Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Vi phạm pháp luật một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở việt nam...

Tài liệu Vi phạm pháp luật một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở việt nam

.DOC
103
62
108

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Từ khi xã hội loài người được hình thành, các hoạt động chung của nhân loại đã được quản lý bởi các quy phạm xã hội nhất định. Khi xã hội xuất hiện giai cấp thì cách thức quản lý và điều chỉnh các hoạt động xã hội cũng thay đổi. Sự hình thành Nhà nước và sự ra đời của pháp luật đáp ứng cho sự thay đổi này. Nhà nước ban hành ra pháp luật nhằm hướng xã hội theo trật tự mà giai cấp thống trị mong muốn. Nhưng mục đích đó không bao giờ được thực hiện một cách triệt để và cho đến tận ngày nay điều đó vẫn còn tiếp tục biểu hiện ngay trong xã hội văn minh vì có những lực lượng hay bộ phận dân cư chống lại Nhà nước, chống lại pháp luật và xã hội hoặc vì lý do nào đó mà họ đã vi phạm pháp luật. Trong xã hội tốt đẹp mà chúng ta đang xây dựng, hiện tượng vi phạm pháp luật vần tiếp tục xảy ra một cách phổ biến và đáng lo ngại, nhất là trong những năm gần đây khi chúng ta đổi mới cơ chế quản lý, đặc biệt là cơ chế quản lý kinh tế. Những biến đổi xã hội tiêu cực do sự tác động của mặt trái củ nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng nặng nề tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” mà chúng ta đang quyết tâm phấn đấu và xây dựng, trong đó vi phạm pháp luật nổi lên như một hiện tượng tiêu cực đặc biệt với những hậu quả nặng nề. Các thống kê xã hội học và các báo cáo của các cơ quan bào vệ pháp luật gần đây đã cho thấy tình trạng đáng báo động của hiện tượng này, buộc các nhà quản lý và bất kỳ người nào có trách nhiệm đều phải quan tâm, lo lắng. Nhận diện hiện tượng xã hội đặc biệt này một cách đúng đắn trở thành một yêu cầu cấp thiết phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong thời gian sắp tới một cách có hiệu quả nhằm xây dựng một xã hội như mục tiêu mà tất cả những người tiến bộ đều mong muốn đã nêu trên ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ lý do đó, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiền của vi phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay có một ý nghĩa hết sức to lớn và cũng là một yêu cầu cấp thiết đối với việc xây dựng một nhà nước pháp quyền “của dân, do dân và vì dân” mà ở đó pháp luật giữ vai trò thống trị, mọi người sống và làm việc theo Hiến pháp pháp luật. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đây là một vấn đề hết sức phức tạp, xảy ra ở mọi xã hội có pháp luật và Nhà nước nên nó được rất nhều các nhà quản lý cũng như các nhà luật học quan tâm. Cho đến nay ở Việt Nam, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vi phạm pháp luật nhưng chủ yếu đi theo từng mảng hay từng lĩnh vực cụ thể. Ví dụ, trong lĩnh vực hình sự, việc nghiên cứu tội phạm được đặc biệt chú ý như các công trình nghiên cứu về vấn đề lỗi của PGS- TS Nguyễn Ngọc Hòa, vấn đề đồng phạm của TS Lê Thị Sơn, TS Trần Văn Độ ... và nhiều đề tài luận văn tốt nghiệp cử nhân luật, cao học luật và tiến sĩ luật học khác nghiên cứu từng tội hoặc nhóm tội phạm cụ thể. Vi phạm pháp luật xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực được pháp luật điều chỉnh và hầu như ở lĩnh vực nào cũng có những chương trình, những vấn đề tài nghiên cứu về vi phạm pháp luật ở lĩnh vực ở lĩnh vực đó như hành chính, dân sự, lao động, kinh tế, môi trường. Trong số các công trình nghiên cứu đó thì các công trình nghiên cứu về tội phạm và tội phạm học là phong phú, toàn diện và triệt để hơn cả. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đây chủ yếu đi theo xu hướng luật chuyên ngành thực định tình hình vi phạm pháp luật xảy ra trên thực tế, còn việc nghiên cứu các yếu tố có liên quan đến vi phạm pháp luật như vấn đề cơ sở để vi phạm hóa đối với một số hành vi xã hội trong hoạt động xây dựng pháp luật, những yếu tố ảnh hưởng đến tình hình vi phạm pháp luật ...thì rất ít được quan tâm hoặc chủ yếu quan tâm ở một vài khía cạnh hẹp và trính khái quát không cao. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần nhỏ bé cho việc nghiên cứu tình hình vi phạm pháp luật thêm phong phú và đa dạng hơn. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Có thể nói, vi phạm pháp luật là một vấn đề hết sức phức tạp, chính vì thế mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm phân tích và khẳng định một số vấn đề có tính chất lý luận trong đó bổ sung một số ý kiến của cá nhân trong quá trình nghiên cứu để có thể trao đổi một số vấn đề lý luận liên quan đến thực tiễn. Từ mục đích đó, luận văn tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau: a. Vi phạm pháp luật với một số quan điểm từ trước đến nay. b. Cơ chế của vi phạm pháp luật c. Cấu thành của vi phạm pháp luật d. Những nhân tố ảnh hưởng đến vi phạm pháp luật e. Đặc điểm của tình hình vi phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay f. Tình hình kiểm soát vi phạm pháp luật ở Việt Nam trong thời gian gần đây; g. Xu hướng của tình hình vi phạm và một số giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật. 4. Phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong luận văn. Ngoài việc xuất phát từ cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác – Lê-nin, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp cụ thể khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê xã hội học, phỏng vấn, lịch sử... theo yêu cầu của từng vấn đề. 5. Những đóng góp mới của luận văn Với tư cách là một luận văn tốt nghiệp