Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vùng đất điện bàn thế kỉ xvii đến cuối thế kỉ xix...

Tài liệu Vùng đất điện bàn thế kỉ xvii đến cuối thế kỉ xix

.PDF
56
11
118

Mô tả:

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐÀ NẴNG KHOA LỊCH SỬ *** KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC ĐỀ TÀI: VÙNG ĐẤT ĐIỆN BÀN TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XIX Giáo viên hướng dẫn : TS. LÊ THỊ THU HIỀN Họ và tên sinh viên : PHÙNG THỊ MỸ HIỀN Lớp : 15CLS Chuyên ngành : CỬ NHÂN LỊCH SỬ Đà Nẵng, tháng 04 năm 2019 MỤC LỤC MỤC LỤC ..................................................................................................................1 LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................3 MỞ ĐẦU ....................................................................................................................4 1. Lý do chọn đề tài................................................................................................4 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................6 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................6 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .....................................................7 6. Đóng góp của đề tài ...........................................................................................8 7. Cấu trúc của đề tài ............................................................................................8 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VÙNG ĐẤT ĐIỆN BÀN TRƯỚC THẾ KỈ XVII ..9 1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................................9 1.1.1 Vị trí địa lý ..................................................................................................9 1.1.2 Đất đai, địa hình .........................................................................................9 1.1.3 Khí hậu, thủy văn ......................................................................................10 1.2. Khái quát lịch sử vùng đất Điện Bàn trước thế kỉ XVII ................................12 1.3. Đời sống kinh tế - xã hội ................................................................................16 1.4. Đặc điểm dân cư, văn hóa ..............................................................................17 CHƯƠNG 2: DIỆN MẠO VÙNG ĐẤT ĐIỆN BÀN TỪ THẾ KỈ XVII ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX .................................................................................................21 2.1. Vị trí địa lý và địa giới hành chính .................................................................21 2.1.1. Vị trí địa lý ...............................................................................................21 2.1.2. Địa giới hành chính .................................................................................21 2.2. Điều kiện tự nhiên ..........................................................................................25 2.2.1. Đặc điểm địa hình ....................................................................................25 2.2.2. Tài nguyên, thổ sản ..................................................................................27 1 2.2.3. Khí hậu, thủy văn .....................................................................................28 2.3. Tình hình kinh tế ............................................................................................31 2.4.1. Về nông nghiệp ........................................................................................31 2.4.2. Về thủ công nghiệp ..................................................................................32 2.4.3. Về thương nghiệp .....................................................................................33 2.4. Đặc điểm văn hóa ...........................................................................................35 2.4.1. Văn hóa vật chất ......................................................................................36 2.4.2. Văn hóa tinh thần.....................................................................................38 2.5. Một số nhận xét, đánh giá ..............................................................................47 KẾT LUẬN ..............................................................................................................51 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................53 2 LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu lịch sử vùng đất là một vấn đề không mấy xa lạ. Với niềm đam mê nghiên cứu một lịch sử địa phương, niềm mong ước được khám phá sự hình thành, phát triển và diện mạo của vùng đất Điện Bàn ở thế kỉ XVII đến cưới thế kỉ XIX. Do đó, tôi chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp là “Vùng đất Điện Bàn thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX”. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm tư liệu cũng như điền dã và ngay cả trong việc viết bài. Đôi lúc, chúng tôi cảm thấy chán nản và bế tắc. Nhưng trong quá trình thực hiện bài khóa luận tốt nghiệp tôi đã đón nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ, động viên, khuyến khích. Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS. Lê Thu Hiền - giảng viên trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng. Cô đã tận tâm chỉ bảo, góp ý và cung cấp nhiều tài liệu khoa học quý báu để chúng tôi có thể hoàn thành tốt bài nghiên cứu. Cô thật sự rất nhiệt tình trong việc chỉ dẫn chúng tôi và cô cũng chính là người nhen nhóm, đốt lên ngọn lửa đam mê nghiên cứu cho chúng tôi. Bằng sự nhiệt tình và tâm huyết của cô, chúng tôi đã có thể hoàn thành bài nghiên cứu một cách tốt nhất. Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng đã tạo điều kiện cho chúng tôi đi điền dã và đã trực tiếp góp ý cho tôi để giúp chúng tôi có một khóa luận hoàn chỉnh. Vì là một đề tài mới mà chưa ai nghiên cứu một cách rõ ràng nên còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Kính mong quý thầy cô tiếp tục chỉ dẫn để bài khóa luận tốt nghiệp đạt kết quả tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn! GVHD Đà Nẵng, ngày 26 tháng 4 năm 2019 T.S Lê Thị Thu Hiền Phùng Thị Mỹ Hiền 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lịch sử hình thành và phát triển của Điện Bàn gắn liền với quá trình mở đất của dân tộc Việt về phương Nam. Qua nhiều thế kỷ, địa giới hành chính có nhiều thay đổi nhưng tên gọi Điện Bàn vẫn được lưu giữ với nhiều truyền thống tốt đẹp về văn hóa lịch sử và cách mạng. Điện Bàn, miền châu thổ hạ lưu sông Thu Bồn, vốn là vùng đất dinh trấn Thanh Chiêm, nơi mà tên đất, tên người từng gắn liền với nhiều sự kiện trọng đại trong tiến trình hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc. Điện Bàn có cả một kho tàng văn hoá của đất đai, con người và làng nghề… Suốt 400 năm qua Điện Bàn luôn là nơi diễn ra những sự kiện quan trọng của xứ Đàng Trong, tâm điểm của những biến đổi, giao thoa, tiếp biến của hai nền văn minh Chăm – Việt. Đây là “tiền cung” của công cuộc khai phá lãnh thổ về phương Nam và mở mang ngoại thương xứ Đàng Trong của các chúa Nguyễn, là nơi sản sinh ra chữ Quốc ngữ từ thế kỷ XVII, cái nôi của nghệ thuật Tuồng, là vùng đất học mang tên Ngũ phụng tề phi,… Dấu ấn ấy bây giờ vẫn còn đậm nét trong bao di tích, lễ hội vẫn được tổ chức trên đất Điện Bàn nay. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, vùng đất nơi đây đã bao lần biến đổi, chuyển mình theo dòng lịch sử thời gian. Nghiên cứu diện mạo vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX ta sẽ có được cái nhìn khách quan và chính xác hơn về vùng đất này. Đồng thời có thêm kiến thức về lịch sử của những vùng đất khác trong quá khứ. Hơn nữa, việc nghiên cứu lịch sử từng miền, từng địa phương đóng vai trò quan trọng, góp phần bổ sung sử liệu cho việc xây dựng lịch sử của vùng đất miền Trung nói chung và Quảng Nam nói riêng. Việc nghiên cứu vùng đất Điện Bàn xưa còn có ý nghĩa thực tiễn, giúp địa phương có chính sách phù hợp, kịp thời bảo tồn văn hóa, hoạch định những giải pháp, định hướng phát triển. Từ sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử - văn hóa quê hương mình, thế hệ trẻ sẽ yêu quê hương và có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa địa phương đó. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Vùng đất Điện Bàn thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 4 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Một số nguồn sử liệu ghi chép về Điện bàn được nhìn dưới góc độ của lịch sử, địa lý như: Dư địa chí của Nguyễn Trãi (1868), Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu (1882), Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn (1910), Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1960), Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn, Ô Châu cận lục của Dương Văn An (1555), Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1776); Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử Quán triều Nguyễn (1910); Địa bạ thời Gia Long (1805) của Quốc sử Quán triều Nguyễn,… Những sách này ghi chép về toàn bộ lịch sử Việt Nam, trong đó có Điện Bàn. Đây cổ sử quan trọng và là nguồn tư liệu chính xác nhất. Ngoài ra còn có sách viết về vùng Thuận Quảng (trong đó có Điện Bàn) như sau: trong tác phẩm “Có 500 năm như thế: Bản sắc Quảng Nam từ góc nhìn phân kỳ lịch sử” của Hồ Trung Tú. 500 năm ở đây được hiểu là tính từ năm 1306 - thời điểm Huyền Trân công chúa bước qua bên kia đèo Hải Vân (nam Hải Vân) đến năm 1802 - lúc Gia Long lên ngôi. 500 năm đằng đẳng của lịch sử với biết bao thăng trầm. Còn có khá nhiều công trình nghiên cứu như: “Việt sử xứ Đàng Trong” của Phan Khoang nghiên cứu về vùng đất phía Nam của Đại Việt, về vương quốc Chămpa và Chân Lạp, về công cuộc mở cõi của Nguyễn Hoàng cho đến tận đất Hà Tiên; “Quảng Nam qua các thời đại” của Phan Du nghiên cứu về Quảng Nam từ khi còn là vùng đất của Chiêm Thành cho đến khi trở thành một phần của Đại Việt; “Xứ Đàng trong năm 1621” của Critstophoro Borri ghi chép về Đàng Trong trong thời gian Critstophoro Borri lưu trú tại đây (năm 1621); Một số tác phẩm, công trình khác nghiên cứu về quá trình mở rộng lãnh thổ của Đại Việt, phần nào đề cập đến Quảng Nam nói chung và Điện Bàn nói riêng, có thể kể đến: Đất nước Việt Nam qua các đời (Đào Duy Anh), Công cuộc khai khẩn và phát triển làng xã ở Bắc Quảng Nam từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII của Huỳnh Công Bá, Tìm hiểu con người xứ Quảng của Nguyên Ngọc, “Xứ Đàng Trong”: Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18 là luận án tiến sĩ của Li Tana,… 5 Nhìn chung, vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX ít nhiều đã được đề cập đến nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX. 3.2. Phạm vi của đề tài Về không gian: Đề tài nghiên cứu vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII, lúc này Điện Bàn có không gian rộng hơn hiện nay, gồm năm huyện là Tân Phước, An Nông, Hòa Vinh, Phước Châu, Diên Khánh (Diên Khánh chính là Điện Bàn hiện tại). Đến đầu thế kỷ XIX, Điện Bàn bao gồm hai huyện là Hòa Vang và Diên Khánh. Từ giữa thế kỉ XIX đến cuối thế kỉ XIX Điện Bàn gồm ba huyện là Diên Phúc, Duy Xuyên và Hòa Vang. Về thời gian: Tìm hiểu vùng đất Điện Bàn trong khoảng thời gian từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX. Đây là thời gian khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng thăng huyện Điện Bàn vốn thuộc phủ Triệu Phong, Thuận Hóa thành phủ Điện Bàn, thuộc về dinh Quảng Nam (1604) cho đến năm 1884, sau khi kí Hiệp ước Patonot. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX nhằm phục dựng lại bức tranh quá khứ. - Qua đó thấy được vai trò, vị trí của vùng đất này từ nhiều góc độ kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội trong tiến trình lịch sử Việt Nam. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX - Trong đó tìm hiểu khái quát về vùng đất Điện Bàn trước thế kỉ XVII về điều kiện tự nhiên, địa giới hành chính, tình hình kinh tế xã hội và văn hóa dân cư. 6 - Đi sâu tìm hiểu về diện mạo vùng đất Điện Bàn thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX gồm điều kiện tự nhiên, tình hình chính trị, tình hình kinh tế, tình hình xã hội, tình hình văn hóa dân cư và nêu một số nhận xét, đánh giá về vùng đất Điện Bàn trong giai đoạn này. 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu Lịch sử vùng đất là một vấn đề rộng và phức tạp, cần nghiên cứu một cách cẩn thận, kĩ lưỡng nên phải sử dụng nhiều nguồn tư liệu và nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. 5.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi thu thập, khai thác các nguồn tư liệu có liên quan đến vùng đất Điện Bàn gồm: - Nguồn tư liệu cổ sử do nhà nước phong kiến và sử gia tư nhân biên soạn như: Phủ biên tạp lục, Đại Việt sử ký tục biên, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, Đồng Khánh địa dư chí...; Nghiên cứu địa bạ Quảng Nam - Đà Nẵng… - Các công trình nghiên cứu, sách tham khảo có liên quan đến đề tài như: Có 500 năm như thế của Hồ Trung Tú, Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỉ 17 - 18 của LiTana, Xứ Đàng Trong của Phan Khoang,… - Trên các website như: dienban.gov.vn, http://www.quangnam.gov.vn,... - Tài liệu thu thập được qua công tác điền dã thực tế ở các địa phương trên địa bàn huyện Điện Bàn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ yếu sử dụng 2 phương pháp nghiên cứu chủ đạo của sử học là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra, tôi còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: - Phương pháp thống kê: Trong quá trình tìm kiếm và sưu tầm tài liệu từ những nguồn khác nhau nên cần được sắp xếp và hệ thống lại một cách khoa học sao cho phù hợp với mục tiêu nghiên cứu nhất. - Phương pháp điền dã: Trực tiếp xuống địa bàn để thu nhập thông tin. Nhằm lấy số liệu, thông tin phục vụ cho việc trình bày, đồng thời kiểm nghiệm độ chính 7 xác, để kết quả nghiên cứu có tính thuyết phục. Phương pháp này rất quan trọng, ảnh hưởng đến độ chính xác của đề tài. - Phương pháp chuyên gia: Tận dụng những ý kiến của lãnh đạo, chính quyền, cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực lịch sử - văn hóa để thu thập thêm thông tin là hết sức thiệt thực và bổ ích phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài. Từ đó xem xét, nhìn nhận, phân tích, đánh giá đối tượng. Vận dụng phương pháp này có thể rút ngắn được quá trình điều tra phức tạp, đồng thời bổ sung cho phương pháp điều tra cộng đồng. - Phương pháp tổng hợp và phân tích: Từ những thông tin và tài liệu thu thập được, đánh giá, rút ra các đặc điểm của vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX. 6. Đóng góp của đề tài 6.1. Về mặt khoa học Đề tài này là công trình nghiên cứu khoa học mang tính hệ thống, cụ thể, phục dựng lại bức tranh quá khứ, khái quát về diện mạo của vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX. Từ các vấn đề tìm hiểu của đề tài đã góp phần làm hoàn chỉnh hơn về mặt địa lý - lịch sử - văn hóa của địa bàn huyện Điện Bàn. 6.2. Về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu giúp cho người dân và cán bộ địa phương hiểu được quá trình phát triển và sự biến đổi của vùng đất Điện Bàn trong những thế kỉ XVII, XVIII, XIX cùng những đặc trưng về kinh tế, xã hội, văn hóa và dân cư. Qua đó hun đúc, bồi dưỡng lòng tự hào, tình yêu mến đối với vùng đất này. Đồng thời, công trình đóng góp nguồn tư liệu nghiên cứu về lịch sử vùng đất Điện Bàn nói riêng và vùng đất Quảng Nam nói chung. 