Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vị thế chính trị của asean ở khu vực đông á từ năm 1997 đến nay...

Tài liệu Vị thế chính trị của asean ở khu vực đông á từ năm 1997 đến nay

.PDF
94
606
132

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- ĐINH TRUNG KIÊN VỊ THẾ CHÍNH TRỊ CỦA ASEAN Ở KHU VỰC ĐÔNG Á TỪ NĂM 1997 ĐẾN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội - 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- ĐINH TRUNG KIÊN VỊ THẾ CHÍNH TRỊ CỦA ASEAN Ở KHU VỰC ĐÔNG Á TỪ NĂM 1997 ĐẾN NAY Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 60.31.02.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Quang Minh Hà Nội - 2015 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học Chương trình cao học chuyên ngành Chính trị học tại trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc gia Hà Nội, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô trong khoa Khoa học chính trị; các thầy, cô giáo trong trường và Ban giám hiệu nhà trường. Với sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của PGS.TS Phạm Quang Minh và các thầy, cô trong Khoa, đến nay Luận văn tốt nghiệp chương trình cao học của tôi đã hoàn thành. Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Phạm Quang Minh, thầy đã dành nhiều thời gian, nhiệt huyết để hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy, cô tại Khoa Khoa học chính trị- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, các chuyên gia, đồng nghiệp và bạn bè, gia đình đã giúp đỡ, ủng hộ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn. Trong quá trình học tập và nghiên cứu tôi đã có những cố gắng, tuy nhiên vẫn còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự thông cảm, thứ lỗi và chỉ bảo của các thầy, cô trong Khoa, của thầy hướng dẫn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương ASCC Cộng đồng Văn hóa-Xã hội AEC Cộng đồng Kinh tế ASC Cộng đồng An ninh APSC Cộng đồng Chính trị - An ninh ARF Diễn đàn khu vực ASEAN ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEM Diễn đàn hợp tác Á- Âu CHDCND Cộng hòa Dân chủ Nhân dân CA-TBD Châu Á - Thái Bình Dương CEPT/AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN DOC Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông EAS Hội nghị cấp cao Đông Á EU Liên minh châu Âu GSM Tiểu vùng sông Mekong mở rộng NAFTA Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ IAI Sáng kiến Liên kết ASEAN SEANWFZ Hiệp ước về khu vực Đông Nam Á không vũ khí hạt nhân ZOPFAN Tuyên bố về khu vực hoà bình, tự do, trung lập HPA Chương trình hành động Hà Nội VAP Chương trình Hành động Viên Chăn TOR Thuật ngữ tham chiếu ACMW Tuyên bố ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của lao động di cư MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ..........................................................................2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn ................................................4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................5 6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................5 7. Kết cấu luận văn ................................................................................................5 Chƣơng 1 .......................................................................................................................................................... 7 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VỊ THẾ CHÍNH TRỊ CỦA ASEAN .......................................... 7 1.1 Khái niệm chính trị 1 ......................................................................................7 1.2. Khái niệm “vị thế chính trị” ..........................................................................9 1.4 Những tiêu chí phản ánh vị thế chính trị của một chủ thể ........................13 1.5 Tổng quan về ASEAN và những dấu mốc quan trọng ..............................14 Các dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của ASEAN: ....................16 1.5 Khái quát về Cộng đồng ASEAN .................................................................18 Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................ 22 Chƣơng 2. VAI TRÕ VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA ASEAN TRONG ............................................................. 23 NỀN CHÍNH TRỊ ĐÔNG Á ......................................................................................................................... 23 2.1 Đặc trƣng cấu trúc chính trị khu vực Đông Á ............................................23 2.2.Vai trò của ASEAN trong chính trị nội bộ..................................................24 2.2.1 Liên kết nội khối ASEAN và sự hình thành chủ nghĩa khu vực ................................................ 24 2.2.2 ASEAN và các vấn đề khủng bố .................................................................................................. 33 2.2.3 ASEAN và giải quyết vấn đề Biển Đông...................................................................................... 36 2.3 ASEAN trong chính trị quốc tế ....................................................................39 2.3.1 Sự hiện diện của ASEAN vào các diễn đàn quốc tế.................................................................... 39 2.3.2 ASEAN dưới đánh giá của Liên Hiệp Quốc ............................................................................... 43 2.3.3 ASEAN trong hợp tác Á- Âu ........................................................................................................ 46 Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................ 48 Chƣơng 3. VỊ THẾ CỦA ASEAN TRONG TƢƠNG LAI VÀ ĐÓNG GÓP CỦA VIỆT NAM ............. 49 3.1 Những thành tựu sau 48 năm phát triển của ASEAN ..............................49 3.2 Những thách thức của ASEAN trong tình hình mới ..................................51 3.2.1. Ảnh hưởng của các nước lớn ở khu vực Đông Á ...................................................................... 51 3.2.2. Ảnh hưởng của cuộc đấu tranh quyền lực giữa Mỹ - Trung Quốc với ASEAN................................... 54 3.2.3. ASEAN và những vấn đề còn tồn tại giữa các thành viên ........................................................ 55 3.2.4. Ảnh hưởng của các nước lớn và khối quyền lực khác đến ASEAN ......................................... 57 3.3.Triển vọng của ASEAN .................................................................................63 3.4. Những đóng góp của Việt Nam trong việc gắn kết ASEAN tiến tới xây dựng Cộng đồng ASEAN ....................................................................................68 Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................ 77 KẾT LUẬN .................................................................................................................................................... 78 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................................. 80 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa đang là vấn đề nổi bật của thế giới hiện nay. Những thành tựu mà các tổ chức, cơ chế hợp tác quốc tế như Liên hợp quốc (UN), liên minh châu Âu (EU) đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình liên minh, liên kết giữa các quốc gia trong khu vực và thế giới. Việc ra đời Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1967 cũng không nằm ngoài xu hướng tất yếu đó. ASEAN cùng với các nước lớn như Mỹ, Ấn Độ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương (APEC) là những nước và tổ chức khu vực được coi là tác động trực tiếp đến việc hình thành cục diện chính trị ở Đông Á hiện nay và trong tương lai. Đồng thời, Đông Á hiện nay đang được xem như là điểm nóng về các tranh chấp biển, đảo giữa các quốc gia, trong đó nổi lên là các tranh chấp ở Biển Đông liên quan trực tiếp đến các nước ASEAN, chính vì vậy vai trò của ASEAN- một đại diện thống nhất của các nước thành viên trong việc giải quyết các tranh chấp với các nước lớn, duy trì hòa bình và ổn định khu vực là rất quan trọng. Trong bối cảnh cục diện chính trị thế giới có nhiều biến chuyển và ở nhiều quốc gia sự chia rẽ và xung đột đã dẫn tới những bất ổn cho cả khu vực thì sự kiện các lãnh đạo ASEAN đạt được sự nhất trí về các bước đi cụ thể nhằm xây dựng Cộng đồng ASEAN mạnh mẽ, thực sự vì người dân là một thông điệp rõ ràng về ý chí không đổi của một ASEAN gắn kết chặt chẽ; đồng thời là một khối chính trị thống nhất. Cùng tìm ra các giải pháp củng cố khả năng ứng phó của ASEAN trước những biến động kinh tế - tài chính quốc tế, trở thành một bộ phận của các giải pháp xử lý khủng hoảng và đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng cân bằng của kinh tế thế giới là đích đến quan trọng trong thời đại của liên kết và phụ thuộc lẫn nhau như hiện nay. Khẳng định sự thịnh vượng không thể tách rời duy trì an ninh và ổn định tại ASEAN, việc thông qua các sáng kiến, cơ chế xử lý xung đột nội khối và tạo môi trường thuận lợi cho đối thoại giữa các nước có tranh chấp trong Hội nghị thượng đỉnh tại Bali năm 2003 một lần nữa cho thấy lập trường kiên quyết