của chương trình cao học luật, đề tài nghiên cứu: “Vi phạm pháp luật - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam” đã góp phần khẳng định một số quan điểm lý luận về vi phạm pháp luật như vấn đề lỗi của cá nhân, lỗi của tổ chức... đồng thời đưa ra quan điểm riêng về tiêu chí để dự báo tình hình vi phạm pháp luật và mạnh dạn dự báo xu hướng của tình hình vi phạm pháp luật ở một số lĩnh vực theo những tiêu chí trên. Ngoài ra, qua việc nghiên cứu tình hình vi phạm pháp luật của Việt Nam trong thời gian gần đây, luận văn đã có một số ý kiến nêu lên những kiến nghị và giải pháp cho công tác phòng, chống vi phạm pháp luật trong thời gian tới. 6. Bố cục luận văn: Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành hao chương: 1. Chương I: Một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật 2. Chương II: Tình hình vi phạm pháp luật và công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật 1.1.1. Hành vi Con người, trong quá trình tồn tại và phát triển đã có nhiều hoạt động tác động vào thế giới tự nhiên và khai thác những lợi ích vật chất để duy trì sự tồn tại của mình và của giống nòi. Trong quá trình đó, con người lại có quan hệ với nhau. Khi đó ngôn ngữ bắt đầu hình thành cùng với tư duy- con người trở thành chủ thể có ý thức và hoạt động của con người dần được ý thức điều khiển. Với tư cách đó, loài người đã tách mình ra khỏi thế giới tự nhiên để trở thành chủ thể có tính độc lập và có khả năng làm chủ bản thân. Các hoạt động của con người như vậy (bao gồm cả hành động và không hành động) được gọi là hành vi. Các hành vi ấy có thể chỉ là hành vi mang tính cá nhân nhưng cũng có khi mang tính xã hội, có ảnh hưởng đến đời sống chung của cộng đồng. Lợi ích của cá cộng đồng và của mỗi cá nhân được duy trì và đảm bảo nhờ sự phù hợp, thống nhất trong các hoạt động. Cũng có không ít những hành vi lệch chuẩn. Nhưng muốn biết được đâu là chuẩn đâu là không chuẩn thì phải xác định được có hành vi hay không. Vì vậy phải có cơ sở để xác định hành vi. Cơ sở đó chính là các xử sự được thể hiện ra bên ngoài của con người có sự kiểm soát của ý thức. Tuy nhiên, hành vi cũng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau túy theo quan điểm tiếp cận. Hành vi được các nhà sinh vật học xem xét với tư cách là cách sống và hoạt động trong một môi trường nhất định dựa trên sự cần thiết thích nghi tối thiểu của cơ thể đối với môi trường, hành vi của con người bị bó hẹp trong các hoạt động thích nghi với môi trường để đảm bảo sự tồn tại cảu cá thể người trong môi trường đó. Chuẩn mực để đánh giá hành vi chính là mức độ thích nghi của cơ thể đối với môi trường. Các nhà tâm lý học lại cho rằng hành vi của con người bao giờ cũng có mục đích, con người không phải là cá thể thích nghi thụ động... Hành vi là tiêu chí quan trọng có bản để đánh giá con người. Nó bị chi phối bởi nhiều nguyên tắc, nguyên lý, nhiều quan hệ. Về mặt tâm lý cũng như mặt tự nhiên, cái sinh học của con người là nơi phát sinh và chứa đựng rất nhiều nhu cầu; những nhu cầu đó bị ức chế bởi khả năng xã hội trong việc thỏa mãn chúng. Thông thường, nhu cầu cá nhân cao hơn và vượt ra ngoài khuôn khổ xã hội. Đó là cái hạt nhân phát ra mọi quyết định trong việc ứng xử của con người trước sự tác động của ngoại cảnh. Nó là trung tâm điều tiết phẩm hạnh của con người sao cho phù hợp với các quy luật của đời sống xã hội mà con người đã nhận thức được và qua đó đặt ra những quy tắc ứng xử tương ứng. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội thực chất là việc điều chỉnh hành vi con người. Có hàng loạt các yếu tố tác động, ảnh hưởng rất sớm đến hành vi như đạo đức, phong tục, tập quán, lễ nghi tôn giáo... trong cuộc sống, trong đó có yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hành vi của con người theo những hướng nhất định là pháp luật. Chịu sự tác động của các quy phạm pháp luật, các hành vi của con người trở thành hành vi pháp lý.Con người, một năm là sản phẩm của lịch sử (của hoàn cảnh tự nhiên và xã hội), mặt khác, là chủ thể sáng tạo ra quá trình lịch sử đó. Như vậy con người cũng chính là chủ thể sáng tạo ra các quy phạm, trong đó có các quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật cũng do con người xây dựng nên, đó là những quy tắc được ra theo yêu cầu của quản lý xã hội một cách chung nhất. Trong các hành vi của con người có hành vi hợp lý. Hành vi được coi là hợp lý khi nó phù hợp với hoàn cảnh khách quan, với quy luật của sự vận động. Các nhà quản lý bao giờ cũng muốn trật tự xã hội diễn ra bởi các hành vi hợp lý nhưng điều đó không phải bao giờ cũng xảy ra vì người ta có thể nhận thức được nhưng cũng có thể không nhận thức được các quy luật đó. Vì vậy mà ở mức độ tương đối,nhà quản lý muốn các hành vi xã hội xảy ra theo ý chí của mình. Theo đó có hành vi hợp pháp và không hợp pháp. Hành vi là hợp pháp hay không hợp pháp được xác định bởi các quy phạm pháp luật và cũng chính vì vậy, sự xác định này còn phụ thuộc vào nhà làm luật. 1.1.2 Hành vi pháp luật Hành vi pháp lý là hoạt động có ý thức của con người diễn ra trong môi trường có sự điều chỉnh của pháp luật. Những hoạt động đó có thể mang tính tích cực hay tiêu cực của cá nhân hay tổ chức về mặt xã hội được xác định trước bằng các quy phạm pháp luật. Vì vậy, trong mọi trường hợp các hành vi pháp luật chỉ có thể là hành vi hợp pháp hoặc là hành vi bất hợp pháp. 1.1.2.1 Hành vi hợp pháp. Hằng ngày, trong đời sống xã hội, các hoạt động của con người diễn ra rất đa dạng, theo nhiều xu hướng, động thái, tính chất khác nhau, có mối quan hệ với nhau. Các hoạt động sống của con người nói chung và có