7. Cấu trúc của đề tài Đề tài ngoài phần mở đầu và phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung chính được cấu trúc gồm hai chương: Chương 1: Khái quát vùng đất Điện Bàn trước thế kỷ XVII Chương 2: Diện mạo vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX 8 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VÙNG ĐẤT ĐIỆN BÀN TRƯỚC THẾ KỈ XVII 1.1. Điều kiện tự nhiên 1.1.1 Vị trí địa lý Điện Bàn là một huyện đồng bằng ven biển thuộc tỉnh Quảng Nam, trải từ 15o50’ đến 15o 57’ vĩ bắc và từ 108o đến 108o 20’ kinh độ đông, cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 48km về về phía Nam, cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 25km về phía Bắc. Phía bắc huyện Điện Bàn giáp huyện Hòa Vang (thành phố Đà Nẵng), phía Nam giáp với huyện Duy Xuyên, phía Đông Nam giáp với thành phố cổ Hội An, phía Đông giáp với biển Đông và phía Tây giáp với huyện Đại Lộc. Điện Bàn hiện nay có diện tích tự nhiên 214,28km2 1.1.2 Đất đai, địa hình Địa hình của huyện Điện Bàn tương đối bằng phẳng, mức độ chia cắt trung bình, đặc trưng cho địa hình có nguồn gốc phát sinh từ sản phẩm phù sa sông biển, với địa thế thấp dần từ Tây sang Đông. Điện Bàn có 3 dạng địa hình chính là địa hình ven biển, địa hình đồng bằng và địa hình gò đồi. Địa hình ven biển hình gồm cồn cát và bãi cát ven biển chạy dài từ Bắc xuống Nam, gồm các xã Điện Ngọc, Điện Nam và Điện Dương, với diện tích khoảng 5.300ha, chiếm 25% diện tích toàn huyện. Địa hình đồng bằng phân bố hầu hết ở các khu vực trung tâm và phía Tây của huyện, với diện tích khoảng 15.500ha, chiếm 73% diện tích tự nhiên và là dạng địa hình chính phân bố dân cư và đất nông nghiệp của huyện. Địa hình gò đồi, diện tích khoảng 395ha, ước tính 2% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở xã Điện Tiến, với độ dốc từ 8o đến 20o, độ cao trung bình từ 8 đến 10m, điểm cao nhất là đồi 55 (cao 55m) ở núi Bồ Bồ; đây là vùng đất sử dụng vào mục đích lâm nghiệp và một số diện tích đồi hoang [39, tr.5]. Địa hình của huyện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, cả về nông nghiệp, công nghiệp ở vùng cát và ven biển. Đất đai của huyện gồm có 2 nhóm: đất cát và đất phù sa. Theo đặc tính của từng loại đất có thể chia ra thành 4 nhóm đất, gồm 8 đơn vị đất, trong đó nhóm đất cát biển và đất cồn cát trắng vàng ở các xã Điện Dương, Điện Nam, Điện Ngọc; nhóm đất phù sa gồm có đất phù sa chua, đất phù sa, đất phù sa có tầng điếm rỉ, nhóm đất mặn ít và trung bình; nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá phân bố trên các địa hình gò đồi ở 9 phía Tây của huyện (chủ yếu là ở xã Điện Tiến). Đất đai huyện Điện Bàn khá tốt, có độ phì nhiêu cao, nhóm đất phù sa chiếm đến 69,67% tổng diện tích đất, cho phép thâm canh nông nghiệp theo chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng. Nguồn tài nguyên rừng trồng ở khu gò đồi Điện Tiến và rừng phòng hộ ven biển. Bên cạnh đó, Điện Bàn là một huyện đồng bằng ven biển nên địa hình tương đối bằng phẳng, độ chênh cao thấp, thuận lợi cho phát triển đô thị - công nghiệp. Có bờ biển cát trắng, nước trong, sông nước hiền hòa thuận lợi cho khai thác du lịch. Vùng biển Điện Bàn nằm trong ngư trường Cửa Đại (Hội An) là một vùng có trữ lượng cá, tôm, mực khá lớn. Ngoài ra còn có nhiều loại nhuyễn thể, rong tảo và đặc sản quý hiếm khác... 1.1.3 Khí hậu, thủy văn Huyện Điện Bàn nằm trong khu vực có chế độ khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa của tỉnh Quảng Nam và ảnh hưởng khí hậu ven biển miền Trung. Nhiệt độ trung bình là 25,6oC, độ ẩm tương đối trung bình là 82,3% và lượng mưa trung bình năm là 2.298mm. Các tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 10 và tháng 11 (385 - 386mm), tháng có lượng mưa thấp nhất là tháng 3 (23,5mm). [39, tr.9]. Các hướng gió thịnh hành của Điện Bàn là gió mùa Đông Nam, Tây Nam và Đông Bắc. Gió mùa Đông Nam xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 9, gió mùa Tây Nam - từ tháng 4 đến tháng 7 và gió mùa Đông Bắc - từ tháng 10 đến tháng 12 hằng năm. Từ tháng 9 đến tháng 11 bão thường xảy ra, kết hợp với các trận mưa lớn gây ra lũ lụt làm ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Hệ thống thủy văn của huyện Điện Bàn chủ yếu là bắt nguồn từ hệ thống sông Thu Bồn - Vu Gia với các con sông: sông Thu Bồn, sông Yên, sông Vĩnh Điện, sông Bình Phước, sông Thanh Quýt... Sông Thu Bồn là con sông chính và là tuyến giao thông đường thủy liên huyện quan trọng của tỉnh Quảng Nam. Đoạn sông Thu Bồn chảy qua Điện Bàn dài 27km, lòng sông rộng trung bình từ 100 - 300m, chảy qua các xã Điện Hồng, Điện Quang, Điện Thọ, Điện Phước, Điện Trung, Điện Phong và Điện Phương, là một trong những tài nguyên quan trọng ở khu vực phía Nam của huyện. Sông Thu Bồn tạo ra những bãi bồi phì nhiêu, qua đó hình thành những vùng quê trù phú nhất trong huyện mà 10 điển hình là vùng đất Gò Nổi nổi tiếng từ xưa đến nay. Sông Vĩnh Điện là một nhánh của sông Thu Bồn, chảy theo hướng tây nam đông bắc, đoạn chảy qua huyện dài 10km, từ Vĩnh Điện đến Tứ Câu và chảy qua các xã Điện An, Điện Nam, Điện Ngọc, Điện Thắng, lòng sông rộng từ 50 đến 80m, độ sâu trung bình từ 4 đến 5m, về mùa khô thường bị nhiễm mặn và cạn kiệt. Sông Yên nằm ở phía Tây của huyện, là đường ranh giới tự nhiên giữa Điện Bàn, Đại Lộc và một phần Hòa Vang, đoạn chảy qua huyện dài 5km, chiều rộng từ 50 đến 70mm, chảy qua các xã Điện Hồng, Điện Tiến. Sông Bình Phước - hay còn gọi là sông Bàu Sấu, sông Lạc Thành - nằm ở phía tây bắc của huyện, chảy theo hướng tây nam - đông bắc, chiều dài 7km, chiều rộng 30 đến 50m chảy qua các xã Điện Hồng, Điện Thọ, Điện Tiến, Điện Hòa, là nguồn nước tưới nông nghiệp cho các xã phía tây bắc của huyện1. Sông Thanh Quýt2 phát nguồn từ sông Thu Bồn chảy qua Bình Long, Hạ Nông, Đông Hồ đến Lục Giáp thì nhập vào sông La Thọ3. Hệ thống sông ngòi của Điện Bàn phân bố tương đối đồng đều, mật độ phân bố trung bình là 0,4 km/km2, thuận lợi cho việc cung cấp, tưới tiêu cho các cánh đồng, là nguồn nước tưới chủ yếu cho đất nông nghiệp. Tuy nhiên, do độ sâu luồng nông cạn, tính chất bất ổn của dòng sông và phân bố lưu lượng không đều trong năm, về mùa lũ lưu tốc lớn gây xói lở bờ mạnh, diện tích đất bị xói lở, bồi lấp hằng năm hàng trăm ha, gây thiệt hại đến sản xuất và các làng mạc, khu dân cư ven sông. Cùng với nguồn nước trên bề mặt, huyện Điện Bàn còn có nguồn nước ngầm tương đối lớn, với độ sâu trung bình từ 3 đến 5m. Huyện Điện Bàn có bờ biển dài 8km. Biển Điện Bàn có chế độ bán nhật triều, Sông Bình Phước, sông Bàu Sấu và sông Lạc Thành là một, nhưng nhân dân trong huyện thường gọi đoạn sông chảy qua Bình Phước là sông Bình Phước, còn đoạn chảy qua Bàu Sấu là sông Bàu Sấu, đoạn chảy qua Lạc Thành là sông Lạc Thành. 1 Trên thực tế sông Cổ Cò và sông Thanh Quýt là một, song nhân dân trong huyện quen gọi đoạn sông chảy từ Bình Long đến Đông Hồ gọi là sông Cổ Cò, còn đoạn sông chảy từ Lục Giáp đến Thanh Quýt là sông Thanh Quýt. 2 3 Sông La Thọ là một nhánh của sông Bình Phước chảy xuống Thanh Quýt. 11 thủy triều lên xuống 2 lần trong một ngày với biên độ triều 0,6m. Vào mùa khô nước biển xâm nhập sâu vào đất liền, vào tháng 10, 11, 12 thường có sóng lớn ven bờ, biên độ triều cường lên đến 1 - 2m, bờ biển thường bị xói lở do sóng biển gây nên. 1.2. Khái quát lịch sử vùng đất Điện Bàn trước thế kỉ XVII Điện Bàn là thị xã đồng bằng ven biển phía Bắc của tỉnh Quảng Nam. Lịch sử hình thành và phát triển của Điện Bàn gắn liền với quá trình mở đất của dân tộc Việt về phương Nam. Sách Đại Nam thống nhất chí, tỉnh Quảng Nam, trong mục “Dựng đặt và diên cách” mở đầu như sau: “Xưa là đất Việt Thường thị; đời Tần thuộc Tượng Quận; đời Hán là bờ cõi quận Nhật Nam; đời Tống thuộc Chiêm Thành, là đất châu Lý và Chiêm Động (…) thời thuộc Minh thì đặt phủ Thăng Hoa lãnh 4 châu, 11 huyện, song sổ sách chỉ chép tên không, thực ra thì đất vẫn bị người Chiêm Thành chiếm cứ. Đầu triều Lê làm đất “ky my” gọi là Nam Giới”[27, tr.386-387]. Có thể thấy, vùng đất Điện Bàn xưa thuộc đất Việt Thường Thị. Nhưng kể từ khi phong kiến Trung Hoa xâm lược và thống trị nước ta, vùng đất Điện Bàn cũng chịu chung số phận bị phong kiến Trung Hoa đô hộ. Năm 111 trước Công Nguyên, khi thay thế nhà Triệu để thống trị nước ta, ngoài hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, chính quyền nhà Hán còn lập thêm quận Nhật Nam (miền đất từ Hoành Sơn đến Quảng Nam ngày nay). Quận Nhật Nam bao gồm 5 huyện: Tây Quyển, Chu Ngô, Tỳ Cảnh, Lê Dung và Tượng Lâm. Vùng đất Điện Bàn nằm trên địa bàn của huyện Tượng Lâm thời đó. Vào thế kỉ thứ II, nhân dân Giao Châu nhà Hán tỏ ra bất lực nhất là đối với các quận ở xa. Cho đến năm 192 (đời vua Hiếu Đế nhà Đông Hán) cùng với nhân dân Nhật Nam, nhân dân Tượng Lâm do Khu Liên đứng đầu đã nổi dậy giết huyện lệnh, giành quyền tự chủ. Một quốc gia mới được lập nên ở vùng đất hai bên đèo Hải Vân. Sử Trung Hoa gọi nước mới lập nên này là Lâm Ấp. Huyện Tượng Lâm (bao gồm phần đất Điện Bàn - Quảng Nam ngày nay) là bộ phận lãnh thổ thuộc quốc gia Lâm Ấp. Sau nhiều thế kỷ tồn tại trong sự xung đột liên miên với lực lượng phong kiến ở phía Bắc, cuối cùng nước Lâm Ấp đã hợp nhất với quốc gia người Chăm ở phía Nam, hình thành nên một quốc gia thống nhất với tên nước là Chiêm Thành. Từ đó vùng Điện Bàn - Quảng Nam trước kia trở thành bộ phận lãnh thổ của nước Chiêm Thành. 12 Người Chăm gọi vùng đất Điện Bàn - Quảng Nam ngày nay trong lãnh thổ quốc gia Chiêm Thành trước kia là Amaravati. Thời kỳ tự chủ từ năm 968, các vương triều Đinh - Lê - Lý - Trần - Hồ - Hậu Lê trên bước đường Nam tiến với nhiều chính sách kiên quyết, mềm dẻo, đối thoại với các quốc gia láng giềng để mở rộng lãnh thổ. Năm 1069, vua Chiêm là Chế Củ thông đồng với nhà Tống đem quân đánh Đại Việt nhưng bị vua Lý và Lý Thường Kiệt bắt giải về Thăng Long nên Chế Củ dâng ba châu Đại Lý - Ma Linh - Bố Chính để được tha về. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306), để thực hiện lời hứa của thượng hoàng Trần Nhân Tông trong chuyến vân du sang Chiêm Thành trước đó, vua Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân vị vua thứ 34 của vương quốc Chiêm Thành vào thế kỉ thứ XIV. Chế Mân đã dâng hai châu: châu Ô, châu Lí cho Đại Việt để làm sính lễ. Đây là cuộc hôn nhân đắt giá trong lịch sử Chiêm quốc để đổi lấy một tấm nhan sắc khuynh thành của Đại Việt. Chiêm Thành đã mất đi những gì quý báu mà thiên nhiên giành cho, đó là cửa biển Tư Hiền và cửa Hàn hiểm yếu cùng những gì vàng son mà tổ tiên Chăm đã dày công di lưu… đó là miền đất thiêng Amaravati cùng cựu cố đô Indrapura. Cho đến tháng Giêng năm Đinh Mùi (1307), vua Trần Anh Tông đã sai đổi tên châu Ô và châu Lí thành Thuận Châu (tức vùng thuộc phủ Triệu Phong, Hải Lăng, Quảng Điền, Hương Trà của Bình, Trị, Thiên ngày nay) và Hoá Châu (tức vùng thuộc các huyện Phú Vang, Phú Lộc của Bình, Trị, Thiên và Hòa Vang, Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên của Quảng Nam - Đà Nẵng). Thời nhà Mạc, Địa dư chí của Nguyễn Trãi (1435) viết về phủ Triệu Phong của xứ Thuận Hóa, sử tịch này đã chép: “Phủ Triệu Phong có 6 huyện, 2 châu, 444 xã: huyện Hải Lăng có 54 xã, 8 thôn, 28 động, huyện Vũ Xương có 95 xã, 3 thôn, 5 sách; huyện Đan Điền có 63 xã, 9 thôn, 6 sách; huyện Kim Trà có 73 xã, 2 thôn, 6 châu, 13 sách, 3 nguyên; huyện Tư Vinh có 44 xã, 18 thôn 11 trang; huyện Điện Bàn có 95 xã; châu Thuận Bình có 8 động, 21 sách; châu Sa Bôi có 6 động, 15 trang, 68 sách” [21, tr.44]. Có thể thấy, vào khoảng thế kỉ XV, Điện Bàn là vùng đất thuộc phủ Triệu Phong - lộ Thuận Hóa (địa giới là phần đất từ bờ bắc sông Thu Bồn ra đến đèo Hải Vân). 13 Lúc bấy giờ, huyện Điện Bàn chỉ nêu có 12 tổng 95 xã, mà không nêu rõ tổng nào, xã nào. Đời Hồ, năm Thiệu Thành 2 (1402), Hồ Hán Thương đánh vào lấy đất Chiêm Động và Cổ Lũy, đặt làm lộ Thăng Hoa gồm 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Hồ Quý Ly chia Chiêm Động làm 2 châu Thăng và Hoa, chia Cổ Lũy làm 2 châu Tư và Nghĩa (Cổ Lũy là phần đất Quảng Ngãi ngày nay). Thời Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 7 (1466), Bính Tuất, tháng 2, đặt ty Tuyên chính sứ các đạo, lấy Nguyễn Thời Đạt làm Tuyên chính sứ Thuận Hóa. Tháng 6, đặt 12 đạo thừa tuyên là: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, Yên Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Trung Đô phủ, đổi lộ làm phủ, đổi trấn làm châu. Năm Hồng Đức thứ hai (1471), vua Lê Thánh Tông thân hành soạn “Bình Chiêm sách” cho quân sĩ học tập, rồi tự mình chỉ huy đại quân dẫn hơn 1.000 chiến thuyền đi đánh Chiêm Thành. Tháng 2, năm Tân Mão (1471), quân Đại Việt vây thành Trà Bàn, bắt sống vua Chiêm là Trà Toàn, rồi xuống chiếu đem quân về. Sau khi chinh phục Chiêm Thành, vua Lê Thánh Tông lấy phần đất chiếm được đặt làm thừa tuyên Quảng Nam, nâng số thừa tuyên của Đại Việt lên 13, bắt đầu cho sự hiện diện chính thức của người Việt ở miền Trung. Vùng này trải dài từ bờ nam sông Thu Bồn đến đèo Cù Mông. Nhưng lúc này vùng đất Điện Bàn vẫn chưa thuộc Quảng Nam thừa tuyên đạo mà vẫn còn là bộ phận đất đai của phủ Triệu Phong trong đạo thừa tuyên Thuận Hóa. Tháng 6 âm lịch năm 1467, vua Lê Thánh Tông dụ các thừa tuyên xem xét, tìm hiểu địa thế núi, sông và các sự tích trong địa phương mình, để vẽ địa đồ nơi đó, rồi trình lên cho Bộ Hộ tổng hợp thành bản đồ hoàn chỉnh của Đại Việt. Ngày 4 tháng 4 âm lịch năm 1490, bộ bản đồ Đại Việt được hoàn tất, gọi là bản đồ Hồng Đức. Bản đồ ghi nhận nước Việt có 13 thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguồn, 30 trường [13, tr.309]. Theo sách Đại Việt sử ký tục biên thì thời Hồng Đức bản đồ “Xứ Thuận Hóa trước kia gồm 2 phủ là Tiên Bình và Triệu Phong. Phủ Triệu Phong gồm 6 huyện Vũ Xương, Đan Điền, Hải Lăng, Kim Trà, Tư Vinh, Điện Bàn và 2 châu Thuận Bình, Sa 14 Bôi. Cộng 2 phủ có 8 huyện 4 châu, 554 xã, 44 thôn, 3 trang, 12 nguồn, 10 động, 124 sách”[14, tr.388]. Trong đó viết huyện Điện Bàn có 47 xã. Năm 1490, Thừa tuyên Quảng Nam được gọi là Xứ Quảng Nam, rồi đến 1509 đổi gọi là Trấn Quảng Nam. Lúc bấy giờ, các làng xã từ phía nam đèo Hải Vân vào đến bờ bắc sông Thu Bồn trực thuộc huyện Điện Bàn, phủ Triệu Phong của trấn Thuận Hóa. Theo Ô châu Cận Lục, sách do Dương Văn An nhuận sắc vào năm 1553 thì huyện Điện Bàn lúc đó ở phía nam Hóa châu có 66 xã là: Đức Ký, Nông Sơn, Bất Nhị, Đông Ba, Hoa Thử, Đa Thử, Kỳ Ba, Giáng La, Cẩm Đăng, Điểu Kha, Lỗi Sơn, Thạch Phố, Tử Sa, Giáo Ái, Bồn Khúc, Sơn, Gia Cốc, Bàng Trạch, Ái Đái, Phiếm Ái, Kim Nê, Yến Nê, Thúy Loan, Kim Toại, Diễm Sơn, Quảng Hóa, Thị Phụ, Hoa Hồ, Liên Trì, Mại Giảng, Lai Nghi, Phong Hồ, Giản Đông, Minh Châu, Kim Sa, Bình Sa, Bích Trâm, Hà Khúc, Lôi Trạch, Mông Lĩnh, Mông Vân, Địch Khang, Thọ Khang, Phú Khang, Quát Sơn, Trà Đình, Vân Quật, Thi Lại, Lang Châu, Mạc Xuyên, Hoài Phô, Cẩm Phô, Bàn Cố, Kim Lũ, Nhân Triêm, Uất Lũy, Duyên Đồ, Cẩm Lệ, Cúc Lũy, Lỗ Giản, Thạc Giản, Vân Dương, Kim Quất, Hóa Khuê, Kim Khuê, Đại Đái. Xã hội Đại Việt thời Lê sơ sau một giai đoạn phát triển dưới thời Lê Thánh Tông, đến thế kỷ XVI đã bắt đầu suy nhược và trượt dài trên đường khủng hoảng. Lúc này các thế lực phong kiến đã nổi dậy tranh giành quyền lực, cát cứ. Trong bối cảnh rối ren đó, Nguyễn Hoàng, con thứ hai của Nguyễn Kim được phong Đoan quận công và được sự “định hướng” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, năm 1558, được ban “ấn tiết” cùng người thân và hàng nghìn đồng hương thân tín Thanh – Nghệ vào Thuận Hóa và trấn thủ nơi này (Thừa Thiên Huế ngày nay). Khi đến nơi, đoàn thuyền đã đi vào cửa Việt Yên (nay là Cửa Việt), đóng trại tại Gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Vũ Xương (nay là huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) và đã chọn nơi này để lập Thủ Phủ gọi là dinh Ái Tử. Năm 1569, Nguyễn Hoàng trấn thủ đất Quảng Nam, thay cho Quận Công Nguyễn Bá Quýnh. Nguyễn Hoàng làm Tổng Trấn Tướng Quân kiêm quản cả Xứ Quảng Nam và Xứ Thuận Hóa. Năm 1572 “bấy giờ chúa Nguyễn Hoàng ở trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân yên cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên 15 một nơi đô hội lớn”. Với ý định xây dựng riêng cho mình một cõi giang sơn tách biệt và đối trọng với chính quyền Lê - Trịnh, các chúa Nguyễn đã tích cực thực hiện và đẩy mạnh các biện pháp chiêu dụ nhân dân khai khẩn đất đai vùng Thuận Quảng, đồng thời, không ngừng mở rộng cương thổ xuống phía Nam… Hệ quả tất yếu là lãnh thổ xứ Đàng Trong được kéo dài đến tận Cà Mau, các vùng đất được xác lập quyền sở hữu của Đại Việt từ trước không ngừng được mở rộng và thành lập mới. Đất Điện Bàn cũng tiếp tục được mở rộng và phát triển các làng xã trong bối cảnh lịch sử, xã hội chung ấy. 1.3. Đời sống kinh tế - xã hội Điện Bàn khi còn là lãnh thổ của Amaravati (Champa) đã có sản xuất nông nghiệp với nhiều ngành chăn nuôi, trồng trọt nhiều giống cây trồng khác nhau. Cư dân ở đây biết trồng cây lúa nước, biết làm thủy lợi và làm nhiều nghề thủ công, xây dựng nhiều công trình kiến trúc độc đáo. Nhưng phải từ khi trở thành bộ phận lãnh thổ của Đại Việt, trải qua các thời Trần - Lê - Mạc đến thời các chúa Nguyễn, với những luồng người di cư liên tục và đông đảo từ phía Bắc vào, vùng đất Điện Bàn mới ngày càng trở nên sầm uất, trù mật. Ngay từ thế kỉ XV - XVI (dưới thời Lê, Mạc), vùng đất huyện Điện Bàn (bao gồm cả Điện Bàn, Hòa Vang, Đại Lộc ngày nay) còn thuộc phủ Triệu Phong (Thuận Hóa) đã bắt đầu có dấu hiệu của sự trù phú. Từ công cuộc khẩn hoang, Điện Bàn là một huyện thuần nông, người dân sinh sống chủ yếu bằng nghề nông như gieo cấy lúa nước, trồng khoai, tỉa đậu, trồng dâu, mía… Để sớm ổn định đời sống, những người di dân đến đây đã đẩy mạnh việc xây dựng phát triển kinh tế. Đời sống người dân còn quá khó khăn và lạc hậu do trình độ sản xuất kém, chỉ biết “đốn cây, gieo lúa, đốt núi trồng ngô”. Nền nông nghiệp lúa nước ở đây còn quá mới mẻ, chưa phát triển, cộng với sản xuất nông nghiệp hoàn toàn lệ thuộc thời tiết, năng suất lao động thấp và bấp bênh,... Vua Trần cho cấp trâu bò, dụng cụ làm nông, đồng thời cho một số dân Giao Chỉ đã thuần thục nghề nông và biết một ít chữ nghĩa... thiết lập trang trại chia nhau để ở, dạy cho thổ dân chúng ta học hành và cày cấy. Ngoài ra còn cấp thêm các giống 16 lúa với số lượng lớn để chia cho các “trại dựng kho để chứa lúa dùng vào việc chi cấp cho quan và dân và chứa các thứ giống lúa và nông cụ” [Dẫn theo 38, tr.43] Tất cả các chủ trương và biện pháp trên đã có tác dụng hiệu quả vô cùng lớn, đã thúc đẩy sức sản xuất phát triển tạo sự ổn định, cải thiện và nâng cao nhanh chóng đời sống nhân dân bản địa, xây dựng được nền móng cơ bản sự đoàn kết hòa hợp hai dân tộc Chăm - Việt. Nhận xét về đời sống nhân dân huyện Điện Bàn đến nửa đầu thế kỉ XVI được Dương Văn An khái quát trong mấy dòng sau đây ở sách Ô châu cận lục (1553): “Huyện Điện Bàn đất liền với phương nam, cương giới ở ngoài châu Ô. Nhiều thóc giàu có, nhà nông đạp lúa bằng trâu. Đường bộ thì có xe, đường thủy thì sẵn thuyền. Xã Mạc Châu trồng nhiều hoa hồng. Xã Lang Châu sản nhiều lụa trắng. Hai làng Hóa Khuê cắm cọc để chống ngạc ngư (cá sấu); các xã Lỗi Sơn, Chiếm Sơn đóng cửa gỗ để phòng mãnh thú. Đàn bà mặc áo Chiêm, con trai cầm quạt Tàu. Người sang kẻ hàn bát đĩa đều vẽ rồng phượng; kẻ hơn người kém sống áo toàn màu đỏ, màu hồng” [4, tr.49]. 1.4. Đặc điểm dân cư, văn hóa Tài nguyên phong phú, vị trí chiến lược quan trọng là hai yếu tố để vùng đất Điện Bàn ngày xưa trở thành vùng đất bị tranh chấp và người dân nơi đây phải gánh chịu nhiều hậu quả của những diễn biến lịch sử của đất nước để trưởng thành. Trước khi người Việt di cư vào, Điện Bàn là vùng đất sinh sống của Chăm. Đến thế kỉ XIV, người Việt mới hiện diện ngày càng đông trên mảnh đất này. Phần lớn dân cư là người Việt có nguồn gốc từ miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Ðó là những con người có ý chí và bản lãnh chấp nhận những khó khăn của cuộc sống phiêu lưu và khai phá. Ðó là những con người có tinh thần phóng khoáng, không chịu những áp bức bất công của thời kỳ vua Lê - chúa Trịnh suy vi, xã hội miềm Bắc hỗn loạn nên tìm cách chống lại để bảo vệ tự do và phẩm giá nên bị ghép vào tội nghịch dân và bị lưu đày. Ðó cũng là những con người nhận trách nhiệm lịch sử, đội quân tiên phong của Chúa Nguyễn vào Nam trấn thủ và mở mang bờ cõi. Từ công cuộc di dân khai khẩn vùng đất mới, những giá trị văn minh Đại Việt cũng được mang đến và trung thành với nền văn hóa Đại Việt, người Điện Bàn ngày nay vẫn còn những nét thời di dân, lập ấp truyền lại: Dũng cảm, vững vàng, cương 17 trực nhưng rất giản dị và chất phát. Bằng trí tuệ và sức lao động cần cù, bền bỉ, người Điện Bàn đã khẩn hoang, lập ấp, phát triển kinh tế, xây dựng xóm làng đoàn kết, xã hội có kỷ cương, giữ vững thuần phong mỹ tục, tất cả những điều đó biểu hiện cô đọng của truyền thống yêu nước, yêu quê hương, tư tưởng nhân đạo, nhân văn sâu sắc của người Điện Bàn. Từ khi trở thành lãnh thổ Đại Việt, trải qua các thời kì lịch sử đều có chủ trương di dân liên tục từ Bắc vào định cư lập làng, lập ấp. Từ cuộc di dân thời nhà Hồ đầu thế kỷ XV (1402), rồi tiếp sau đó dưới thời nhà Hậu Lê (sau năm 1471) và đặc biệt dưới thời các chúa Nguyễn (năm 1558) với những luồng người di cư liên tục và đông đảo từ phía Bắc vào, vùng đất Điện Bàn mới ngày càng trở nên sầm uất, trù mật. Tham gia công cuộc khai khẩn vùng đất mới là những người thuộc nhiều dòng họ. Họ đến từ nhiều vùng đất khác nhau, đông nhất là từ Nghệ An, Thanh Hóa. Những người Việt chuyển cư từ phía Bắc vào Điện Bàn – Quảng Nam, có nhiều nguồn gốc khác nhau: có những người không đạt đến sự thành công trong ý đồ của mình ở các tỉnh quê hương phía Bắc, có cả những tội đồ, nghịch dân... Nhưng tuyệt đại đa số vẫn là những người lao động lương thiện, những quan lại, tướng lĩnh, những binh sĩ đã tham gia cuộc hành quân lớn do vua Lê Thánh Tông tổ chức, tình nguyện ở lại vùng đất mới để xây dựng “quê hương mới”. Những người dân Đại Việt xa rời lãnh thổ quê hương cũ, họ vẫn mang theo đến những vùng đất mới những phong tục tập quán lưu truyền, những giá trị văn minh Đại Việt và vẫn sâu sắc với gốc tích quê hương. Tham gia công việc khai khẩn vùng đất mới là những người thuộc nhiều dòng họ khác nhau từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Dương, Cao Bằng. Đông nhất là từ Nghệ An, Thanh Hóa. Những người Việt chuyển cư từ phía Bắc vào Điện Bàn - Quảng Nam, có nhiều nguồn gốc khác nhau: có những người không đạt đến sự thành công trong ý đồ của mình ở các tỉnh quê hương phía Bắc, có cả những tội đồ, nghịch dân... Nhưng tuyệt đại đa số vẫn là những người lao động lương thiện, những quan lại, tướng lĩnh, những binh sĩ đã tham gia cuộc hành quân lớn do vua Lê Thánh Tông tổ chức, tình nguyện ở lại vùng đất mới để xây dựng “quê hương mới”. Những người dân Đại Việt khi chuyển vào nam đã từng gắn bó với giá trị văn minh Đại Việt, đã từng biết đến vinh quang từ những thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và một 18 thời cực thịnh dưới triều Lê Sơ. Họ vượt qua đèo Hải Vân, đi lập nghiệp ở vùng đất mới với một niềm tin và một mong ước về một cuộc sống và một tương lai tốt đẹp. Xa rời lãnh thổ quê hương cũ, họ vẫn mang theo đến vùng đất mới những phong tục tập quán lưu truyền, những giá trị văn minh Đại Việt và vẫn sâu sắc với gốc tích quê hương. Nhờ các gia phả và các văn bia còn giữ lại được, có thể biết rõ từ cuối thế kỷ XV trở đi có khá nhiều tộc họ đến khai khẩn vùng đất của huyện Điện Bàn ngày nay. Sau đại thắng quân Chiêm (1471), Triệu quận công Lê Văn Cảnh được sai phái ở lại vùng đất Chiêm Động đã tổ chức khai khẩn đất hoang, qui dân lập ấp, lập nên làng Mạc Xuyên sau đổi là Vân Xuyên rồi Vân Ly, nay thuộc xã Điện Quang. Lê Viết Bang, theo phò vua vào Nam chinh chiến, sau 1471 được vua sai phái ở lại vùng đất Chiêm Động, có công khai khẩn đất hoang, qui dân lập ấp, lập nên làng Bằng An, nay thuộc xã Điện An. Đô trị bình Chiêm Lê Tự Cường sau thời gian phò vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm thắng lợi đã có công khai khẩn xứ Bàn Tràm, làng Thanh Quýt thuộc xã Điện Thắng ngày nay. Có rất nhiều dòng Lê tộc từ Thanh Hóa vào định cư tại đất Điện Bàn ngày nay như Lê Tấn Viễn định cư tại Điện Dương, Lê Cao Xảo tại Điện Phước, Lê Viết Bảo tại Điện Nam, Lê Cường, Lê Tấn tại Điện Hồng, Lê Văn Đạo tại Đông Bàn, Lê Đắc Sùng tại Giáo Ái, Túy La (Điện Hồng), Lê Đắc Vinh tại Điện Hồng. Không chỉ có người họ Lê mà còn có cả người thuộc các tộc khác hoặc theo nhà vua đánh Chiêm rồi ở lại khai khẩn vùng đất mới, hoặc di cư vào từ sau khi đạo Thừa tuyên được thành lập. Nhờ các gia phả và các bia đá còn giữ lại được, có thể biết từ cuối thế kỷ XV có nhiều tộc đến khai khẩn vùng đất Điện Bàn ngày nay như thủy tổ tộc Phạm ở Cẩm Sa, thủy tổ tộc Nguyễn Văn, tộc Đào, tộc Võ, tộc Mai, tộc Lê, tộc Nguyễn, tộc Hồ ở làng Nông Sơn, tộc Phan, tộc Ngô, tộc Nguyễn ở làng Bảo An. Các nhà nghiên cứu cũng đọc được trên một tấm văn bia của dòng họ Phan, xã Phong Thử (Điện Bàn) những dòng chữ sau: “Năm Đinh Mùi Quang Hòa 15 (1547), khi đó thủy tổ họ Phan đã 43 tuổi. Ông vâng mệnh Tiên Thánh Vương4 vào 4 Vua Lê Trang Tông thời đó 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất