái niệm cơ bản ............................................................................7
1.3. Vai trò của thí nghiệm đối với việc phát triển kỹ năng dự đoán
cho trẻ 5 - 6 tuổi ....................................................................................8
1.4. Trình tự tổ chức thí nghiệm nhằm phát triển kỹ năng dự đoán
cho trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐ khám phá khoa học .....................................11
1.5. Vai trò của GVMN khi sử dụng thí nghiệm nhằm phát triển kỹ
năng dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi ..............................................................16
1.6. Kết luận chương 1 .................................................................................20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THÍ NGHIỆM NHẰM
PHÁT TRIỂN KN DỰ ĐOÁN CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI TRONG
HĐ KHÁM PHÁ KHOA HỌC
2.1. Mục đích điều tra...................................................................................21
2.2. Đối tượng và phương pháp điều tra .......................................................21
2.3. Phân tích kết quả điều tra.......................................................................23
2.4. Kết luận chương 2 .................................................................................41
CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG VÀ THỬ NGHIỆM MỘT SỐ THÍ
NGHIỆM NHẰM PHÁT TRIỂN KN DỰ ĐOÁN CHO TRẺ 5 6 TUỔI TRONG HĐ KHÁM PHÁ KHOA HỌC
3.1. Cơ sở định hướng việc xây dựng thí nghiệm .........................................42
3.2. Tổ chức thử nghiệm...............................................................................44
3.3. Phân tích kết quả thử ngiệm ..................................................................46
3.4. Kết luận chương 3 .................................................................................60
KẾT LUẬN CHUNG ..................................................................................62
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................63
PHỤ LỤC.....................................................................................................65
ii.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GDMN
Giáo dục Mầm non
KN
Kỹ năng
HĐ
Hoạt động
TPHCM
Thành phố Hồ Chí Minh
GVMN
Giáo viên Mầm non
BGH
Ban giám hiệu
HĐCCĐ
Hoạt động có chủ đích
HĐG
Hoạt động góc
HĐNT
Hoạt động ngoài trời
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BIỂU BẢNG
Hình/Bảng
Nội dung
Trang
Hình 1.1.
Trình tự tổ chức thí nghiệm
16
Bảng 2.1.
Phương pháp và đối tượng điều tra
21
Bảng 2.2.
Trình độ chuyên môn, thâm niên công tác
23
Bảng 2.3.
Tầm quan trọng của thí nghiệm
24
Bảng 2.4.
Vai trò của thí nghiệm
24
Bảng 2.5.
Lứa tuổi có thể sử dụng thí nghiệm
26
Bảng 2.6.
Trình tự tổ chức thí nghiệm
28
Bảng 2.7.
Những bước GVMN không thực hiện khi tổ chức TN
30
Bảng 2.8.
Một số yêu cầu cần đảm bảo khi tổ chức thí nghiệm
31
Bảng 2.9.
Biện pháp phát triển KN dự đoán thông qua TN
32
Bảng 2.10. Khó khăn thường gặp khi sử dụng thí nghiệm
39
iii.
SUMMARY OF RESEARCH FINDINGS
Project title:
Designing simple science experiments to develop predicting skill for 5-6
years old children through exploring activities in preschool settings
Project code
: CS.2009.19.49.
Principle researcher
: Do Chieu Hanh.
Email
:
[email protected]
Implementing Institution : HoChiMinhCity University of Pedagogy
Duration of Research
1.
: from April 2009 to April 2010.
Research objectives
This research aims to designing simple science experiments in order to
develop predicting skill for 5-6 years old children through exploring
activities in preschools. Based on theoretical research and survey results of
using experiments to develop predicting skill for 5-6 years old children
through exploring activities in preschools, this study designed and piloted
several experiments to develop predicting skill for 5 - 6 years old children.
2.
Main research tasks
To researching theoretical framework for using experiments to develop
predicting skill for 5 - 6 years old children through exploring activities.
To investigate how predicting skill for 5-6 years old children are being
developed through using experiments in exploring activities by using
questionnaire and interviewing.
Design and pilot several experiments focusing around “Water” and
“Air” topic to develop predicting skill for 5-6 years old children in
preschool.
3.
Results:
Building process of exploring activities and finding out some teachers’
roles as guiding children to develop their predicting skill.
iv.
Pointing out how teachers’ guide exploring activities in preschool.
Designing and piloting several experiments focusing around “Water”
and “Air” topic to develop children’ predicting skill.
Collecting references to improve teachers’ using experiments ability.
v.
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
Tên đề tài:
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển kỹ năng dự đoán
cho trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động khám phá khoa học
Mã số
: CS.2009.19.49.
Chủ nhiệm đề tài
: ThS. Đỗ Chiêu Hạnh.
Điện thoại
E-mail
: 0908585253.
:
[email protected]
Cơ quan chủ trì đề tài : Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM - Khoa GDMN
Thời gian thực hiện
1.
: tháng 4 - 2009 đến tháng 4 - 2010.
Mục tiêu:
Nghiên cứu việc xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN
dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐ khám phá khoa học ở trường MN, nâng
cao hiệu quả tổ chức HĐ khám phá khoa học ở trường MN.
2.
Nội dung chính:
Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc sử dụng thí nghiệm nhằm phát triển
KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐ khám phá khoa học ở trường
MN.
Điều tra thực trạng sử dụng thí nghiệm trong HĐ khám phá khoa học ở
trường MN hiện nay.