nhưng hòa bình của lãnh đạo ASEAN trước những vấn đề mới nảy sinh. 1 Từ năm 1995 Việt Nam trở thành thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)- một bộ phận quan trọng của khu vực Đông Á, là chủ nhà của nhiều sự kiện quốc tế quan trọng. Sau 20 năm, cho đến nay, Việt Nam đã trở thành một thành viên tích cực, chủ động và có trách nhiệm của ASEAN. Vị trí và vai trò của ASEAN trong khu vực và trên thế giới có ảnh hưởng rất lớn đối với Việt Nam hiện nay và trong tương lai. Với tất cả những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài Vị thế chính trị của ASEAN ở khu vực Đông Á từ năm 1997 đến nay làm luận văn thạc sĩ chính trị học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vị thế chính trị của ASEAN ở khu vực Đông Á từ năm 1997 đến nay là chủ đề cũng được nhiều học giả, các nhà nghiên cứu chính trị, quan hệ quốc tế trong và ngoài nước quan tâm. Từ khi Đảng và Nhà nước ta từng bước thực hiện đổi mới tư duy đối ngoại, xây dựng chính sách đối ngoại mở rộng, tích cực, độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quốc tế với mục tiêu hàng đầu là tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển của đất nước, đặc biệt là trong việc tạo lập mối quan hệ chặt chẽ với các nước ASEAN để cùng xây dựng nên một ASEAN thống nhất thì mối quan tâm đến vị thế của ASEAN trong cục diện chính trị khu vực và thế giới và tác động đến Việt Nam cũng ngày càng tăng. Cho đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố trên các tạp chí uy tín cả trong và ngoài nước về vị trí, vai trò, vị thế của ASEAN trong mối quan hệ với các nước lớn, với các tổ chức khác trong khu vực và trên thế giới nói chung như: Tạp chí nghiên cứu Quốc Tế- Học viện Ngoại Giao, Nghiên cứu Đông Bắc Á, Nghiên cứu Đông Nam Á, tạp chí Cộng Sản,…Điểm lại một số nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đánh giá vị thế, vai trò của ASEAN tác giả Lê Linh Lan trong nghiên cứu Kiến trúc an ninh khu vực châu Á – Thái BìnhDương - thách thức và triển vọng công bố trên tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 17 (tháng 4/1997) đề cập đến vai trò và sự ảnh hưởng của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực châu Á- Thái Bình Dương thông qua những phân tích đánh giá về những nỗ lực của ASEAN trong việc tăng cường vai trò của mình đối với an ninh khu vực thông qua 2 diễn đàn an ninh ASEAN (ARF). Tác giả Nguyễn Phương Bình đã phân tích vai trò của ASEAN đối với cả các nước thành viên và khu vực châu Á- Thái Bình Dương trên cả ba lĩnh vực: kinh tế, chính trị và văn hóa- xã hội trong nghiên cứu “Vai trò của ASEAN đối với các nƣớc thành viên và với khu vực châu Á- Thái Bình Dƣơng” công bố trên tạp chí nghiên cứu quốc tế số 34 (2000). Trong đó, tác giả đánh giá hợp tác chính trị là lĩnh vực hợp tác thành công nhất của ASEAN. Thông qua hợp tác chính trị, vai trò của Tổ chức đối với các nước thành viên được thể hiện rõ rệt nhất. Điều được thừa nhận rộng rãi về vai trò của ASEAN đối với các nước thành viên trong 30 năm đầu tiên của ASEAN là việc xử lý ổn thoả các mối bất đồng, tranh chấp giữa các nước thành viên, không để dẫn đến xung đột, tạo điều kiện xây dựng một môi trường hoà bình, ổn định và hợp tác giữa các nước thành viên để từ đó giúp họ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, và xây dựng một khu vực Đông Nam Á thống nhất, vững mạnh trước các sức ép từ bên ngoài. Trong khi đó, tác giả Trần Hữu Trung lại đề cập đến vai trò của ASEAN trong hợp tác Đông Á dưới quan điểm của Nhật Bản và Trung Quốc, hai tác nhân có vai trò chính tại Đông Bắc Á trong nghiên cứu “Quan điểm của Nhật Bản và Trung Quốc về vai trò của ASEAN trong hợp tác Đông Á” công bố trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 2 (2010). Với những phân tích của tác giả Trần Hữu Trung, ASEAN dưới quan điểm của Nhật Bản và Trung Quốc là tác nhân thúc đẩy liên kết kinh tế khu vực, đồng thời ASEAN có vai trò cầm lái trong các tiến trình hợp tác trong khu vực và cộng đồng ASEAN sẽ vừa là hình mẫu vừa là nòng cốt của Cộng đồng Đông Á. Nhìn nhận đánh giá vai trò, vị thế của ASEAN trên nhiều khía cạnh với các góc độ và mức độ khác nhau, nhiều các học giả và tạp chí nước ngoài đã đưa ra những phân tích, khái quát và nhận định sâu sắc về vài trò, vị thế và những đóng góp của ASEAN đối với khu vực châu Á- Thái Bình Dương, Đông Á và thế giới. Viện Hoàng gia An ninh quốc phòng Anh (RUSI) đã phân tích vai trò của ASEAN trong giải quyết vấn đề ở Mi-an-ma (Myanmar) ở bài “Trung Quốc và ASEAN: hai nhân tố cải cách Mianma” đăng ngày 17/5/2012. Trong bài phân tích này, ASEAN và “cách thức ASEAN” đã được cho là giải quyết hiệu quả, giúp 3 thúc đẩy tiến trình cải cách ở Mi-an-ma mà vẫn tuân thủ các nguyên tắc không can thiệp của ASEAN, đã củng cố thêm vị thế của ASEAN và cho thấy tính hiệu quả trong hoạt động của ASEAN. Phân tích vai trò của ASEAN trong bối cảnh thế giới, khu vực đang có nhiều biến cố và thay đổi quyền lực, bài viết “ASEAN Centrality: Year of Big Power Transitions” của Benjamin Ho – Trường Nghiên cứu các vấn đề quốc tế (RSIS) Singapore được dịch và đăng trên website nghiencuubiendong.vn ngày 5/3/2011, đã chỉ ra xu hướng tiếp cận vai trò của ASEAN như một trung tâm trong một cấu trúc khu vực do ASEAN lãnh đạo. Vai trò trung tâm của ASEAN được chứng minh bởi sức hút của ASEAN đối với các nước lớn trong việc tham gia vào các tiến trình, diễn đàn do ASEAN dẫn dắt đặc biệt là Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn Mục đích của luận văn là đánh giá một cách khách quan vị thế chính trị của ASEAN ở khu vực Đông Á từ năm 1997 đến nay, từ đó đề xuất một số gợi ý chính sách cho hợp tác khu vưc và quan hệ Việt Nam- ASEAN. Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn đặt ra một số nhiệm vụ chủ yếu sau: 1. Làm rõ khái niệm “vị thế chính trị của ASEAN” ở khu vực Đông Á. 2. Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn xác lập vị thế chính trị của ASEAN ở khu vực Đông Á. 3. Đánh giá những thành công và hạn chế của ASEAN trong lĩnh vực chính trị. 4. Đề xuất một số gợi ý chính sách cho hợp tác khu vực và quan hệ Việt Nam- ASEAN. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: luận văn nghiên cứu Vị thế chính trị của Asean ở khu vực Đông Á. Luận văn không nghiên cứu Vị thế của ASEAN ở khu vực Đông Á theo nghĩa rộng mà chỉ nghiên cứu vị thế chính trị của ASEAN trong chính trị nội tại đó là quan hệ giữa các nước thành viên và giải quyết các vấn đề của khu vực, tạo lập sự ổn định nội khối; và chính trị quốc tế đó là sự tham gia vào các diễn đàn quốc tế, hợp tác quốc tế và Liên hợp quốc. 4 Phạm vi không gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu khu vực Đông Á mở rộng, bao gồm Đông Bắc Á, Đông Nam Á và những nhân tố nằm ngoài Đông Á nhưng có ảnh hưởng lớn đến cục diện chính trị Đông Á như: Mỹ, Úc, Ấn Độ, Nga. Về giới hạn thời gian nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu vị thế chính trị của ASEAN ở khu vực Đông Á từ năm 1997 đến năm nay, nhưng cũng sẽ nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử từ khi ASEAN ra đời năm 1967 đến nay. Mốc thời gian năm 1997 là mốc thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ASEAN, đó là khi ASEAN phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, đe dọa sự tồn tại, gắn kết của ASEAN. Đây là thử thách lớn nhất từ trước tới nay của ASEAN. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lên nin và tư tưởng Hồ Chính Minh về các vấn đề quốc tế và lợi ích quốc gia. Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng một cách tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp lịch sử, so sánh, logic kết hợp với các phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế. 6. Đóng góp của luận văn Dựa vào nguồn tài liệu chính thống trong và ngoài nước, luận văn khi hoàn thành hi vọng sẽ góp phần luận giải và làm sáng tỏ thêm vị thế chính trị của Asean ở khu vực Đông Á từ năm 1997 đến nay. Qua đó, có thể thấy được vị thế ngày càng quan trọng của ASEAN trong trật tự khu vực và tương quan lực lượng trên bàn cờ chính trị Đông Á, vai trò của ASEAN trong việc giải quyết những tranh chấp quốc tế. Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho việc học tập của sinh viên chuyên ngành quan hệ quốc tế, chính trị học và cho những người quan tâm đến ASEAN, các vấn đề chính trị, quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Á và thế giới. 7. Kết cấu luận văn Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nói trên, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có kết cấu ba chương, cụ thể là: 5 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VỊ THẾ CHÍNH TRỊ CỦA ASEAN Chương này trình bày một số khái niệm cơ bản như “ chính trị”, “vị thế chính trị” của một tổ chức, trong đó đặc biệt làm rõ những tiêu chí xác lập vị thế chính trị của một quốc gia, một khu vực trong chính trị quốc tế. Chương này cũng khái quát vị trí, vai trò của ASEAN từ khi thành lập đến năm 1997. Chƣơng 2. VAI TRÕ VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA ASEAN TRONG NỀN CHÍNH TRỊ ĐÔNG Á Chương này trình bày những đặc trưng cấu trúc chính trị của khu vực Đông Á, sự hiện diện của các thực thể chính trị và vai trò của nó trong việc hình thành cấu trúc chính trị khu vực Đông Á. Chương này cũng phân tích vai trò của ASEAN trong chính trị nội bộ của tổ chức, vai trò trong việc liên kết nội khối và hình thành chủ nghĩa khu vực, sự hiện diện và phản ứng của ASEAN đối với các vấn đề khủng bố và vấn đề biển Đông. Đồng thời, chương này cũng phân tích vai trò của ASEAN trong chính trị quốc tế, sự hiện diện của ASEAN trong các diễn đàn quốc tế, mối quan hệ giữa ASEAN và Liên Hiệp Quốc và vai trò của ASEAN trong hợp tác Á- Âu. Chƣơng 3. VỊ THẾ CỦA ASEAN TRONG TƢƠNG LAI VÀ ĐÓNG GÓP CỦA VIỆT NAM Chương này đánh giá những thành tựu của ASEAN trong gần 50 năm hình thành và phát triển, phân tích những thách thức của ASEAN trong bối cảnh cạnh tranh quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc. Đồng thời, đề xuất một số gợi ý chính sách 6 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VỊ THẾ CHÍNH TRỊ CỦA ASEAN 1.1 Khái niệm chính trị Chính trị hay Chánh trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề trung tâm đó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Platôn, nhà triết học cổ đại Hy Lạp, trong tác phẩm Chính trị đã xem chính trị là “nghệ thuật cung đình” liên kết trực tiếp các chuẩn mực của người anh hùng và sự thông minh, sự liên kết đó được thể hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái. Cũng theo ông, chính trị là nghệ thuật cai trị, cai trị bằng sức mạnh là độc tài, cai trị bằng thuyết phục mới đích thực là chính trị. Theo MaxWeber, nhà xã hội học người Đức đầu thế kỷ XX, chính trị là khát vọng tham gia quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc gia, giữa các tập đoàn người trong một quốc gia. Xuất phát từ quan niệm mang tính chức năng của chính trị, một số học giả khác đã xem chính trị là khả năng của con người đóng những vai trò khác nhau, hoàn thành những chức năng khác nhau trong khuôn khổ của một thể chế chính trị. Từ đó, họ cho rằng bản chất chính của chính trị là sự phân chia trách nhiệm và các thẩm quyền cũng như bảo đảm hiệu quả chính trị và sự bền vững của chính thể. Ở đây, chính trị được hiểu như sự khôn khéo, khả năng đạt được sự phân chia chức năng mà vẫn đảm bảo duy trì sự tác động qua lại của chúng. Tiếp cận từ quan niệm coi chính trị là một hoạt động, trong đó, con người mong muốn những lợi ích và quan điểm của mình được thực hiện, nếu những lợi ích và quan điểm đó bị va chạm với người khác thì tìm cách điều chỉnh và thỏa hiệp, các tác giả của cuốn Chính trị và kinh tế Nhật Bản xem chính trị là hoạt động tìm kiếm những khả năng áp đặt quyền lực chính trị. Các quan niệm trên, tuy có chứa một số những nhân tố hợp lý nhất định, nhưng chưa nêu được nội dung cơ bản nhất của phạm trù chính trị, đó là: chính trị là 7 một thực thể tồn tại trong đời sống với những cấp độ khác nhau (cá nhân, cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân loại) liên quan đến công việc của nhà nước. Khắc phục những hạn chế trên, mặc dù chưa đưa ra được một định nghĩa hoàn chỉnh về chính trị, song các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin trong những hoàn cảnh cụ thể đã đưa ra những ý kiến có giá trị định hướng cho việc xác định đúng đắn về chính trị, có thể kể đến những quan điểm chủ yếu của Lênin về chính trị như sau: Chính trị là lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, là đấu tranh giai cấp vì lợi ích giai cấp. Cái căn bản nhất trog chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà nước, tổ chức chính quyền nhà nước. Chính trị là sự tham gia vào công việc nhà nước, là việc định hướng cho nhà nước, xác định những hình thức, nội dung, nhiệm vụ của nhà nước Chính trị là quan hệ giữa người với người, là vận mệnh thực tế của hàng triệu người. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dựng nhà nước về kinh tế. Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Chính trị giống đại số hơn hình học và càng giống toán học cao cấp hơn là toán học sơ cấp. Chính trị là một khoa học và là một nghệ thuật. Vậy là, theo Lênin, phạm trù chính trị có thể hiểu với một số nội dung cơ bản sau: Thứ nhất: Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp. Thứ hai: Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức chính quyền, quyền lực nhà nước; là sự tham gia vào công việc nhà nước; định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung, nhiệm vụ của nhà nước. Thứ ba: Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dựng nhà nước về kinh tế. Đồng thời, chính trị là không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Thứ tư: Chính trị là lĩnh vực phức tạp nhất, nhạy cảm nhất, liên quan dến vận mệnh hàng triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. 8 Xuất phát từ quan niệm của Lênin về chính trị, tập thể các tác giả cuốn Từ điển chính trị rút gọn của Liên Xô (cũ) đã đưa ra định nghĩa: Chính trị là công việc của xã hội hay công việc của nhà nước, là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các nhóm xã hội lớn, trước hết là giai cấp, cũng như giữa các dân tộc, giữa các quốc gia. Từ tất cả các quan niệm trên, có thể xem chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như giữa các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước; là sự tham gia của người dân vào công việc nhà nước và xã hội; là hoạt động chính trị thực tiễn của các giai cấp, các đảng phải chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích. Định nghĩa này đã tiếp cận chính trị từ hai phương diện cơ bản : chính trị với tư cách quan hệ đặc biệt của các chủ thể chính trị liên quan tới vấn đề quyền lực chính trị và chính trị với tư cách là hoạt động xã hội đặc thù của các chủ thể chính trị có liên quan tới vấn đề nhà nước. 1.2. Khái niệm “vị thế chính trị” “Vị thế” là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi và khá thường xuyên trong nhiều lĩnh vực ở Việt Nam, mặc dù chưa có một định nghĩa thật rõ ràng hoàn chỉnh. Thuật ngữ “vị thế” thường đi kèm với thuật ngữ “vị thế xã hội” hoặc “ vị thế cá nhân”. Theo từ điển tiếng Việt, vị thế xã hội “ là vị trí xã hội với những trách nhiệm và quyền lợi gắn kèm theo”. Nói cách khác, vị thế xã hội chính là một khái niệm tổng hợp nhằm chỉ vị trí xã hội cùng với những quyền lợi và nghĩa vụ tương ứng. Mỗi cá nhân có nhiều vị trí xã hội khác nhau do đó họ cũng có thể có nhiều vị thế xã hội khác nhau. Khi vị trí xã hội của họ thay đổi thì vị thế cũng thay đổi. Mặc dầu có nhiều vị thế xã hội nhưng các cá nhân luôn có một vị thế chủ đạo xác định rõ chân dung xã hội của họ. Như vậy có thể hiểu thuật ngữ “Vị thế” là vị trí của một chủ thể gắn liền với trách nhiệm và quyền lợi tương ứng của chủ thể đó trong sự tương tác với các chủ thể khác. Đối với một quốc gia, xét trong mối quan hệ tương tác giữa các chủ thể tức là xem xét vị thế của một chủ thể, một quốc gia trong cục diện của một tổng thể quan hệ giữa các quốc gia. Trong đó sức ảnh hưởng, vai trò, tiếng nói của các nước 9 không giống nhau. Có những nước có khả năng ảnh hưởng lớn đến các nước khác và làm chủ được tình hình, có những nước lại chỉ có những ảnh hưởng nhất định thậm chí là bị ảnh hưởng bởi các nước khác và chịu sự áp đặt ý chí của các nước có thế và lực mạnh hơn mình. Như vậy, vị thế chính trị của một quốc gia, một khu vực trong mối quan hệ với các quốc gia trong khu vực hoặc với các thực thể chính trị trong cùng môi trường tương tác được thể hiện trước hết là ở tầm quan trọng về vị trí địa lý mà quốc gia hay khu vực đó chiếm giữ. Đồng thời, phát huy vai trò, sức ảnh hưởng của quốc gia, khu vực đó đối với sự phát triển, ổn định chính trị của khu vực và của thế giới. Những đóng góp của quốc gia khu vực đó trong giải quyết những vấn đề quốc tế và hình thành liên kết đa phương, song phương về An ninhchính trị cũng là những nhân tố then chốt làm nên vị thế của một quốc gia, khu vực. Xét trong tổng thể mối quan hệ giữa các thực thể chính trị khu vực Đông Á hiện nay, không có quốc gia nào có được sự thừa nhận vị trí lãnh đạo, bá quyền. Thay vào đó, các mạng lưới chính trị, kinh tế và xã hội ngày càng tăng, các vấn đề khu vực được giải quyết thông qua hành động chung. Chính vì vậy, các khuôn khổ khác nhau đã giảm bớt sức mạnh của quy tắc chủ quyền tuyệt đối đã từng thống trị ASEAN vào thời điểm thành lập những năm 1967. Trong suốt những thập kỷ tiếp theo, các vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng tăng, đó là nạn rửa tiền, buôn bán người, suy thoái môi trường, việc phát triển các dòng sông đa quốc gia, các hình thức vượt biên bằng đường biển, khủng bố và nạn cướp biển. Những vấn đề an ninh xuyên quốc gia này đòi hỏi việc xây dựng cơ chế đa phương hơn là chính sách ngoại giao tạm thời. Ít nhất trên lý thuyết thì các tổ chức như ASEAN đã đưa ra được các thủ tục và quy tắc ra quyết định trong đó tất cả các chính phủ tham gia đều có tiếng nói. 1.3 Cơ sở lý luận về vị thế chính trị của ASEAN Để nhìn nhận vai trò, vị thế của ASEAN trong các mối quan hệ này các nhà lý luận quan hệ quốc tế thường sử dụng ba khung phân tích: chủ nghĩa Tân hiện thực, chủ nghĩa Tân tự do và chủ nghĩa Kiến tạo. Những nhà chủ nghĩa Tân hiện thực coi nhẹ vai trò của ASEAN trong an ninh khu vực, bởi vì các tổ chức chỉ có vai trò phụ trong việc chi phối an ninh khu vưc. Sự ổn định về an ninh chính trị của 10 một khu vực phụ thuộc vào việc phân bổ quyền lực trong khu vực đó, chứ không phải vào một tổ chức quốc tế của các nước trung bình và nhỏ chỉ giới hạn trong Đông Nam Á. Điểm thực sự của quyền lực châu Á- TBD, trong đó có Đông Á phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các chủ thể chính: Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản và các chủ thể khác như Nga, Ấn Độ. Những nhà chủ nghĩa Tân tự do lại cho rằng ASEAN can dự vào các vấn đề khu vực trong đó có an ninh- chính trị, không phải thông qua việc cân bằng hay phù thịnh với các cường quốc lớn mà thông qua sự can dự của họ vào các thể chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và các cơ chế đa phương của mình (ARF và ASEAN+3). Thông qua việc thúc đẩy hợp tác chính trị và kinh tế với cả ba cường quốc, ASEAN và các cơ chế của mình đã thúc đẩy sự hòa hợp, nghĩa là hợp tác mang lại lợi ích lẫn nhau cho tất cả các bên. Tuy nhiên, trường phái Tân tự do đã bị thụt lùi từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997- 1998. Cả ASEAN, ARF và diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á- TBD ( APEC) đều không thể giải quyết khó khăn tài chính ở Indonesia, Thái Lan và Malaysia. Về vấn đề an ninh, ASEAN cũng không dàn xếp được cuộc khủng hoảng ở Đông Timo năm 1999. Lợi ích quốc gia chiếm vị trí áp đảo trong cả hai thách thức này đối với chủ nghĩa Tân tự do. Trường phái quan hệ quốc tế thứ ba, Chủ nghĩa kiến tạo nhấn mạnh những ý tưởng, quy chuẩn và bản sắc, tranh luận rằng chất lượng của sự tương tác giữa các quốc gia căn cứ trên việc các quy tắc có được chia sẻ hay không và chúng thay đổi như thế nào theo thời gian. Vì thế, những nhà chủ nghĩa kiến tạo tranh luận rằng ASEAN đang nổi lên như là một cộng đồng an ninh non trẻ bởi cụm từ “tính chúng ta” trở nên phổ biến giữa các thành viên. Tuy nhiên, những nhà phê bình Chủ nghĩa kiến tạo nhấn mạnh rằng các quy chuẩn và các biến số văn hóa của ASEAN quá khó để xác định và đưa vào thực hiện. Hơn nữa, việc liên kết các quy chuẩn không rõ ràng với các kết quả chính sách thực tế ở ASEAN vẫn phải dựa trên sự thương lượng giữa các nước thành viên với những lợi ích khác nhau. Những nhà duy lý cho rằng trường phái Hiện thực và Tân tự do đưa ra bằng chứng thuyết phục hơn về các kết quả của ASEAN so với chủ nghĩa kiến tạo. Hướng tiếp cận về mặt lý thuyết hữu ích nhất với hệ thống ASEAN có thể là quan điểm tổng hòa của Evelyn Goh. Đây là quá trình các quốc gia được cuốn hút 11 vào cùng một hệ thống để đạt được những lợi ích. Tuy nhiên, quá trình tương tác lẫn nhau trong cùng một hệ thống, những quy chuẩn của các quốc gia cũng có thể bị thay đổi. Vì vậy, bắt đầu tư những năm 1990, ASEAN mà dẫn đầu bởi Singapore và Thái Lan đã thúc đẩy một cấu trúc an ninh khu vực (ARF) lôi cuốn càng nhiều cường quốc càng tốt. Tuy nhiên, dính líu không nhất thiết phải có sự hòa hợp. Từ quan điểm của Mỹ và Trung Quốc, có thể có sự căng thẳng giữa ARF, một cơ chế đối thoại an ninh trong đó cả hai đều là thành viên, và ASEAN+3, có Trung Quốc nhưng không có Mỹ. Chính vì vậy, Mỹ muốn ARF là nơi tổ chức đối thoại an ninh khu vực trong khi đó Trung Quốc lại muốn dưa thêm các cuộc thảo luận về an ninh vào ASEAN+3- vốn ban đầu chỉ là một nhóm đối thoại kinh tế, trong đó không có sự tham gia của Mỹ. Cả ASEAN và các cơ chế của mình đều không sở hữu các cơ chế tập trung quan trọng để thực thi những thỏa thuận đạt được bởi các thành viên, giám sát các sự kiện trong nước ở các quốc gia thành viên, hay dự báo trước các vấn đề đang nổi lên. “Phương thức Asean” của hiệp hội bản chất là sự thuyết phục về đạo đức- niềm tin rằng các quốc gia thành viên sẽ làm đúng đắn để không gây khó khăn cho tập thể. Rõ ràng rằng hi vọngđã không thành hiện thực trong trường hợp của Myanmar hay Campuchia. Nền chính trị trong nước của họ không chỉ gây khó khăn mà còn tạo ra nhiều vấn đề cho ASEAN phải giải quyết với châu Âu và Mỹ. Mặt khác, có môt ví dụ ấn tượng về khả năng của ASEAN trong việc ràng buộc các nước bên ngoài vào quy chuẩn của ASEAN- một điểm ủng hộ cho quan điểm của những người theo chủ nghĩa kiến tạo. Trung Quốc, Ấn Độ, Úc, New Zealand, và Nhật Bản giữa năm 2003 và 2005 đã ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác (TAC) ràng buộc các nước ký vào một cam kết giải quyết các tranh chấp khu vực một cách hòa bình. Tuy nhiên, việc giải quyết hòa bình tranh chấp giữa các nước không trực tiếp chuyển thành hợp tác an ninh đa phương. An ninh khu vực, nếu thực sự không thể phân chia, đòi hỏi sự tham gia xuyên quốc gia vào các vấn đề nội bộ trong nước dù vấn đề là nạn khủng bố gây ra bởi các tổ chức khủng bố, khói mù khu vực bắt nguồn từ đảo Borneo của Indonesia, hay buôn bán vũ khí từ Đông Nam Á lục địa đến Đông Nam Á hải đảo. Việc ngăn chặn những thách thức này đối với anh ninh 12 khu vực đồi hỏi sự giảm bớt nguyên tắc không can thiệp vào các vấn đề nội bộ của nhau. Vì vậy, để hiểu được ASEAN đòi hỏi kết hợp cả ba khuôn khổ lý thuyết chính, phục thuộc vào vấn đề đang được xem xét là gì. 1.4 Những tiêu chí phản ánh vị thế chính trị của ASEAN Thực tiễn lịch sử thế giới đã chứng minh các nước lớn tiếp tục có vai trò chủ đạo trong việc tạo lập trật tự thế giới. Phương cách tạo lập trật tự chủ đạo trong lịch sử vẫn là bá quyền. Công cụ tạo lập lịch sử chủ yếu vẫn là vũ lực. Tuy nhiên, các nước vừa và nhỏ vẫn có thể có vai trò đối với trật tự thế giới trong các hoàn cảnh nhất định. Đó là khi trật tự thế giới không phải là trật tự bá quyền hoặc trật tự hòa hợp quyền lực giữa các nước lớn. Bằng cách góp phần tạo ra các dạng thức trật tự phù hợp như cân bằng quyền lực; an ninh tập thể hoặc hội nhập và bằng cách liên kết lại với nhau, thông qua sức mạnh tinh thần như các ý tưởng, giá trị, chuẩn mực phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, các nước vừa và nhỏ hoàn toàn có thể có vai trò đối với trật tự thế giới. Các tiêu chí để đánh giá vai trò các nước vừa và nhỏ đối với trật tự thế giới là: - Nhận diện: Các nước vừa và nhỏ tạo ra luật chơi được các nước khác biết tới và hiểu một cách đầy đủ. - Thừa nhận: các luật chơi đó được các nước lớn thừa nhận. - Tuân thủ: Các nước lớn cơ bản tuân thủ các luật chơi này trên thực tế. - Chế tài: các nước vừa và nhỏ có biện pháp chế tài nếu có một nước lớn không tuân thủ luật chơi. Trong trường hợp của ASEAN với tư cách là một tập hợp của các nước vừa và nhỏ thì vai trò, vị thế phải được thể hiện trước hết ở mức độ gắn kết ASEAN thành một khối thống nhất, chặt chẽ trên tất cả các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội. Nằm trong khu vực với sự có mặt của nhiều cường quốc và thế lực chính trị tầm cỡ quốc tế với những lợi ích đan xen nhau, đồng thời những vấn đề nội khối trong ASEAN cũng đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết để giải quyết một cách hiệu quả. Do vậy, việc cân bằng các lợi ích, khả năng duy trì sự ổn định an ninh- chính trị thể hiện ở hiệu quả giải quyết những tranh chấp, thách thức và khủng hoảng trong và ngoài khu vực thông qua những mối quan hệ chiến lược với các nước lớn 13 và giữa các thành viên là một trong những điểm mấu chốt thể hiện vai trò, vị thế của ASEAN. Xử lý hiệu quả thách thức trên tất cả các bình diện được nhìn nhận là nhân tố then chốt để tiến tới mục tiêu tăng cường vai trò quốc tế của ASEAN trong cấu trúc khu vực và thế giới. Qua đó khẳng định ASEAN không chỉ là một hình mẫu thành công của hợp tác khu vực mà còn là một tiếng nói thống nhất ngày càng có giá trị trong nền chính trị Đông Á và thế giới. Vì vậy, việc hình thành vị thế chính trị của ASEAN thể hiện ở: - Là vai trò của ASEAN vào việc hình thành, xác lập hình hài, định hình quy mô của một vấn đề, một chương trình, diễn đàn trong phạm vi khu vực và thế giới. - Khả năng tác động và ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau đến việc giải quyết các vấn đề quốc tế, khu vực. - Sự thừa nhận và sẵn sàng tham gia của các nước khác đối với ASEAN và những hoạt động do ASEAN khởi xướng. - Tính thống nhất trong ASEAN, sự cố kết trong nội bộ tổ chức và khả năng tự quyết định của ASEAN đối với các vấn đề nội khối. 1.5 Tổng quan về ASEAN và những dấu mốc quan trọng Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (tiếng Anh: Association of Southeast Asia Nations, viết tắt là ASEAN) là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, và Philippines, để tỏ rõ tình đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng bạo động và bất ổn tại những nước thành viên. Sau Hội nghị Thượng đỉnh đầu tiên ở Bali năm 1976, tổ chức này bắt đầu chương trình cộng tác kinh tế, nhưng các hợp tác bị thất bại vào giữa thập niên 1980. Hợp tác kinh tế chỉ thành công lại khi Thái Lan đề nghị khu vực thương mại tự do năm 1991. Hàng năm, các nước thành viên đều luân phiên tổ chức các cuộc hội họp chính thức để trao đổi hợp tác. Đến năm 1999, ASEAN gồm 10 thành viên ( riêng Đông Timo chưa kết nạp). 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Luật so sánh...
29
830
86