tính phổ biến là các hành vi phù hợp với yêu cầu của cuộc sống, nhờ đó mà trật xã hội được duy trì, lợi ích của cá nhân, của cộng đồng được bảo đảm. Xuất phát từ điều này mà các nhà cầm quyền trong bất kỳ một Nhà nước nào cũng đều đưa ra những chuẩn mực cho cuộc sống dưới những hình thức pháp lý nhất định. Khi xây dựng các quy phạm pháp luật, các nhà làm luật đã xác định một “khung pháp lý” chỉ ra hoàn cảnh, tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống, đồng thời cũng chỉ ra cách ứng xử tương ứng cho con người vào hoàn cảnh đó. Đó có thể là việc quy định về quyền, có thể là quy định về nghĩa vụ. Hành vi pháp lý bị các quy phạm pháp luật điều chỉnh là hành vi khách quan do đòi hỏi của pháp luật. Nói chung, việc xác định một hành vi hợp pháp phải có căn cứ vào quy định của pháp luật. Một hành vi được coi là hợp pháp khi hành vi đó phù hợp với pháp luật. Cụ thể hơn nữa thì hành vi đó có thể là sự thực hiện một quyền – một xử sự được phép trong giời hạn mà quy phạm đã xác định (sử dụng pháp luật). Hành vi đó có thể là một hành động tích cực của con người nhằm đáp ứng một yêu cầu nào đó của Nhà nước hay của chủ thể khác có quyền (thì hành pháp luật), hành vi đó cũng có thể là sự kiềm chế không thực hiện điều mà pháp luật cấm (tuân thủ pháp luật). Như vậy, quy phạm pháp luật là căn cứ thực hiện và lập trường đánh giá thống nhất về hành vi. Phần lớn những hành vi loại này mang tính tích cực, có lợi cho xã hội. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi có lợi cho xã hội đều là hành vi hợp pháp. Có quan điểm cho rằng: “hành vi hợp pháp là hành vi có ích cho xã hội phù hợp với những quy định của pháp luật, là việc sử dụng (hoặc không sử dụng khi pháp luật cho phép) các quyền chủ thể, là việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể quan hệ pháp luật”1. Tuy nhiên, hành vi phù hợp với pháp luật chưa chắc đã phù hợp với thực tế hay đòi hỏi của cuộc sống. Trên thực tế, không phải bao giờ sự quy định của pháp luật cũng là hợp lý. Đó là khi những quy phạm pháp luật được xây dựng không tuân theo đòi hỏi khách quan của cuộc sống. Có thể thấy một điều rõ ràng là đời sống xã hội thì luôn luôn biến đổi, trong khi đó, pháp luật lại có tính khuôn mẫu ổn định, có xu hướng đi sâu và phản ánh sự phát triển của đời sống xã hội. Hơn thế nữa, pháp luật ra đời còn ít nhiều bị chi phối bởi ý chí của những nhà làm luật. Nếu họ công tâm, vì lợi ích chung và có trình độ để nhận thức các quy luật của đời sống xã hội thì pháp luật xứng đáng là chuẩn mực để làm khuôn mẫu cho các vi xã hội. Trong trường hợp ngược lại, vì nhận thức chủ quan của nhà làm luật có khoảng cách với đời sống xã hội do lợi ích ích kỷ hoặc do trình độ hạn chế không phản ánh được nhu cầu và sự vận động khách quan của cuộc sống thì pháp luật có thể lại trở thành một lực cản đối với sự tiến bộ xã hội. Khi đó những hành vi hợp pháp biết đâu lại là có hại cho xã hội. Nói cách khác, đó là pháp luật không phù hợp. Trong trường hợp này, hành vi hợp pháp có thể mang lại những kết quả không tốt, vì vậy mà pháp luật không còn xứng đáng là chuẩn mực cho xã hội nữa. Đã có không ít những văn bản pháp luật ra đời đã trở thành lực cản cho sự phát triển của xã hội, nhất ra đời trở thành lực cản cho sự phát triển của xã hội, nhất là khi đó là văn bản pháp luật có giá trị cao, vì các văn bản có giá trị thấp hơn được ban hành theo đó cũng có sự bất hợp lý tương ứng. Những hành vi được thực hiện theo yêu cầu của những quy định như vậy là hành vi hợp pháp không hợp lý. Trong một số trường hợp, pháp luật quy định hợp lý (phù hợp với đòi hỏi của quá trình vận động của tiến bộ xã hội) nhưng có thể có một khoảng cách với cuộc sống, chẳng hạn nói lại có sự khác biệt với những quy phạm đạo đức hay tôn giáo...Hành vi khi đó là hợp pháp nhưng không hợp tình và không dễ gì Học viện Chính trị quốc gia, (1998), Lý luận về Nhà nước và Pháp luật, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội , tra.370 1 được xã hội chấp nhận. Không phải nói ở đâu xa, ngay trong bộ luật hình sự năm 1985 của Việt Nam khi quy định về hành vi không tố giác tội phạm, nếu người thực hiện tội phạm là thân nhân hay bạn bè...của người đi tố cáo thi hành vì tố cáo của người đó mặc dù là phù hợp pháp luật nhưng chắc chắn không dễ gì tránh được búa rìu dư luận. Hành vi này, người sự điều chỉnh của pháp luật nó còn chịu sự điều chỉnh rất sâu sắc của đạo đức. Chuyện này đã từng xảy không ít trong thực tế và vì vậy, hành vi đó lại bị lên án bởi dư luận xã hội. Có lẽ chính vì thế mà trong Bộ luật hình sự của nước ta được sửa đổi vào năm 1999, hành vi tố cáo chỉ đặt ra cho một số tội có liên quan đến an ninh quốc gia. Với những phân tích trên ta thấy, việc đánh giá các quy định của pháp luật về hành vi hợp pháp phải có nhiều tiêu chí hay căn cứ khác nhau. Nếu việc quy định của pháp luật thuần túy chỉ xuất phát từ ý chí chủ quan của nhà làm luật thì nó khó có điều kiện được thực hiện hóa thành hành vi xã hội tích cực của con người. 