Xây dựng và thử nghiệm một số thí nghiệm cho trẻ 5 - 6 tuổi khám phá
hai chủ đề “Nước” và “Không khí” nhằm phát triển KN dự đoán.
3.
Kết quả chính đạt được:
Xây dựng trình tự tổ chức thí nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ.
Chỉ ra một số yêu cầu GVMN cần phải đảm bảo khi sử dụng thí nghiệm
nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ.
Làm rõ thực trạng sử dụng thí nghiệm trong HĐ khám phá khoa học ở
các trường MN hiện nay.
Xây dựng các thí nghiệm cho trẻ khám phá hai chủ đề “Nước” và
“Không khí” nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ.
Thống kê các nguồn tài liệu tham khảo hỗ trợ việc sử dụng thí nghiệm.
vi.
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
MỞ ĐẦU
1.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đứng trước yêu cầu đổi mới Giáo dục Mầm non (GDMN), để hội nhập
với GDMN của các nước trong khu vực và trên thế giới, ngành GDMN đã và
đang từng bước đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến hình thức
giáo dục trẻ. Những phương hướng quan trọng của mục tiêu đổi mới được thể
hiện trước hết trong việc đổi mới chương trình GDMN. Từ năm 1998 đến
2009, trong mười một năm, chúng ta đã nghiên cứu và đưa ra các chương
trình như chương trình GDMN đổi mới hình thức tổ chức (thí điểm 1998) và
chương trình GDMN mới (thí điểm 2006, đại trà 2009). Các chương trình
này đều có điểm nổi bật là lấy trẻ làm trung tâm của hoạt động (HĐ) giáo
dục, dạy học tích hợp và sử dụng các phương pháp dạy học tích cực. Chương
trình GDMN mới khuyến khích giáo viên mầm non (GVMN) áp dụng các
phương pháp dạy học khác nhau một cách sáng tạo, chú trọng sử dụng các
phương pháp thực hành, trải nghiệm, trò chơi; chú ý phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của trẻ nhiều hơn; trẻ được tạo nhiều cơ hội hơn để tham
gia các HĐ trải nghiệm... Tuy nhiên, do mới chuyển từ cách dạy học cũ của
chương trình cải cách (dạy theo bộ môn, GV là trung tâm, sử dụng các
phương pháp dạy học truyền thống) sang cách dạy học tích cực của chương
trình mới nên GVMN còn nhiều băn khoăn, lúng túng và phụ thuộc nhiều vào
tài liệu hướng dẫn, vào sự định hướng của Ban giám hiệu (BGH). GVMN
vẫn còn máy móc, rập khuôn khi tổ chức các HĐ giáo dục; trẻ vẫn chưa được
trải nghiệm, chưa được khám phá môi trường xung quanh một cách tích cực
và chủ động.
Nhận thấy những khó khăn trên, thí nghiệm đã được mạnh dạn đưa vào
chương trình dạy học mà cụ thể là trong HĐ khám phá khoa học. Thí nghiệm
đáp ứng được một trong những yêu cầu của chương trình GDMN mới, đó là
dạy trẻ cách ‘suy nghĩ’ thay vì chú trọng cung cấp kiến thức cho trẻ như trong
các chương trình cũ. Thí nghiệm tạo nhiều cơ hội để trẻ khám phá môi trường
xung quanh một cách tích cực, chủ động và đầy hứng thú hơn. Tuy nhiên,
trên thực tế, GVMN vẫn còn lúng túng, chưa hiểu rõ bản chất, mục đích,
những ưu điểm của thí nghiệm trong HĐ khám phá khoa học. GVMN cho
rằng thí nghiệm là một cái gì đó quá khó so với khả năng của trẻ MN, chỉ có
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh (CS.2009.19.49)
1
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
học sinh cấp hai trở lên mới biết làm “thí nghiệm”. GVMN không biết cách
chọn thí nghiệm gì để tổ chức cho trẻ, không biết tiến hành HĐ này ra sao để
có thể làm cho trẻ hiểu, hứng thú và phát triển các KN tư duy mà chủ yếu vẫn
dựa vào sự hướng dẫn của BGH hoặc “sao chép” rập khuôn những giờ tổ
chức thí nghiệm “mẫu” mà GVMN được tham dự.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Xây
dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển kỹ năng dự đoán cho trẻ 5 - 6
tuổi trong HĐ khám phá khoa học” nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sử
dụng thí nghiệm trong HĐ khám phá khoa học ở trường MN.
2.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực trạng việc sử dụng các
thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua
HĐ khám phá khoa học ở trường MN hiện nay, xây dựng và thử nghiệm một
số thí nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi, góp phần nâng
cao hiệu quả sử dụng thí nghiệm cho trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐ khám phá khoa
học ở trường MN.
3.
KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi ở trường MN.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng và thử nghiệm một số thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển
KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐ khám phá khoa học ở trường MN.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc sử dụng thí nghiệm nhằm phát triển
KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐ khám phá khoa học.
4.2. Tìm hiểu thực trạng sử dụng thí nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán
cho trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐ khám phá khoa học ở một số trường MN tại
TPHCM.
4.3. Xây dựng và thử nghiệm một số thí nghiệm theo hai chủ đề “Nước” và
“Không khí” nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua
HĐ khám phá khoa học ở trường MN.
