Trường ĐH Luật Hà Nội - Lớp Luật HN và GĐ N03 – Bài tập Lớn/Học kỳ
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................2
I/ Khái quát chung.............................................................................................2
1)
Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình.................................2
2)
Quyền học tập của con cái.........................................................................4
II/ Nghĩa vụ của cha mẹ trong việc đảm bảo quyền học tập của con cái..........4
III/ Ý nghĩa của việc quy định nghĩa vụ của cha mẹ trong việc đảm bảo quyền
học tập của con cái................................................................................................8
KẾT LUẬN.......................................................................................................9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................10
1
Sinh viên: Thân Quốc Long - Nhóm 9 - MSSV: 351111
Trường ĐH Luật Hà Nội - Lớp Luật HN và GĐ N03 – Bài tập Lớn/Học kỳ
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu học tập của mỗi cá nhân ngày càng
cao. Đặc biệt, việc học tập đối với trẻ em lại càng quan trọng hơn. Tương lai đất
nước phụ thuộc rất nhiều vào thế hệ trẻ, những người hiện nay vẫn đang miệt mài
học tập, tích lũy tri thức. Để đảm bảo quyền được học tập của trẻ em, nhà nước đã
tạo điều kiện hết sức thuận lợi thông qua các chính sách pháp luật, chính sách xã
hội. Nhưng quan trọng nhất, gần gũi nhất và có ảnh hưởng nhất đến việc học tập
của trẻ em chính là việc chăm sóc, quản lý của cha mẹ. Chính vì vậy, pháp luật
Việt Nam cũng đã có những quy định về nghĩa vụ của cha mẹ trong việc đảm bảo
quyền được học tập của con. Những quy định này không chỉ đảm bảo việc học tập,
phát triển của trẻ em mà còn thúc đẩy quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ
đối với con cái. Từ đó giúp gia đình thực hiện tốt chức năng là tế bào của xã hội,
góp phần xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh.
Vậy những quy định về nghĩa vụ của cha mẹ trong việc đảm bảo quyền được
học tập của con là như thế nào? Thực tế việc áp dụng các quy định này ở Việt Nam
ra sao? Chúng ta sẽ cùng làm rõ sau đây.
I/ Khái quát chung
1) Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình
Theo quy định tại khoản 10 Điều 8 Luật HNGĐ năm 200 thì gia đình là tập hợp
những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ
nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định
của Luật này. Trọng phạm vi bài làm này, ta chỉ xét đến mối quan hệ giữa cha mẹ
và con cái trong gia đình.
Nếu quan hệ giữa vợ chồng là quan hệ pháp lí phát sinh do hôn nhân thì quan hệ
giữa cha mẹ và con cái là quan hệ tràn đầy tình cảm yêu thương chăm sóc như một
lẽ tự nhiên, nhưng lại đầy ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ trước xã hội. Nói đến
trách nhiệm làm cha mẹ là nói đến thiên chức thiêng liêng cao cả nhất của mỗi con
2
Sinh viên: Thân Quốc Long - Nhóm 9 - MSSV: 351111
Trường ĐH Luật Hà Nội - Lớp Luật HN và GĐ N03 – Bài tập Lớn/Học kỳ
người. Ngoài thiên chức ấy cha mẹ còn có trách nhiệm nặng nề của một công dân
đối với đất nước, dòng họ, đối với gia đình và đối với bản thân. Trách nhiệm làm
cha mẹ xuất phát từ trách nhiệm của công dân đối với cộng đồng xã hội. Gia đình
vốn được coi là tế bào của xã hội, bởi vậy gia đình có tốt thì xã hội mới tốt đẹp. Đó
cũng là lí do tại sao gia đình luôn tìm được chỗ đứng ở mọi chế độ xã hội. Từ chế
độ phong kiến xưa kia đã đề ra nguyên tắc: tu thân, tề gia sau đó mới đến trị quốc
và bình thiên hạ. Ngày nay xã hội đòi hỏi mỗi gia đình phải có trách nhiệm xây
dựng gia đình mình thành gia đình văn hóa và nhất là phải có trách nhiệm nuôi dạy
con cái thành những công dân tốt cho xã hội.
Tuy nhiên khi xét về mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình thì đặc
trưng nổi bật nhất chính là tình yêu thương một cách tự nhiên và tự nguyện. Sự
chăm sóc nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con cái tự nhiên đến nỗi tầm quan trọng
cực kì của chúng cũng như những quy định pháp lý đôi khi bị lãng quên. Không có
quan hệ nào giữa người với người lại đem đặt những người này phụ thuộc vào
những người khác một cách vô điều kiện và liên tục như vậy. Mỗi con người từ khi
còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi trưởng thành luôn được hưởng sự chăm sóc,
tình thương yêu lo lắng của các bậc sinh thành. Chính tình yêu thương và công lao
to lớn của cha mẹ là nhân tố quan trọng nhen nhóm và nuôi dưỡng những phẩm
chất đạo đức cho con cái: lòng nhân ái, những cảm xúc yêu thương, ý thức nghĩa
vụ, đạo lí làm người...
Thực tiễn đời sống xã hội cho phép chúng ta tin tưởng rằng gia đình cùng với
những mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ là trường học đầu tiên giáo dục trí tuệ,
đạo đức, thể chất, thẩm mĩ cho con người. Đứa trẻ trong gia đình là con của cha mẹ
nhưng đồng thời cũng là người công dân tương lai của đất nước. Vì vậy ngoài việc
chăm sóc và yêu thương con cái, cha mẹ còn có nghĩa vụ hết sức nặng nề đó là
giáo dục con cái mình trở thành những người công dân có ích cho xã hội.
2) Quyền học tập của con cái
3
Sinh viên: Thân Quốc Long - Nhóm 9 - MSSV: 351111
Trường ĐH Luật Hà Nội - Lớp Luật HN và GĐ N03 – Bài tập Lớn/Học kỳ
Quyền học tập là một trong số những quyền cơ bản của con người. Điều này
được ghi nhận trong rất nhiều những văn kiện quan trọng ở Việt Nam cũng như
trên toàn thế giới. Ngay trong Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, tại Điều 59 đã quy định: Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân,
công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức. Như vậy, quyền
học tập vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của công dân Việt Nam đã được hiến pháp
quy định. Quyền học tập của công dân Việt Nam là nghĩa vụ tự nguyện của mỗi cá
nhân, là sự bắt buộc (ở bậc tiểu học), là sự bảo đảm, khuyến khích của gia đình, xã
hội và nhà nước, không phụ thuộc vào lứa tuổi, thành phần xuất thân, tín ngưỡng
tôn giáo hay địa vị xã hội. Cả những người phạm pháp, bị giam giữ cũng được bảo
đảm quyền học tập bằng những hình thức, biện pháp thích hợp. Quyền học tập
được thực hiện suốt đời. Nội dung học tập bao gồm học văn hóa, học nghề, học
những gì có ích cho cuộc sống lương thiện. Ngăn cản, hạn chế quyền học tập của
công dân dù là ngăn cản của cha mẹ đối với con cái, của chồng đối với vợ hoặc
ngược lại là hành vi vi phạm pháp luật.
Trên cơ sở Điều 59 Hiến pháp, quy định về quyền học tập của công dân nói
chung và quyền học tập của con cái trong gia đình nói riêng đã được xác định trong
rất nhiều văn bản pháp luật như Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Điều 35.
Nghĩa vụ và quyền của con), Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004
(Điều 16. Quyền được học tập của trẻ em), Luật Giáo dục năm 2010 (Điều 10.
Quyền và nghĩa vụ học tập của công dân)…
II/ Nghĩa vụ của cha mẹ trong việc đảm bảo quyền học tập của con cái
Điều 37 Luật HNGĐ năm 2000 quy định nghĩa vụ của cha mẹ trong việc đảm
bảo quyền học tập của con như sau:
Điều 37. Nghĩa vụ và quyền giáo dục con
1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con
học tập.
4
Sinh viên: Thân Quốc Long - Nhóm 9 - MSSV: 351111
Trường ĐH Luật Hà Nội - Lớp Luật HN và GĐ N03 – Bài tập Lớn/Học kỳ
Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm,
hoà thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường
và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con.
2. Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham
gia hoạt động xã hội của con.
3. Khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được, cha mẹ có thể đề nghị cơ
quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con.
Bên cạnh đó, nghĩa vụ của cha mẹ trong việc đảm bảo quyền học tập của con
còn được quy định tại Điều 94 Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm
2010):
Điều 94: Trách nhiệm của gia đình
1. Cha mẹ hoặc người giám hộ có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục và chăm
sóc, tạo điều kiện cho con em hoặc người được giám hộ được học tập, rèn luyện,
tham gia các hoạt động của nhà trường.
Như vậy, qua quy định của pháp luật, ta có thể thấy, cha mẹ đảm bảo quyền học
tập của con bằng việc tạo điều kiện cho con học tập, phối hợp với nhà trường giáo
dục con và hướng dẫn con chọn nghề, học nghề. Pháp luật cũng quy định đối với
các trường hợp cha mẹ không thể tự giải quyết thì có thể nhờ cơ quan hữu quan
giúp đỡ. Có thể thấy, các quy định trên đây mang tính chất hết sức cơ bản, làm nền
tảng cho việc đảm bảo quyền học tập của con cái.
Tuy nhiên, khái niệm “chăm lo và tạo điều kiện” mà pháp luật quy định đôi khi
được nhiều người hiểu theo những cách khác nhau, từ đó dẫn đến việc giáo dục
con trong mỗi gia đình là khác nhau. Có nhiều gia đình tạo điều kiện học tập cho
con bằng cách đầu tư nhiều tiền bạc, phương tiện cho con cũng như thuê người
kèm cặp, dạy thêm tại nhà và cho con đi học ở nhiều nơi. Có gia đình dành thời
gian dạy dỗ, trò chuyện tâm sự cùng con, định hướng học tập cho con. Cũng có
những gia đình chăm lo cho con theo kiểu “muốn gì được nấy” dẫn đến nhiều
5
Sinh viên: Thân Quốc Long - Nhóm 9 - MSSV: 351111
Trường ĐH Luật Hà Nội - Lớp Luật HN và GĐ N03 – Bài tập Lớn/Học kỳ
trường hợp con cái được nuông chiều sinh ra hư hỏng. Về cơ bản thì pháp luật
không có quy định về cách thức chăm sóc, tạo điều kiện cho con cái học tập và
cũng không thể đưa ra những quy định như vậy vì hoàn cảnh của mỗi gia đình là
hoàn toàn khác nhau. Chính vì vậy mà việc thực hiện nghĩa vụ của cha mẹ trong
việc đảm bảo quyền học tập của con cái không thể chỉ gói gọi trong việc xem xét
Luật Hôn nhân gia đình hay bất cứ bộ luật nào khác mà còn phải dựa vào nhiều
yếu tố khác nhau như hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, điều kiện xã hội…
Đối với cha mẹ, giáo dục con cái là nhiệm vụ thiêng liêng nhưng cũng hết sức
nặng nề, đòi hỏi phải có nghệ thuật. Theo Socrate và Platon thì tình yêu thương
thái quá của cha mẹ sẽ sản sinh ra chủ nghĩa cá nhân, tính tham lam ích kỉ và
những thói xấu khác, ngăn cản nhân loại hòa hợp vào một cộng đồng anh em thống
nhất. Trên thực tế, ngay từ khi trẻ chưa đầy hai tuổi, cha mẹ đã bắt đầu dạy nó cách
ứng xử trong những tình huống khác nhau. Theo E.Erikson đây là thời điểm mà
tiến trình xã hội hóa cá nhân thực sự bắt đầu. Nhiệm vụ giáo dục đứa trẻ lúc này
được đặt ra đối với cả cha và mẹ. Người mẹ lúc này không còn đóng vai trò quan
trọng tuyệt đối nữa mà chia sẻ vai trò ấy với người cha. Những công việc tỉ mỉ
thông thường người mẹ vẫn nên đảm nhận, kèm theo đó là những trừng phạt nhỏ
khi đứa trẻ mắc lỗi. Trẻ thường dễ chấp nhận những quở trách đầu tiên từ người
mẹ vì vậy lúc này người cha chỉ nên đóng vai trò ủng hộ người mẹ trong việc giáo
dục con mà thôi. Tất nhiên trước đó cha mẹ cần có sự thống nhất để tránh trường
hợp xung đột ngay trước mặt đứa trẻ. Như vậy không có nghĩa là người cha luôn
luôn chỉ đóng vai trò gián tiếp trong việc giáo dục con. Việc đứng cạnh hay sau
người vợ trong việc chăm sóc và giáo dục con ở thời gian đầu không vì thế mà bớt
phần quan trọng. Trong một số trường hợp sự can thiệp đúng lúc và có chừng mực
của người cha là rất cần thiết. Người cha nên can thiệp với thái độ dứt khoát, nhanh
chóng, kiên quyết và tức thời. Đứa trẻ cần phải được chứng minh một điều rằng
người cha chính là người mang những ánh sáng của trí tuệ và kinh ngiệm của bản
6
Sinh viên: Thân Quốc Long - Nhóm 9 - MSSV: 351111
Trường ĐH Luật Hà Nội - Lớp Luật HN và GĐ N03 – Bài tập Lớn/Học kỳ
thân đến với nó, đồng thời luôn sẵn sàng chia sẻ mọi cảm xúc với nó. Cha mẹ giáo
dục con phải bằng cuộc sống của mình vì chính những hành động tốt đẹp của cha
mẹ trong cuộc sống hằng ngày mới đủ sức lay động lòng con trẻ.
Nói cách khác, cha mẹ đảm bảo quyền học tập của con không chỉ đơn giản là
cho con đi học mà còn phải đảm bảo con có môi trường học tập tốt nhất không chỉ
ở nhà trường mà cả trong gia đình. Người cha, mẹ có thể không có hiểu biết, kiến
thức sâu rộng như luôn có thể dạy dỗ con bằng kinh nghiệp sống cũng như phẩm
chất đạo đức của mình. Cha mẹ có những hành vi, cử chỉ, lời nói không đúng mực
cũng làm ảnh hưởng đến nhân cách của con. Việc giáo dục hay tạo điều kiện không
đúng cách cũng có thể coi như không đảm bảo quyền học tập của con cái.
Bên cạnh việc tạo điều kiện cho con học tập, cha mẹ còn có nghĩa vụ định
hướng cho con trong việc chọn nghề, học nghề cũng như những vấn đề về tương
lai của con. Khoản 2 Điều 37 Luật HNGĐ quy định như vậy không có nghĩa là cha
mẹ có quyền bắt con theo học nghề gì, làm việc gì. Việc định hướng ở đây chỉ
mang tính chất hướng dẫn, chỉ bảo, giúp con có thể đưa ra những lựa chọn sáng
suốt và phù hợp với bản thân. Bởi cha mẹ là người sinh ra và nuôi lớn con nên hơn
ai hết, chính cha mẹ là người hiểu rõ con nhất. Trên cơ sở những hiểu biết của cha
mẹ về con cái và những kinh nghiệm cuộc sống, cha mẹ có thể đưa ra cho con
những lời khuyên về việc học tập cũng như lựa chọn công việc sau này. Tuy nhiên,
vấn đề thường gặp hiện nay là việc giữa cha mẹ và con cái thường có những
khoảng cách lớn, khó nói chuyện, thậm chí là bất đồng quan điểm gay gắt. Bằng
cách này hay cách khác, mỗi gia đình nên tìm một cách tốt nhất để giải quyết vấn
đề này. Bởi bản thân pháp luật không thể nào đi sâu vào mỗi gia đình, quy định cụ
thể cách thức dạy con cho các bậc cha mẹ. Hơn nữa, như đã nói ở trên, mối quan
hệ giữa cha mẹ với con cái thường mang tính tình cảm nhiều hơn tính pháp lý nên
việc giáo dục con cái của cha mẹ hiện nay thường bị ảnh hưởng của truyền thống
văn hóa, đạo đức, tư tưởng hơn là ảnh hưởng từ pháp luật.
7
Sinh viên: Thân Quốc Long - Nhóm 9 - MSSV: 351111
Trường ĐH Luật Hà Nội - Lớp Luật HN và GĐ N03 – Bài tập Lớn/Học kỳ
Ngoài các quy định về nghĩa vụ tạo điều kiện học tập, định hướng học tập cho
con cái, pháp luật cũng cho phép bố mẹ nhờ đến sự can thiệp của các cơ quan chức
năng nếu không thể tự giải quyết. Trên thực tế cũng có không ít những trường hợp
mà bố mẹ không thể dạy bảo được con cái mà buộc phải nhờ đến cơ quan nhà nước
có thẩm quyền vào cuộc. Đối với những trường hợp này, có thể do cha mẹ đã
không thực hiện nghĩa vụ đảm bảo quyền học tập của con cái hoặc đã thực hiện
nhưng cách thức thực hiện có những sai lầm nghiêm trọng, dẫn đến việc con cái hư
hỏng đến mức cha mẹ không thể tự giải quyết được. Điều này trước hết ảnh hưởng
đến chính những gia đình đó và còn ảnh hưởng đến toàn xã hội.
III/ Ý nghĩa của việc quy định nghĩa vụ của cha mẹ trong việc đảm bảo
quyền học tập của con cái
Như đã nói ở trên, vai trò của gia đình đối với đất nước là vô cùng quan trọng,
chính vì thế, những bậc làm cha làm mẹ càng có trách nhiệm nặng nề trong việc
đảm bảo quyền học tập của con cái – đảm bảo cho tương lai của đất nước.
Về mặt pháp lý, những quy định về nghĩa vụ của cha mẹ trong việc đảm bảo
quyền học tập của con cái đã góp phần cụ thể hóa quy định về quyền học tập của
công dân, củng cố mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình. Những quy
định này tạo tiền đề, cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề pháp lý phát sinh
trong lĩnh vực HNGĐ, giúp giải quyết những vụ việc con cái bị ngược đãi, bị hạn
chế quyền học tập hay những trường hợp tương tự…
Về mặt xã hội, những quy định này giúp ổn định sự tồn tại và phát triển của xã
hội, đảm bảo hạnh phúc gia đình. Bằng việc đảm bảo quyền học tập của con cái,
cha mẹ không chỉ đảm bảo cho tương lại của con mà còn phần nào tạo điều kiện
cho con cái có thể phụng dưỡng mình khi về già. Những quy định này cũng phản
ánh trình độ phát triển của xã hội, thể hiện tư tưởng, nền tảng đạo đức của dân tộc,
cũng như những truyền thống văn hóa tốt đẹp được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
8
Sinh viên: Thân Quốc Long - Nhóm 9 - MSSV: 351111
Trường ĐH Luật Hà Nội - Lớp Luật HN và GĐ N03 – Bài tập Lớn/Học kỳ
Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng những quy định này vẫn còn gặp phải rất
nhiều vấn đề phát sinh. Bằng chứng là có rất nhiều vụ việc trẻ em không được đi
học, không được đảm bảo quyền học tập mà phải tham gia lao động từ khi còn nhỏ
hay thậm chí bị ngược đãi, bạo hành… Có thể nói, việc đảm bảo quyền học tập của
trẻ em là điều hết sức quan trọng đối với gia đình và toàn đất nước. Nghĩa vụ đặt
lên vai cha mẹ cũng không hề nhỏ, nhưng thực hiện nghĩa vụ ấy như thế nào lại là
cả một quá trình khó khăn, đòi hỏi sự chung tay góp sức của toàn xã hội.
KẾT LUẬN
Trên đây là một số vấn đề về nghĩa vụ của cha mẹ trong việc đảm bảo quyền
được học tập của con cái. Trên cơ sở tìm hiểu vấn đề này, ta có thể đi sâu nghiên
cứu hơn về các mối quan hệ trong gia đình cả về mặt lý luận pháp lý cũng như thực
tiễn xã hội. Đây là một vấn đề khá thú vị những cũng không kém phần phức tạp và
được nhiều người quan tâm bởi nó không chỉ mang tính chất pháp lý mà còn liên
quan nhiều đến những vấn đề về tình cảm, truyền thống văn hóa, đạo đức. Tuy
nhiên, bài làm này vẫn còn nhiều thiếu sót do những hạn chế về kinh nghiệm thực
tế cũng như khả năng nhận thức, rất mong nhận được sự ủng hộ của các thầy cô !
9
Sinh viên: Thân Quốc Long - Nhóm 9 - MSSV: 351111
Trường ĐH Luật Hà Nội - Lớp Luật HN và GĐ N03 – Bài tập Lớn/Học kỳ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB
Công an nhân dân, 2009
2. Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Năm năm 2000
3. Luật Bảo vệ giáo dục và chăm sóc trẻ em năm 2004
4. Luật Giáo dục năm 2001 sửa đổi bổ sung năm 2010
5. Trang thông tin điện tử : danluat.vn, thongtinphapluatdansu.wordpress.com
10
Sinh viên: Thân Quốc Long - Nhóm 9 - MSSV: 351111
- Xem thêm -