1.1.2.2 Hành vui bất hợp pháp Ngược lại với hành vi hợp pháp là hành vi bất hợp pháp, do vậy khi muốn nhận thức một hành vi có phải là bất hợp pháp hay không cũng phải căn cứ vào sự quy định của pháp luật được thể hiện trong các quy phạm pháp luật. Một hành vi được coi là bất hợp pháp khi nó là xử sự không đúng với yêu cầu của pháp luật (phần này sẽ được phân tích kỹ ở dấu hiệu trái pháp luật của hành vi vi phạm dưới đây). Điều cần xác định đầu tiên ở đây là dấu hiệu hành vi. Phải có hành vi có tính xác định của con người thì những biểu hiện khác mới có thể xem xét được. Tuy nhiên, hành vi không phải bao giờ cũng là yếu tố được xem xét có phải vi phạm pháp luật hay không. Lịch sử tồn tại của pháp luật trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ và phong kiến đã chứng minh điều đó. Ví dụ một trường hợp vào khoảng cuối thế kỷ V, đầu thế kỷ IV – TCN, Denis – một ông vua độc tài sứ Cyracuse (Italia) đã cho rằng “điều nó chiêm bao ban đêm chính là cái nó đã nghĩ lúc ban ngày”, nên đã giết chàng thanh niên Marsyas vì anh đã chiêm bao thấy mình cắt cổ vua. Trong trường hợp này hành vi đã không được xét tới khi xác định một người phạm tội vì chiêm bao hay suy nghĩ đều không phải là hành vi. Nó không có mối liên hệ nào với bên ngoài, với thế giới khách quan, nó không phải là đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Ngày nay, điều này đã bị thay đổi theo sự tiến bộ xã hội. Trong số những hành vi bất hợp pháp, không phải hành vi nào cũng là hành vi vi phạm pháp luật. Một hành vi bất hợp pháp cần phải có thêm một số dấu hiệu khác để có thể trở thành hành vi vi phạm pháp luật. Ta sẽ làm rõ điều này qua sự phân tích các dấu hiệu cụ thể của vi phạm pháp luật cùng với khái niệm vi phạm pháp luật. 1.1.3. Vi phạm pháp luật Trong khoa học pháp lý, khái niệm vi phạm pháp luật được nhắc tới rất nhiều ở các ngành luật. Ví dụ, khái niệm vi phạm pháp luật hành chính lần đầu tiên được định nghĩa trong pháp lệch xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/1101989: “Vi phạm pháp luật hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính” hoặc được định nghĩa gián tiếp trong điều 1, khoản 2 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 6/7/1995: “Xử lý vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Trong Bộ luật hình sự, vi phạm pháp luật hình sự bị coi là tội phạm và được định nghĩa “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ trính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Nói chung, theo các cách xác định về vi phạm pháp luật trên, vi phạm luôn luôn có các dấu hiệu trái pháp luật của hành vi, có dấu hiệu lỗi (cố ý hoặc vô ý) nhưng chưa có một cách nhìn khái quát về vi phạm pháp luật, thậm chí chưa có cả sự khái quát cho khái niệm vi phạm pháp luật với các chủ thể là cá nhân hay tổ chức ngay trong một khoa học pháp lý cụ thể (ví dụ, khái niệm về vi phạm hành chính). Điều này sẽ được phân tích để làm rõ trong nội dung khái niệm vi phạm pháp luật ở phần dấu hiệu của vi phạm tiếp sau. Đó là. 1.1.3.1. Dấu hiệu trái pháp luật của hành vi. Có thể nói rằng đây là dấu hiệu đặc biệt quan trọng của vi phạm pháp luật. Những dấu hiệu khác chỉ có thể nhận biết được thông qua dấu hiệu này. Nói chung trong các quan điểm hiện đại, không có quan điểm nào phủ nhận dấu hiệu hành vi. Hành vi ở đây có thể là hành động, có thể là không hành động. Hành động là xử sự của con người thông qua các thao tác, hoạt động cụ thể tác động vào thế giới khách quan làm biến đổi nó với những mức độ nhất định mà theo tiếng Hán, đó là các “tác vi”. Còn hành vi thể hiện dưới dạng không hành động là xử sự của con người không thực hiện một việc gì đó, và còn được gọi là “bất tác vi”. Hành vi bằng hành động thì luôn có tính xác định cụ thể, ngược lại hành vi không hành động rất khó xác định vì chỉ có thể xác định được nếu nó nằm trong mối quan hệ nào đó được pháp luật xác định. Nếu không như vậy, nó có thể chỉ là suy nghĩ hay tình cảm của con người. Theo C.Mác thì “ngoài hành vi của mình ra, tôi hoàn toàn không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tượng của nó”. Dưới cách nhìn của nhà làm luật thì hành vi trái pháp luật phải là xử sự gây tác hại đến sự tồn tại và phát triển bình thường của trật tự xã hội. Hành vi gây tác hại đó có thể là sự thực hiện những hành động mà pháp luật cấm. Loại hành vi này tác động lên thế giới khách quan, trực tiếp làm biến đổi chúng, gây ra các thiệt hại cho các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ theo ý chí của nhà làm luật. Hành vi gây hai dưới dạng không hành động không trực tiếp gây ra thiệt hại. Nó được hiểu là sự trốn tránh thực hiện một nghĩa vụ nhất định vì vậy mà đã không ngăn chặn được thiệt hại xảy ra hoặc một lợi ích chung đã không được thực hiện. Một vấn đề nữa cần xác định ở đây là hành vi được hiểu như thế nào trong hoạt động của tổ chức. Thông thường khi người ta nói tới hành vi là nói tới hoạt động của cá nhân. Thực chất hoạt động của tổ chức phải thông qua tổng hợp các hoạt động của cá nhân. Nếu đã xác định vấn đề như vậy thì khi hành vi được hiểu là xử sự có sự kiểm soát của ý thức và ý chí thì liệu có thể luôn luôn có sự thống nhất ý chí hay giữa các cá nhân trong tổ chức hay không khi các quyết định về hoạt động của tổ chức được thông qua theo nguyên tắc đa số. Trong trường hợp này, thiểu số những người không nhất trí thì trách nhiệm của họ sẽ được xác định như thế nào khi quyết định trên là trái pháp luật? Các tổ chức do con người thành lập nên, khi đó nó trở thành một thực thể độc lập với chủ thể đã thành lập ra nó. Khi đã nói đến tổ chức người ta phải nói tới hoạt động của nó, nó được sinh ra vì mục đích gì, ai sẽ là người đại diện, là người chịu trách nhiệm cho tổ chức và trước tổ chức...Như vậy, việc xác định hành vi của tổ chức hay của cá nhân phải xem cơ chế của hành vi. Nói với hành vi vi phạm pháp luật là ta nói tới thái độ tiêu cực của các chủ thể có năng lực trước pháp luật. Tuy nhiên, không phải cứ thực hiện hành vi trái pháp luật là mang lại hậu quả xấu cho xã hội. Trong thực tế, có rất nhiều hành vi trái pháp luật không những mang lại hậu quả xấu mà có khi nó còn có tính tích cực, là một biểu hiện của tiến bộ xã hội, thể hiện tính năng động của những