5.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Do hạn chế về thời gian và kinh phí nghiên cứu thực hiện đề tài nên
chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh (CS.2009.19.49)
2
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
5.1. Về nội dung nghiên cứu
Hiện nay, các HĐ giáo dục của trẻ ở trường MN hiện nay đều được thực
hiện theo chủ đề. Do giới hạn về kinh phí và thời gian nghiên cứu nên chúng
tôi chỉ xây dựng và thử nghiệm việc phát triển KN dự đoán cho trẻ qua chuỗi
các thí nghiệm thuộc hai chủ đề “Nước” và “Không khí”.
5.2. Về đối tượng nghiên cứu
Trẻ 5 - 6 tuổi ở trường MN.
5.3. Về địa bàn nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành điều tra thực trạng tại một số trường MN trên địa
bàn TPHCM, phân bố đều ở nội thành và ngoại thành của thành phố với các
loại hình trường công lập, bán công, tư thục và quốc tế.
Việc tiến hành thử nghiệm một số thí nghiệm mà đề tài đã xây dựng
được tiến hành tại 2 lớp Lá tại các trường MN trên địa TPHCM.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Cách tiếp cận nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, trước hết chúng tôi tiến hành nghiên cứu cơ sở
lý luận của việc sử dụng thí nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6
tuổi trong HĐ khám phá khoa học ở trường MN. Sau đó, chúng tôi xây dựng
phiếu trưng cầu ý kiến, các câu hỏi phỏng vấn và tiến hành điều tra thực trạng
sử dụng thí nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ trong HĐ khám phá
khoa học ở một số trường MN trên địa bàn TPHCM. Trên cơ sở nghiên cứu
lý luận và thực trạng, chúng tôi xây dựng chuỗi thí nghiệm thuộc hai chủ đề
“Nước” và “Không khí” và dạy thử nghiệm trên trẻ lớp Lá tại một số trường
MN trên địa bàn TPHCM. Sau khi dạy thử nghiệm trên trẻ, chúng tôi rút ra
những bài học kinh nghiệm cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng thí
nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường MN.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
2.3.4.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu nhằm tìm hiểu cơ sở
lý luận của việc sử dụng thí nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6
tuổi trong HĐ khám phá khoa học ở trường MN. Các tài liệu mà chúng tôi
tìm hiểu bao gồm: chương trình GDMN mới (Ban hành theo thông tư số
17/2009/TT-BGDĐT ngày 25/7/2009); các tài liệu có liên quan đến KN dự
đoán, HĐ khám phá khoa học; thí nghiệm cho trẻ MN, kế hoạch GD của
GVMN, các giáo án tổ chức HĐ thí nghiệm của GVMN…
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh (CS.2009.19.49)
3
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
2.3.4.2. Phương pháp điều tra
Chúng chúng tôi tiến hành điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến dành cho
các GVMN đang dạy ở một số trường MN bao gồm cả nội và ngoại thành
TP.HCM. Phương pháp này được sử dụng nhằm tìm hiểu nhận thức của
GVMN khi sử dụng thí nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
trong HĐ khám phá khoa học, những thuận lợi và khó khăn của GVMN trong
quá trình tổ chức cho trẻ làm thí nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán cho
trẻ... GVMN sẽ trả lời một hệ thống bao gồm 17 câu hỏi đã được chuẩn bị
sẵn và in thành phiếu. Sau đó, chúng chúng tôi tiến hành xử lý số liệu thu
được từ những phiếu trưng cầu ý kiến này và phân tích kết quả điều tra thực
trạng nhằm thu thập những thông tin cần thiết về thực trạng của việc sử dụng
thí nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐ khám phá
khoa học ở trường MN hiện nay. Tiếp theo, chúng chúng tôi sẽ dựa trên thực
trạng này để xây dựng và tổ chức thử nghiệm một số thí nghiệm nhằm phát
triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường MN.
2.3.4.3. Phương pháp phỏng vấn
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn GVMN nhằm tìm hiểu những thuận lợi
và khó khăn của GVMN khi sử dụng thí nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán
cho trẻ 5 - 6 tuổi và lắng nghe đề xuất của GV để khắc phục những khó khăn
đó. Đồng thời, chúng tôi cũng tiến hành phỏng vấn BGH các trường MN
nhằm tìm hiểu thực trạng việc sử dụng thí nghiệm nhằm phát triển KN dự
đoán cho trẻ và lắng nghe một số đề xuất của BGH ở vai trò người quản lý,
tạo điều kiện cho GVMN có thể phát triển KN dự đoán cho trẻ thông qua thí
nghiệm một cách tốt nhất. Đây là một trong những cơ sở để chúng tôi xây
dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
trong HĐ khám phá khoa học ở trường MN.
2.3.4.4. Phương pháp quan sát
Chúng tôi dự một số giờ GVMN tổ chức cho trẻ 5 - 6 tuổi làm thí
nghiệm ở trường MN nhằm tìm hiểu xem GVMN có chú trọng phát triển KN
dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi không, đồng thời tìm hiểu những khó khăn và thuận
lợi của GVMN khi sử dụng thí nghiệm nhằm mục đích phát triển KN dự
đoán.
2.3.4.5. Phương pháp thí nghiệm
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh (CS.2009.19.49)
4
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm giải quyết nhiệm vụ thứ ba
của đề tài. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực trạng phát triển KN
dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi khi sử dụng thí nghiệm, chúng tôi xây dựng và tổ
chức cho trẻ tham gia khám phá chuỗi thí nghiệm theo hai chủ đề “Nước” và
“Không khí” nhằm kiểm tra tính khả thi của các thí nghiệm mà đề tài đã xây
dựng.
2.3.4.6. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp thống kê toán học được sử dụng nhằm xử lý số liệu nghiên
cứu thu được từ phiếu trưng cầu ý kiến.
7.
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1. Đề tài đã xác định và hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc sử dụng thí
nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐ khám
phá khoa học ở trường MN.
7.2. Làm rõ thực trạng sử dụng thí nghiệm trong HĐ khám phá khoa học ở
một số trường MN trên địa bàn TPHCM.
7.3. Xây dựng và thử nghiệm một số thí nghiệm cho trẻ khám phá hai chủ đề
“Nước” và “Không khí” nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
trong HĐ khám phá khoa học.
7.4. Thống kê được nguồn tài liệu chuyên môn về thí nghiệm gồm có sách,
tài liệu dịch, các bài báo và các website.
8.
-
CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận của thí nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán
cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong HĐ khám phá khoa học.
-
Chương 2: Thực trạng sử dụng thí nghiệm nhằm phát triển KN dự đoán
cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong HĐ khám phá khoa học.
-
Chương 3: Xây dựng và thí nghiệm một số thí nghiệm nhằm phát triển
KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐ khám phá khoa học.
-
Kết luận và kiến nghị
-
Tài liệu tham khảo
-
Phụ lục
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh (CS.2009.19.49)
5
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÁC THÍ NGHIỆM
ĐƠN GIẢN NHẰM PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG DỰ ĐOÁN
CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC
1.1. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Vấn đề rèn luyện và phát triển KN dự đoán nói riêng và các KN nhận
thức nói chung thông qua hoạt động thí nghiệm đã được một số nhà nghiên
cứu quan tâm.
Ở nước ngoài, tác giả James Belly đã chỉ ra rằng, để việc tổ chức thí
nghiệm cho trẻ MN đạt hiệu quả cao thì GVMN cũng tiến hành cho trẻ khám
phá giống như các nhà khoa học thường làm. Các nhà khoa học thường
nghiên cứu vấn đề bắt đầu bằng những câu hỏi, sau đó học sẽ theo một trình
tự hoặc các phương pháp nhất định để tìm ra câu trả lời. Đối với trẻ cũng vậy,
GVMN cũng cần tuân thủ theo trình tự các bước và thông thường cần bắt đầu
bằng một câu hỏi. Các bước nghiên cứu thường bắt đầu theo trình tự như sau:
Xác định câu hỏi hoặc vấn đề, dự đoán câu trả lời, thực hiện thí nghiệm, quan
sát kết quả, rút ra kết luận, ghi chép kết quả cuối cùng (Sprung, Frosschi &
Campbell,1995). Kế thừa quan điểm này, tác giả Jamice Bealy cho rằng,
trong hoạt động khám phá khoa học của trẻ MN, GVMN cũng cần tiến hành
theo trình tự tương tự như trình tự nghiên cứu của các nhà khoa học qua các
bước như sau: xác định câu hỏi mà cô muốn trẻ trả lời, đoán xem câu trả lời
sẽ ra sao, xác định cách thức làm sao để trả lời được và cố gắng tìm ra nó,
quan sát cái gì sẽ xảy ra, nói về cái đã xảy ra và tranh luận về các câu trả lời
đúng - sai, ghi nhận lại những việc đã làm và những gì đã diễn ra.
Trong nước, có nhiều tác giả quan tâm đến việc tổ chức thí nghiệm cho
trẻ MN. Tác giả Huỳnh Thị Bích Liên (2007) nghiên cứu việc sử dụng thí
nghiệm trong hoạt động làm quen môi trường xung quanh ở trường MN.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả chỉ đi sâu vào vấn đề GVMN cần quan
tâm để tổ chức cho trẻ làm thí nghiệm đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời tác giả
cũng chỉ ra những ưu điểm của thí nghiệm có thể mang lại cho sự phát triển
toàn diện của trẻ.
Tác giả Lê Thị Minh Hạnh (2008) cũng nghiên cứu về việc tổ chức thí
nghiệm cho trẻ 5 - 6 tuổi. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, tác giả tập trung
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh (CS.2009.19.49)
6
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
vào mảng giáo dục môi trường - GVMN tổ chức thí nghiệm như thế nào để
giáo dục môi trường cho trẻ 5 - 6 tuổi.
Nhìn chung, nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đều khai
thác vào hiệu quả của việc sử dụng TN trong hoạt động làm quen môi trường
xung quanh nói chung mà chưa đi sâu vào nghiên cứu những lợi ích mà thí
nghiệm có thể mang lại cho sự phát triển các kỹ năng nhận thức của trẻ, đặc
biệt là kỹ năng dự đoán.
1.2. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Kỹ năng dự đoán
Theo từ điển GD học, KN là “khả năng thực hiện đúng hành động, HĐ
phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy, cho
dù đó là hành động cụ thể hay hành động trí tuệ” [7, tr.220]
Theo từ điển Tiếng Việt, “KN là khả năng vận dụng những kiến thức thu
nhận được trong một lĩnh vực nào nào đó vào thực tế. [6, tr.501]
Đối với trẻ MN nói chung và trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi nói riêng, có thể
hiểu “KN là khả năng vận dụng những kiến thức đã biết vào thực tế”.
Theo từ điển Tiếng Việt, “dự đoán” là đoán trước tình hình, sự việc nào
đó có thể xảy ra [6, tr.261]
Dự đoán chính là những điều mà trẻ nghĩ sẽ xảy ra trong tương lai. Tính
chính xác của dự đoán tùy thuộc vào kinh nghiệm và hiểu biết của trẻ [11,
tr.109].
Theo Karen K.Lind và Roslin Charlesworth thì dự đoán là “khả năng
đưa ra một nhận định nào đó sẽ xảy ra trong tương lai. Những dự đoán này
căn cứ trên những gì trẻ quan sát được và suy luận” [14, tr. 80]
Như vậy, đối với trẻ 5 - 6 tuổi, KN dự đoán là khả năng có thể đưa ra
một kết quả nào đó sắp xảy ra dựa trên kinh nghiệm và hiểu biết của trẻ.
1.2.2. Thí nghiệm
Từ ‘thí nghiệm’ trong tiếng Anh là ‘experiment’. Nó có nguồn gốc từ
nguyên ‘experimentum’ trong tiếng La-tinh, có nghĩa là ‘thử, thử thách, kiểm
tra, xét nghiệm, bằng chứng’ [3]
Còn theo tác giả Trần Thị Thanh, “Thí nghiệm có nghĩa là sự tự mày mò
hành động tìm kiếm, thí nghiệm trong thực tiễn để đi đến kết luận về điều dự
đoán trước hoặc trả lời những thắc mắc trong suy nghĩ” [8, tr. 73].
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh (CS.2009.19.49)
7
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
Tác giả Hoàng Thị Oanh cho rằng, đối với trẻ MN thì “thí nghiệm là
việc tổ chức cho trẻ hành động tác động vào đối tượng, làm thay đổi đối
tượng nhằm kiểm nghiệm một tính chất nào đó của sự vật hoặc tạo dựng lại
một hiện tượng nào đó trong tự nhiên”. [5, tr. 69].
Đồng ý kiến với các tác giả trên, theo chúng tôi, đối với trẻ MN, có thể
hiểu “Thí nghiệm là quá trình GV tổ chức cho trẻ tác động lên một sự vật,
hiện tượng nào đó, làm thay đổi nó trong một điều kiện nhất định để quan sát
sự thay đổi của sự vật, hiện tượng nhằm rút ra kết luận về đặc điểm, tính chất
và mối liên hệ giữa các sự vật hiện, hiện tượng đó.”
1.2.3. HĐ khám phá khoa học
Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì khoa học là “hệ
thống tri thức tích lũy trong quá trình lịch sử và được thực tiễn chứng minh,
phản ánh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như của
hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế
giới hiện thực” [6,484], còn khám phá là “tìm thấy, phát hiện ra cái ẩn giấu,
bí mật” [6, tr. 473].
Theo quan điểm của nhiều nhà khoa học thì cách tốt nhất để học khoa
học là phải làm khoa học. Đối với trẻ MN, làm khoa học cũng chính là quá
trình khám phá nó. Khám phá khoa học chính là việc GVMN tạo ra các điều
kiện, cơ hội và tổ chức các HĐ để cho trẻ tích cực tìm tòi, phát hiện những
điều thú vị về các sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ. Thông qua HĐ khám
phá khoa học, GV tạo ra các tình huống và tổ chức cho trẻ tiếp xúc, trải
nghiệm với các sự vật, hiện tượng của môi trường xung quanh, thông qua đó
trẻ có hiểu biết về đặc điểm, tính chất và mối quan hệ qua lại, sự phát triển và
thay đổi của các sự vật hiện tượng. Điều quan trọng hơn cả là qua HĐ khám
phá khoa học, trẻ học được các kỹ năng quan sát, so sánh, suy luận, dự đoán,
đo lường, giải quyết vấn đề, chuyển tải ý kiến của mình và đưa ra kết luận.
[5, tr. 16-17]
1.3. VAI TRÒ CỦA THÍ NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KỸ
NĂNG DỰ ĐOÁN CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON
Trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng và trẻ MN nói chung có nhu cầu tìm hiểu, khám
phá môi trường xung quanh rất mạnh mẽ. Trẻ rất hiếu động, tò mò, ham
muốn học hỏi, tìm hiểu các sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh. Tò
mò là một đặc tính bẩm sinh của trẻ. Câu hỏi thường xuyên của trẻ là "Tại
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh (CS.2009.19.49)
8
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
sao?” như Tại sao có cầu vồng? Cầu vồng là gì? Tại sao có gió? Ai làm ra
sóng? Tại sao phải tưới cây? Tại sao nước biển lại mặn? Tại sao có mưa? Tại
sao miếng sắt chìm trong khi con tàu cũng làm bằng sắt lại không chìm? Tại
sao bầu trời có màu xanh? Vân tay là gì? Bông hoa là con trai hay là con gái?
‘Thức ăn’ nào sẽ làm cho cây lớn nhanh nhất? Tại sao nam châm có thể hút
được vật? Mây có tên không? .... và muôn vàn cái tại sao khác. Một trong
những cách tốt nhất để trả lời các câu hỏi tại sao của trẻ là để trẻ tự tìm lấy
câu trả lời qua các HĐ thí nghiệm. Thí nghiệm tạo nhiều cơ hội cho trẻ HĐ,
cho trẻ học thông qua tìm tòi, khám phá, phát hiện, trải nghiệm, giải quyết
vấn đề...; giúp trẻ phát triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm - xã hội,
thẩm mỹ, đặc biệt là mặt nhận thức.
Thứ nhất, thí nghiệm cho trẻ thấy những thay đổi bất ngờ giống như làm
ảo thuật khiến trẻ vô cùng thích thú. Ví dụ như khi làm thí nghiệm với nước
bắp cải tím, trẻ chỉ cần bỏ xà bông vào thì nước màu tím sẽ biến thành màu
xanh, vắt chanh vào thì nước màu tím lại chuyển sang màu hồng giống như là
ảo thuật gia. Hơn nữa, việc trẻ được tự mình thực hiện những thí nghiệm đơn
giản hoặc tích cực tham gia cùng với Cô, với bạn sẽ dẫn đến việc phát triển
ham muốn nhận thức ở trẻ, khơi dậy ở trẻ tính tò mò, lòng ham hiểu biết.
Thứ hai, thí nghiệm tạo ra nhiều cơ hội để rèn luyện và phát triển ở trẻ
các KN như quan sát, so sánh, dự đoán, nhận ra sự biến đổi... Điều này sẽ
giúp trẻ hiểu các sự vật, hiện tượng trong thế giới xung quanh luôn luôn biến
đổi và điều này sẽ thúc đẩy trẻ tìm hiểu nguyên nhân của những biến đổi và
đặc biệt là thôi thúc trẻ dự đoán kết quả trước khi tiến hành một thí nghiệm
nào đó. Đây chính là cơ sở để chúng tôi nghiên cứu vai trò của thí nghiệm đối
với sự phát triển KN dự đoán của trẻ 5 - 6 tuổi.
Thứ ba, sau khi làm thí nghiệm, GVMN thường cho trẻ “ghi chép” lại
kết quả thí nghiệm bằng cách sử dụng những hình vẽ đơn giản hoặc ký hiệu
để ghi nhớ hoặc mô tả quá trình trẻ đã làm thí nghiệm, hoặc “viết” lại kết quả
thí nghiệm mà trẻ vừa làm xong. Điều này sẽ giúp phát triển ở trẻ tư duy trực
quan sơ đồ, một bước quan trọng để hình thành và phát triển tư duy logic cho
trẻ. Đồng thời, việc “ghi chép” này cũng chính là tiền đề chuẩn bị cho sự lĩnh
hội ngôn ngữ viết sau này.
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh (CS.2009.19.49)
9
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
Thứ tư, khi tham gia HĐ thí nghiệm, trẻ buộc phải dự đoán, phải suy
luận, qua đó hình thành kỹ năng suy luận cho trẻ, phát triển tư duy logic, hình
thành ở trẻ kỹ năng thiết lập mối quan hệ nhân - quả.
Đồng thời, khi tiến hành thí nghiệm, trẻ cần phải quan sát, mô tả và diễn
đạt bằng lời sự biến đổi của sự vật hiện tượng khi trẻ tác động tích cực vào và
trẻ giải thích các hiện tượng xảy ra theo cách hiểu của trẻ. Việc được mạnh
dạn diễn đạt lại những gì trẻ biết, hiểu và đã được làm như thế này không chỉ
giúp phát triển ngôn ngữ mạnh lạc cho trẻ mà còn hình thành ở trẻ tính tự tin,
mạnh dạn và duy trì hứng thú của trẻ đối với các HĐ nhận thức.
Ngoài ra, phần lớn các thí nghiệm đều được tổ chức dưới hình thức HĐ
nhóm nên trẻ có nhiều cơ hội để phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp
tác, kỹ năng làm việc theo nhóm (phân công công việc, thỏa thuận, bàn
bạc...). Đây là một trong những “KN mềm” rất cần thiết cho trẻ trong cuộc
sống sau này.
Cuối cùng, thí nghiệm là một dạng HĐ thực hành. Do đó, nó giúp trẻ
phát triển khả năng ứng dụng hiểu biết vào thực tiễn, phát triển khả năng
sáng tạo của trẻ. Đây cũng chính là ưu điểm khá lớn của thí nghiệm. Thông
qua thí nghiệm, trẻ thấy được ý nghĩa của những gì mà trẻ đang làm, đang
học và có cơ hội được vận dụng những hiểu biết vừa có được qua thí nghiệm
vào thực tế. Ví dụ như sau khi làm thí nghiệm cây cần ánh sáng để phát triển,
trẻ có thể đi tìm những chậu cây nào đang được đặt ở những nơi không có
hoặc thiếu ánh sáng để mang ra ngoài nắng. Hoặc qua thí nghiệm làm ra đất
mùn. ‘thức ăn’ mà cây ưa thích nhất, cô và trẻ có thể tự làm ra đất mùn từ
thức ăn thừa của lớp, từ vỏ trái cây mà trẻ ăn tráng miệng, từ lá vàng của các
chậu câu ở góc thiên nhiên… và sau đó bón cho cây ở góc thiên nhiên…Hay
sau khi làm thí nghiệm ‘Cây thích uống loại nước nào nhất’ (nước thường,
nước dấm, nước xà bông, nước rửa rau/trái cây/thịt, nước xả quần áo…), trẻ
biết nên tận dụng loại nước nào để tưới cây và không nên dùng loại nước nào.
Như vậy, thí nghiệm giúp trẻ lĩnh hội những khái niệm ban đầu, những
tri thức tiền khoa học một cách chủ động và tích cực. Trẻ được tự tay thực
hiện, được trực tiếp quan sát hiện tượng xảy ra trong những điều kiện tự quy
định, điều này sẽ mang lại cho trẻ rất nhiều hứng thú và kích thích trẻ tiếp tục
tìm tòi, khám phá những điều mới mẻ trong thế giới xung quanh. Đồng thời,
thông qua thí nghiệm, trẻ nhận biết được sự biến đổi không ngừng của các sự
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh (CS.2009.19.49)
10
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
vật hiện tượng trong thế giới xung quanh, điều này thúc đẩy trẻ tìm hiểu
nguyên nhân của sự biến đổi đó và cố gắng suy nghĩ, vận dụng những kinh
nghiệm, hiểu biết đã có để có thể dự đoán kết quả.
1.4. TRÌNH TỰ TỔ CHỨC THÍ NGHIỆM NHẰM PHÁT TRIỂN KỸ
NĂNG DỰ ĐOÁN CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI TRONG HĐ KHÁM PHÁ
KHOA HỌC
Để phát triển KN dự đoán cho trẻ thông qua thí nghiệm, GVMN cần
đảm bảo trình tự tiến hành thí nghiệm như sau:
Bước 1: Xác định vấn đề / nội dung thí nghiệm
Đây là bước khơi dậy ở trẻ óc tò mò và sự hiếu kỳ.
Ở bước này, GVMN sẽ tiến hành đàm thoại, đặt câu hỏi cho trẻ hoặc
đưa trẻ vào một tình huống có vấn đề nhằm hướng sự chú ý của trẻ tới nội
dung muốn cho trẻ khám phá. Cuộc trò chuyện ngắn này cần kết thúc bằng
một câu hỏi và quá trình tổ chức cho trẻ làm thí nghiệm chính là quá trình đi
tìm câu trả lời cho câu hỏi mà cô và trẻ vừa đặt ra. Ví dụ: khi cho trẻ làm thí
nghiệm “Hạt cần gì để nảy mầm”, GVMN cần trò chuyện với trẻ như thế nào
để cuối cùng là câu hỏi: Theo các con, hạt cần gì để nẩy mầm? Chúng ta phải
làm gì để hạt đậu xanh này nẩy mầm và lớn lên thành cây?”. Hoặc đối với
các thí nghiệm về “Nước”, GVMN có thể đặt các câu hỏi như sau: Bằng cách
nào để làm nổi một vật chìm trong nước? Làm sao để làm chìm một vật nổi
trong nước? Nước ở đâu sẽ bay hơi nhanh hơn (trong ly hay trong đĩa…)?
Mực nước sẽ cao hơn hay thấp đi khi đông thành đá? Nước mặn “nặng” hay
“nhẹ” hơn so với nước ngọt? Làm sao để biết được điều đó? Không khí là gì?
Có bắt và “nhốt” không khí được không nhỉ? Làm sao để “cân” được không
khí? Trong các loại như trái cây, bánh mì, gạo... không biết cái nào hư trước
nhất? Cầu vồng là gì? Chúng ta có thể tạo ra cầu vồng được không nhỉ? Làm
cách nào để tạo ra cầu vồng?...
Ngoài ra, GVMN có thể xây dựng một tình huống có vấn đề để trẻ giải
quyết. Ví dụ như đối với đề tài “Vật liệu nào thấm nước tốt nhất”, GVMN có
thể tạo tình huống là có một vũng nước bị đổ ở sàn và đề nghị trẻ ‘hiến kế’
những cách có thể làm khô chỗ nước đó đi? Hoặc với thí nghiệm về nhiệt,
GVMN có thể đưa ra một quả bóng bị méo và đề nghị trẻ “giúp đỡ cô”, làm
cho quả bóng tròn lại. Đối với thí nghiệm về nam châm, GVMN có thể yêu
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh (CS.2009.19.49)
11
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
cầu trẻ lấy một đồ vật nào đó bằng sắt, inox… cô lỡ đánh rơi ra khỏi một cái
hũ bằng thủy tinh hoặc “truy tìm kho báu” hoặc chiếc chìa khóa cô lỡ đánh
rơi mất trong chậu cát mà không được dùng tay.
Bước 2: Cho trẻ đưa ra dự đoán
Đây chính là bước quan trọng nhất để có thể phát triển KN dự đoán cho
trẻ thông qua HĐ thí nghiệm. Đồng thời, qua bước này, chúng ta có thể phát
triển một số kỹ năng tư duy cho trẻ như quan sát, so sánh, phân loại, suy luận,
phân tích...
Trong bước này, GVMN cần đưa ra câu hỏi “Nếu chúng ta làm như thế
này thì chuyện gì sẽ xảy ra?” để trẻ đưa ra dự đoán của mình. Ví dụ như khi
làm thí nghiệm đề tài “Bắp cải tím đổi màu”, GV cần đưa ra câu hỏi để trẻ dự
đoán “Cô đố các con, nếu bỏ chanh/ xà bông vào nước bắp cải tím thì chuyện
gì sẽ xảy ra? Nước màu tím sẽ biến thành màu gì?”, hoặc đối với đề tài “Vật
nổi, vật chìm”, GV sẽ đưa câu hỏi sau cho trẻ dự đoán “Trong 10 đồ vật trước
mặt các con, cô đố các con, nếu bỏ vào nước thì vật nào sẽ nổi và vật nào sẽ
chìm?”, hoặc đối với đề tài “Làm sinh tố mà không cần tủ lạnh”. GV có thể
đặt câu hỏi như sau “Bằng cách nào/ Làm như thế nào để làm một bịch sinh
tố mà không cần tủ lạnh” (nước loãng sẽ đông lại cứng hơn). Đối với đề tài
“Cân không khí”, GVMN có thể đặt câu hỏi: Vậy không khí nóng sẽ nhẹ hơn
hay nặng hơn so với không khí lạnh”... Sau khi đặt câu hỏi hoặc đưa ra tình
huống có vấn đề, GV cần dành thời gian để cho trẻ đưa ra dự đoán. GV có
thể viết hoặc vẽ nhanh dự đoán của trẻ để sau khi làm thí nghiệm xong, trẻ có
thể so sánh kết quả cuối cùng với dự đoán ban đầu. Dự đoán của trẻ có thể
đúng, nhưng cũng có thể sai, và thường là sai vì trẻ thiếu kinh nghiệm. Tính
đúng/ sai của dự đoán không quan trọng và GVMN cần chấp nhận và khuyến
khích tất cả các dự đoán mà trẻ đưa ra và tạo cơ hội để trẻ kiểm chứng những
dự đoán này. Điều quan trọng ở đây là trẻ bắt buộc phải “động não”, phải sử
dụng các kỹ năng quan sát, suy luận, phân tích… để đưa ra dự đoán của mình
về những gì sắp/ sẽ xảy ra trong thí nghiệm sắp làm. Ở bước này, GVMN cần
khuyến khích, động viên trẻ nào cũng đưa ra dự đoán của riêng mình. Nếu có
nhiều thời gian, GVMN có thể hỏi trẻ lý do tại sao lại đưa ra dự đoán như vậy
để lắng nghe trẻ lý giải sự việc. Đây không chỉ là cơ hội để phát triển KN dự
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh (CS.2009.19.49)
12
Xây dựng các thí nghiệm đơn giản nhằm phát triển KN dự đoán cho trẻ 5 - 6 tuổi
đoán cho trẻ mà còn phát triển ở trẻ các KN khác như suy luận, lập luận,
giao tiếp...
Bước 3: GV cho trẻ tiến hành làm thí nghiệm
Sau khi trẻ đưa ra dự đoán, GV tiến hành cho trẻ làm thí nghiệm để
kiểm chứng những dự đoán đã đưa ra.
Trong quá trình này, GV cần lưu ý cho trẻ được tự mình làm thí nghiệm.
GV không nên làm thay trẻ mà chỉ hướng dẫn bằng lời. Khi tham gia vào HĐ
thí nghiệm, thất bại cũng có giá trị như thành công. Thất bại cũng là cơ hội
cho trẻ học. Do đó, kết quả không quan trọng bằng quá trình [11, tr. 109]. Đối
với trẻ MN nói chung và trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng, hiệu quả của HĐ thí nghiệm
nằm ở quá trình trẻ được làm thí nghiệm một cách tích cực, chủ động, hứng
thú chứ không nằm ở kết quả thí nghiệm. Nếu có điều kiện (về thời gian, về
đồ dùng dạy học…), GVMN có thể cho phép trẻ thử - sai hoặc lập lại nhiều
lần để kiểm chứng dự đoán đúng hay chưa đúng. Đồng thời, qua việc thử- sai
nhiều lần như thế này có thể tập cho trẻ tính kiên trì và kỹ năng ghi nhận
thông tin chính xác.
Bước 4: GV hướng dẫn trẻ quan sát và phân tích kết quả
Trong quá trình trẻ làm thí nghiệm, GV cần hướng dẫn trẻ quan sát và
phân tích kết quả. Do thí nghiệm thường tổ chức dưới hình thức HĐ nhóm
nên GV có thể đi từng nhóm để hướng dẫn. Đối với thí nghiệm kéo dài như
cây cần nước để lớn lên, nước bốc hơi, sự cần thiết của ánh sáng mặt trời đối
với cây xanh, cây mọc từ củ (củ hành, khoai lang, khoai tây), giỏ hoa cà
rốt…, GV cần hướng dẫn trẻ quan sát, đo đạc mỗi ngày và ghi chép lại kết
quả từng ngày. Trong bước này, GV cần khuyến khích, động viên trẻ cố gắng
giải thích những gì quan sát được. Đồng thời, cần hướng dẫn trẻ so sánh kết
quả thí nghiệm với trạng thái ban đầu của đối tượng thí nghiệm, so sánh với
những gì trẻ đã dự đoán ở bước hai. Nếu trẻ chưa hiểu nội dung, bản chất của
thí nghiệm, GV có thể giải thích một cách đơn giản, dễ hiểu nhất, phù hợp
với khả năng nhận thức của trẻ 5 - 6 tuổi. Điều quan trọng là GVMN cần cho
trẻ phân tích kiến thức lĩnh hội được qua thí nghiệm đó và hình thành ở trẻ
thái độ tích cực đối với thế giới xung quanh” [11, tr. 109]
Ví dụ khi tổ chức cho trẻ làm thí nghiệm mỗi loại cây cần lượng nước
khác nhau, từ đó trẻ biết cách chăm sóc từng loại cây tốt hơn. Hoặc khi cho
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đỗ Chiêu Hạnh (CS.2009.19.49)
13