chủ thể thực hiện nó. Không khó khăn gì lắm để lấy ví dụ về những trường hợp này. Đó là những giám đốc năng động thời kỳ bao cấp đã dám “vượt rào” để làm lợi cho doanh nghiệp, cho đơn vị của mình, mặc dù không có hại cho xã hội. Khi pháp luật không còn phù hợp với thực tế nữa thì nó trở thành rào cản cho sự phát triển của xã hội, tiêu chuẩn để đánh giá tính hợp pháp của hành vi sẽ không còn tính pháp lý nữa. Cùng với sự xác định hành vi nào là hợp pháp không phù hợp với thực tế thì sự xác định hành vi nào là trái pháp luật một cách bất hợp lý đều dẫn đến sự phản ứng tiêu cực của xã hội. Tất nhiên, điều này không mang tính phổ biến mặc dù nó thường xảy ra ở những giai đoạn có tính chất giao thời. Hành vi kiểu “vượt rào” trên đây được coi là hành vi dũng cảm, thậm chí còn đáng khuyến khích vì nó buộc nhà làm luật trở nên linh hoạt hơn đáp ứng nhu cầu điều chỉnh của xã hội ngày càng phát triển. Những phân tích trên đây mới chủ yếu nói tới hành vi trái pháp luật – những hành vi thực hiện pháp luật không đúng hoặc không thực hiện pháp luật nhưng chúng ta không thể quên một điều là muốn xác định được điều đó thì phải có pháp luật và muốn có pháp luật thì phải có hoạt động xây dựng pháp luật. Hoạt động này, trong nhiều trường hợp vừa là hoạt động xây dựng pháp luật vừa là hoạt động thực hiện pháp luật. Thế nhưng không phải bảo giờ hoạt động này cũng có tính hợp pháp. Nhiều khi các cơ quan nhà nước đã ban hành những văn bản trái với những văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, nhất là trái với Hiến pháp và các đạo luật. Tất nhiên, hoạt động này phải là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền và các văn bản pháp luật phải có tính thứ bậc theo quy định của pháp luật. Chính vì được pháp luật quy định nên cũng đã có không ít các văn bản được ban hành trái pháp luật. Vì là các văn bản tạo ra những khuôn mẫu cho hành vi nên nó kéo theo sự trái pháp luật của hàng loạt các hành vi “hợp pháp” kiểu này. Việc ban hành văn bản trái pháp luật xảy ra có thể là trái thẩm quyền (có thể là vượt cấp, có thể là không đúng hình thức) nhưng cũng có thể là trái với nội dung quy định của các văn bản có hiệu lực cho xã hội nhưng nó tiếp tay cho hàng loạt các hành vi trái pháp luật một cách “hợp pháp” nói trên. Hiện nay, sự phát triển của xã hội ngày càng dòi hỏi nhiều hơn sự tham gia của các tổ chức. Các tổ chức được hình thành bằng rất nhiều cách thức khác nhau. Có thể đó là sự kết hợp của nhiều thành viên tự nguyện thành lập ra vì một mục đích nào đó, cũng có thể tổ chức đó được Nhà nước thành lập vì những mục đích khác nhau, chính vì thế mà hoạt động của chúng cũng có sự khác nhau. Có tổ chức hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, có tổ chức hoạt động trên lĩnh vực quản lý, có tổ chức hoạt động trên lĩnh vực công ích...nên tính chất, phạm vi, thẩm quyền có thể khác nhau. Cũng chính vì lẽ đó mà hoạt động của chúng cũng tồn tại ở các dạng khác nhau. Tuy nhiên, giữa chúng cũng có sự giống nhau ở chỗ, các hoạt động của chúng là sự kết hợp của nhều cá nhân với những vị trí và vai trò khác nhau. Đặc điểm nói chung của loại chủ thể này là hoạt động theo nội quy, quy chế của riêng chúng, từ đó hoạt động trái pháp luật của chúng có thể phát sinh ngay từ việc xây dựng nội quy quy chế. Mặc dù các tổ chức hoạt động trên cơ sở của chế độ tự quản nhưng phải theo nguyên tắc “được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm”. Thực ra, nguyên tắc này chỉ được đặt ra cho các tổ chức kinh tế, xã hội chứ không phải đặt ra cho các cơ quan nhà nước. Như vậy, hoạt động trái pháp luật của tổ chức có thể là đã làm những cái mà pháp luật cấm, nhưng chỉ như vậy thì chưa hết. Trong thực tế thì các tổ chức có thể không làm cái mà nhà nước bắt buộc phải làm. Có thể lấy một ví dụ về trường hợp này như việc một tổ chức kinh tế đã không thực hiện các biện pháp ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường do hoạt động của mình gây ra. 1.1.3.2. Dấu hiệu năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể. Sau khi đã xem xét dấu hiệu trái pháp luật của hành vi, phải xác định dấu hiệu năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể. Như đã phân tích ở phần hành vi trên đây, ta thấy hành vi phải là xử sự của con người có sự kiểm soát của lý trí và ý chí. Lý trí và ý chí chỉ có thể xác định ở những chủ thể có ý thức. Lý trí là khả năng nhận thức sự vận động của thế giới khách quan, còn ý chí là khả năng điều khiển và kiểm soát hành vi trên cơ sở của sự nhận thức đó. Năng lực trách nhiệm pháp lý của các chủ thể được Nhà nước quy định dựa trên khả năng đánh giá và kiểm soát hành vi xã hội của con người trong những điều kiện cụ thể nhất định như lứa tuổi, học vấn...Mỗi chủ thể lại có khả năng nhận thức, năng lực kiểm soát và điều khiển hành vi ở mức độ khác nhau. Chính vì vậy, cần phải phân hóa khả năng đó giữa các chủ thể. Mỗi cá nhân là một thực thể thống nhất của cái sinh vật và cái xã hội – một phần tử đơn nhất của cộng đồng xã hội, một hiện tượng có tính lịch sử, có nhân cách – một bản sắc độc đáo của con người. Khoa học tự nhiên hiện đại và sự phát triển của khoa học nhân văn trong thời đại ngay nay đã chứng minh rằng sự tồn tại hiện thực của mỗi con người cụ thể nói riêng và là của cả xã hội nói chung quy định bởi nhiều quy luật. Quy luật sinh học tạo thành phương tiện sinh học của con người, ví dụ, quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể với môi trường, quy luật về biến dị và di truyền; quy luật tâm lý – ý thức hình thành và hoạt động trên nền tảng sinh học của con người, như các quy luật hình thành tư tưởng, tình cảm, khát vọng, mục tiêu, lý tưởng, niềm tin và ý chí...;các quy luật xã hội quy định mối quan hệ giữa con người với con người như quy luật của sự phù hợp giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng, quy luật về đấu tranh giai cấp...Trong mỗi xã hội, con người có khả năng riêng biệt, cao thấp ở những trình độ nhất định. Nhu cầu của mỗi cá nhân thường xuyên có sự mâu thuẫn với khả năng đã thúc đẩy con người hoạt động và đấu tranh với chính mình, với xã hội. Sự đấu tranh này có thể là tích cực, có thể là tiêu cực. vì vậy, một chủ thể có khả năng nhận thức cao hơn, có thể điều khiển hành vi một cách hữu hiệu hơn thì điều kiện cho họ thực hiện sự đấu tranh có tính tích cực cũng cao hơn. Ngược lại, những chủ thể mà khả năng nhận thức hạn chế thì khả năng điều khiển hành vi cũng thấp hơn. thậm chí có những chủ thể không có những khả năng này. Như đã phân tích ở trên, con người là một thực thể thống nhất của “cái sinh vật” và “cái xã hội”, trong đó “cái sinh vật” của con người mang tính bản năng như đói thì ăn, khát thì uống...còn “cái xã hội” thì vô cùng phong phú và liên tục mở rộng. Nó liên quan đến trình độ phát triển của đời sống xã hội. Theo đó, con người ngày càng được tự do hơn vì làm chủ được bản thân, làm chủ xã hội, tự nhiên và cũng chính vì thế mà Nhà nước cũng phải vận động theo xu hướng tiến bộ đó bằng cách thừa nhận ngày càng rộng rãi quyền và tự do của con người. Điều đó đòi hỏi khả năng nhận tức về tự do cũng cao hơn theo trình độ phát triển của xã hội để có khả năng kiểm soát hành vi một cách tương ứng. Ngay ở mỗi con người, ở từng giai đoạn phát triển của mình, khả năng đó cũng khác nhau do độ tuổi, kết quả tiếp thu tri thức của các thế hệ trước, sự đúc rút kinh nghiệm sống và còn phụ thuộc vào cả môi trường xã hội. Vì vậy mà không thể có một tiêu chuẩn chung cho mọi chủ thể trong xã hội và cho mọi quan hệ xã hội. Tính chất phức tạp hay giản đơn của từng loại quan hệ xã hội sẽ đòi hỏi những năng lực nhận thức và ứng xử tương ứng. Đối với mỗi cá nhân, năng lực đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng nó phụ thuộc trực tiếp vào độ tuổi và trạng thái thần kinh (sức khỏe tâm thần) của con người. Trong Bộ luật Dân sự của nước ta được ban hành năm 1995, năng lực chủ thể xác định cho cá nhân bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Nếu như năng lực pháp luật là cái mọi người có như nhau (xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng) thì năng lực hành vi là cái để phân biệt về khả năng thực hiện năng lực đó, khả năng gánh chịu trách nhiệm về hậu quả do việc thực hiện năng lực đó trong thực tế. Cụ thể, trong bộ luật này, năng lực hành vi được xác định theo độ tuổi tương ứng với các mức độ :từ 0 đến chưa đủ 6 tuổi thì chưa có năng lực hành vi, từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi có năng lực hành vi để tham gia vào những quan hệ dân sự giản đơn có giá trị nhỏ để phục vụ cho nhu cầu tối thiểu, từ đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi được tham gia nhiều hơn vào các quan hệ dân sự thông thường nếu có tài sản để đảm bảo trừ trường hợp cần có sự đồng ý của cha mẹ... từ 18 tuổi trở lên thì được tham gia vào mọi quan hệ dân sự. Cùng với độ tuổi, như đã nói ở trên, sức khỏe tâm thần là yếu tố không thể thiếu để con người có thể nhận thức thế giới một cách bình thường. Như vậy, pháp luật đã phải tính đến khả năng gánh chịu hậu quả do hành vi của chủ thể thực hiện. Ngay trong một loại quan hệ pháp luật thì thời điểm này cũng khác thời điểm khác do quan điểm của nhà làm luật tương ứng với trình độ phát triển xã hội. Chẳng hạn, Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta là một ví dụ. Theo bộ luật hình sự 1985 thì những người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi thì chỉ chịu trách nhiệm về tội nghiêm trọng với lỗi cố ý, còn những người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về hình sự về mọi hành vi phạm tội. Trong khi đó Bộ luật năm 1999, do tính chất của các hành vi cần phải được phân hóa chính xác hơn, nên dộ tuổi từ đủ 14 đến 16 phải chịu trách nhiệm về tội rất nghiêm trọng với lỗi cố ý và tội đặc biệt nghiêm trọng...Thực ra việc quy định đó đã xuất phát từ khả năng về nhận thức và điều khiển hành vi một cách rõ ràng hơn và cũng từ đó mà khả năng gánh chịu về hậu quả cũng được xác định chính xác cho chủ thể thực hiện hành vi. Tuy nhiên, pháp luật lại phải có chức năng mô hình hóa, do vậy mà nó không thể quy định chi tiết cho từng cá nhân cụ thể mà chỉ có thể quy định tương ứng với từng loại chủ thể. Việc quy định này cơ ưu điểm là mang tính quy phạm phổ biến, khái quát nhưng khi xem xét vào các trường hợp cụ thể thì nhiều khhi nó không hợp lý lắm. Không phải bao giờ một người có đủ 16 tuổi cũng “khôn hơn” một người 14 tuổi hoặc không phải bao giờ những người có đủ 18 tuổi cũng “khôn” như nhau. Môi trường sống, chế độ giáo dục, quan hệ xã hội, quan hệ gia đình... sẽ trực tiếp “dạy khôn” người ta ở các mức độ khác nhau. Một điều đặc biệt nữa là thể trạng sức khỏe tâm thần của mỗi con người cụ thể. Ngay trong một con người đang ở trong trạng thái tâm thần bình thường, cũng có khi minh mẫn sáng suốt, cũng có khi căng thẳng, mất bình tĩnh và do vậy mà có thể đã không nhận thức một cách bình thường và không dễ dàng có thẻ kiemr soát được hành vi của chúng mình. Ngoài ra, do diễn biến của tình hình sức khỏe hoặc những sự kiện bất thường xảy ra trong cuộc sống mà những khả năng nêu trên của con người bị thay đổi (có thể là tốt lên có thể là xấu đi, thậm chí có thể còn bị mất). Những trạng thái này có thể xảy ra trước, trong hoặc sau khi thực hiện các hoạt động có dấu hiệu trái pháp luật. Trường hợp này, ta dùng thuật ngữ “hoạt động” thay thế cho thuật ngữ “hành vi” sẽ chính xác hơn vì hành vi phải là xử sự có sự kiểm soát của ý chí và lý trí của những người có ý thức cùng thới thể trạng tâm thần bình thường. Trong nhiều trường hợp, người có năng lực hành vi thông thường nhưng vẫn thực hiện hành vi trái pháp luật mà không ý thức được việc mình làm là hợp pháp hay bất hợp pháp. Điều đó không phải do trạng thái sức khỏe tâm thần của người thực hiện hành vi. Họ vẫn khẳng định xử sự của họ là đúng. Rõ ràng, kinh nghiệm sống, kiến thức được trang bị hằng ngày của người ta là chưa đủ để đáp ứng yêu cầu của pháp luật, của cuộc sống. Ngay trong hoạt động của nhân viên nhà nước những người luôn được coi là người có năng lực hành vi trong hoạt động của mình nhưng hoạt động của những người này không pải luôn luôn đúng.Thực tế đã chứng minh điều này mà cụ thể là những trường hợp làm sai do non kém về trình độ nghiệp vụ chứ chưa nói tới việc họ làm sai.Cái khó của nhà làm luật là chỉ có thể xác định cụ thể lứa tuổi hay thể trạng sức khỏe tâm thần của con người ở trạng thái chung nhất mà thực tế lại vô cùng phong phú , đa dạng và phức tạp . Bên cạnh hành vi được xác định trên cơ sở của lứa tuổi và sức khỏe tâm thần thì pháp luật còn xác định bổ sung về khả năng chịu trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể bằng tài sản. Ví dụ trong trường hợp những người đã có đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi thì có thể tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự một cách độc lập nếu có tài sản để đảm bảo như quy định của Bộ luật dân sự của nước ta. Những phân tích trên đây chủ yếu mới dừng lại ở năng lực của cá nhân chứ chưa nói tới năng lực của pháp nhân hay tổ chức. Xuất phát từ đặc điểm của từng loại chủ thể mà pháp luật quy định cho chúng có địa vị pháp lý khác nhau. Các chủ thể là tổ chức có tư cách độc lập với người thành lập ra nó. Sự thừa nhận, sự cho phép thành lập hoặc được Nhà nước thành lập đã cho thấy sự có mặt của các tổ chức là cần thiết, có tính khách quan khi chúng tham gia vào cào hoạt động có ích cho xã hội. Muốn một tố chức có hoạt động có ích thì tổ chức ấy phải cần phải có những bảo đảm về mặt pháp lý và thực tế . Chính những đảm bảo này sẽ là sự thể hiện cụ thể nhất, trực tiếp nhất về năng lực của tổ chức. Năng lực trách nhiệm pháp lý của tổ chức được thực hiện thông qua những người đại diện hợp pháp cho tổ chức. Những người đại diện hợp pháp cho tổ chức. Những người đại diện hợp pháp cho tổ chứckhi hoạt động nhân danh tổ chức. Đó là những người được coi như đã nhận được sự uỷ quyền của tập thể. Thực ra, sự quyết định của tổ chức là quyết định của tập thể, trong đó mỗi cá nhân có một phần trách nhiệm gắn với những lợi ích mà họ có thể có được do những quyết định ấy. Họ sẽ là người phải chấp nhận tình trạng “được ăn, thua chịu” sau khi đã tham gia vào tổ chức và đã thực hiện sự uỷ quyền cho người đại diện (thường được thể hiện trong các nghị quyết của tổ chức như đại hội cổ đông, bầu ra những người lãnh đạo). Trong trường hợp những quyết định cảu tổ chức được ban hành bởi những người đại diện cho tổ chức vượt thẩm quyền mà tổ chức đã uỷ quyền thì cá nhân này sẽ phải là người chịu trách nhiệm về phần vượt quá đó. Thực chất năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể là tổ chức được xác định là khả năng gánh chịu hậu quả pháp lý từ hoạt động của tổ chức. Nhưng điều đó không có nghĩa là trách nhiệm được chia đều cho các chủ thể tham gia vào tổ chức. Chính vì vậy, cần có sự phân hoá trách nhiệm cho cá nhân khi tham gia hoạt động của tổ chức. Tất nhiên, phải có cơ chế cho việc phân hoá này. Ví dụ trong trường hợp bồi thường thiệt hại do một thànhv iên hoặc của nhóm thành viên trong tổ chức gây ra khi hoạt động nhân danh tổ chức, người ta không thể đi đòi bồi thường ở từng cá nhân mà tổ chức phải đứng ra chịu trách nhiệm bồi thường thay, sau đó tổ chức có quyền yêu cầu các cá nhân phải bồi thường ngược lại cho mình. Như vậy, năng lực trách nhiệm của tổ chức thực chất suy cho cùng cũng là sự xác định cho cá nhân, được thực hiện thông qua các cá nhân và cuối cùng cá nhân vẫn là người gánh chịu. Điều này liên quan rất chặt chẽ với vấn đề lỗi sẽ được xác định ở nội dung sau. 1.1.3.3. Dấu hiệu lỗi. Nếu như trong dấu hiệu trái pháp luật của hành vi xác định sự tác động, ảnh hưởng của hành vi lên các quan hệ xã hội,dấu hiệu năng lực trách nhiệm pháp lý xác định khả năng nhận thức và khả năng kiểm soát hành vi của chủ thể để gánh chịu hậu quả của hành vi thì dấu hiệu lỗi là sự xác định thái độ, mức độ tiêu cực cảu chủ thể khi thựuc hiện hành vi. Trong các công trình nghiên cứu, các văn bản pháp luật hay trong giáo trình giảng dạy pháp luật ở bậc đại học… hầu hết lỗi đều được xác định là thái độ hoặc trạng thái tâm lý của củ thể đối với hành vi và hậu quả của nó. Có thể thấy hàng loạt các ví dụ về khái niệm này. Chẳng hạn: “lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi, cũng như hậu quả do hành vi đó gây ra”2 hay “Lỗi là trạng thái tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với hành vi vi phạm pháp luật của mình”3 hoặc “Lỗi là trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi trái pháp luật gây nguy hiểm cho xã hội” 4; cũng có khi trực tiếp đồng nhất lỗi trong tội phạm với lỗi nói chung là: “… thái độ tâm lý của người phạm tội với hành vi phạm tội mà người đó thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó”5. Nói chung, theo những cách hiểu trên đây thì lỗi đều được hiểu là hoạt động tâm lý bên trong của các chủ thể vi phạm pháp luật. Nó thuộc mặt chủ quan của vi phạm pháp luật. Có thể nói đây là một khái niệm hết sức phức tạp. điều phức tạp đầu tiên mà nó cho thấy là lỗi mà một hoạt động tâm lý bên trong của chủ thể và vì vậy nó không thể cân, đong, đo, đếm được, do đó nó là một khái niệm rất trừu tượng và khó khái quát. Thứ hai, các khái niệm trên hầu như mới nói tới lỗi với tư cách là hoạt động tâm lý của cá nhân (hoặc con người cụ thể) chứ chưa nói tới loại chủ thể là tổ chức. Thực ra nếu nói lỗi là hoạt động Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Truờng đại học Luật Hà Nội, 2002, Hà Nội, tr.494 Giáo trình luật hành chính Việt Nam, trường đại học luật Hà Nội, Nxb Công an Nhân dân, 2000, tr.129 4 Chủ biên PGS-TS Trần Ngọc Đường, Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, 1998, tr.373. 5 Nguyễn Duy Lãm, sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb giáo dục, 1996,tr.212. 2 3 tâm lý bên trong của con người thì liệu có thể nói tổ chức có lỗi được hay không? Như ở phần trên đã phân tích thì hoạt động của tổ chức là hoạt động phức tạp do sự kết hợp của nhiều người, trong khi đó thì mỗi cá nhân là một thực thể độc lập, có nhân cách, có suy nghĩ, tình cảm và nhu cầu khác nhau. Mặt khác, các tổ chức do con người thành lập ra nhưng bản thân tổ chức cũng là một chủ thể có tư cách riêng, độc lập với những người đã thành lập ra nó. Chính vì những lý do trên mà buộc chúng ta phải xem lại hoặc là khái niệm lỗi hoặc là phải xác định tư cách của chủ thể là cá nhân hay tổ chức trong vi phạm pháp luật, nếu không thì không thể có khái niệm vi phạm pháp luật nói chung cho cả cá nhân và cho cả tổ chức. Mâu thuẫn này đã xảy ra trong thực tế. Nếu như luật hình sự khẳng định tội phạm chỉ có thể là các cá nhân thì vấn đề sẽ trở nên đơn giản, nhưng không phải chỉ có pháp luật hình sự đièu chỉnh các quan hệ xã hội mà có rất nhiều ngành luật tham gia điều chỉnh và vì vậy cùng khôgn chỉ có khái niệm tội phạm mà còn có nhiều khái niệm khái niệm vi phạm pháp luật khác tuỳ theo sự quy định của từng ngành luật hoặc tuỳ từng quan niệm. Chẳng hạn có quan điểm khẳng định rằng: “… lỗi luôn là của cá nhân. Vì vậy, tổ chức không thể có lỗi dưới góc độ pháp lý được … trong cấu thành vi phạm hành chính của tổ chức, do không thể xác định được lỗi của nó nên ở đây yếu tổ chủ quan không có ý nghĩa gì cả. Chỉ cần tổ chức đó có biểu hiện xâm hại đến các khách thể trong lĩnh vực quản lý nhà nước, trái pháp luật hành chính là xem như đủ cơ sở để coi là chủ thể của vi phạm hành chính”6. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là lỗi có luôn luôn là dấu hiệu bắt buộc trong tất cả các vi phạm pháp luật mà không hoặc là phải xem xét lại khái niệm lỗi. Như ta đã xem xét ở trên thì lỗi là trạng thái (hay thái độ) tâm lý của chủ thể đối với hành vi và hậu quả của hành vi, trong khi đó thì hoạt động của một tổ chức nhất định nhất định phải có sự kết hợp của nhiều người còn mỗi người lại có hoạt động tâm lý riêng, có cáh đánh giá khác nhau về tính hợp pháp của hành vi, về hậu quả của hành vi đó. Nói cách khác, thì mỗi cá nhân sẽ có một trạng thái tâm lý độc lập. Nếu muốn xác định lỗi cho chủ thể là tổ chức thì phải xem lỗi 6 Trường đại học luật Hà Nội, giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, 2000, tr.123,133. của từng cá nhân ở trong tổ chức và thực tế thì không có lỗi chung của tổ chức được. đây là cơ sở quan trọng để xác định trách nhiệm cuối cùng cho chủ thể vi phạm. Chính vì mỗi con người là một thực thể độc lập trong một tập thể nhưng lại được phân công trách nhiệm cụ thể với chức năng, nhiệm thẩm quyền theo sự phân công hay uỷ quyền của tập thể, của tổ chức, do vậy mà những người hoạt động nhân danh tổ chức và vì lợi ích của tổ chức mà có lỗi thì đương nhiên lỗi đó sẽ bị coi là lỗi của tổ chức và chính tổ chức phải chịu trách nhiệm về lỗi đó. Sự liên quan của các cá nhân trong tổ chức chính là do sự uỷ quyền nay. Thực ra, lỗi của tổ chức ở đây được xét một cách “kéo dài” từ thời điểm mà tổ chức phân công hay uỷ quyền cho các cá nhân chịu trách nhiệm. Tại thời điểm mà các cá nhân nhận được trách nhiệm thì chính cá nhân đã được tự do ý chí, họ có quyền nhận hay không nhận trách nhiệm đó. Theo sự uỷ quyền thì cá nhân người nhận được sự uỷ quyền gần như đương nhiên phải có một lợi ích gì ở đó. Mặt khác, nếu cá nhân người được uỷ quyền có hành vi thực hiện một cách trái pháp luật nhưng trong phạm vi được uỷ quyền thì hành vi của cá nhân đó chính là hành vi của tổ chức , tổ chức trong trường hợp đó đã có sự lựa chọn, được “tự do ý chí” và có khả năng “kiểm soát” hành vi của người mà mình đã uỷ quyền tại thời điểm uỷ quyền. Việc xác định lỗi ở đây đã không còn trực tiếp là việc xác định lỗi trong trường hợp cụ thể xảy ra khi diễn ra hoạt động trái pháp luật của cá nhân nữa và không chỉ còn là trạng thái tâm lý nữa. Trong trường hợp này, quan điểm cho rằng trong vi phạm pháp luật của tổ chức thì không cần xác định lỗi được coi là hợp lý, vì rằng trong những trường hợp đó tổ chức đương nhiên bị coi là có lỗi. Bên cạnh đó, hành vi vi phạm được thấy trong tổ chức có thể tồn tại dưới một dạng khác. Đó là trường hợp cá nhân người được tổ chức uỷ quyền đã nhân danh tổ chức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng hành vi đó lại nằm ngoài hoặc vượt quá phạm vi được uỷ quyền bởi tổ chức. Trong trường hợp này, tổ chức đã không xác định trước được hành vi có thể xảy ra ở người được uỷ quyền vào lúc tổ chức tiến hành uỷ quyền cho người đó. Khi đó, phải xác định hai trường hợp:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan