MỤC LỤC
Lòi mỏ đâu:
3
Chương I: Vai trò tôn giáo trong đời số n g xã hội
và vấn đê vai trò của Phật giáo trong lịch sử
Việt Nam.
I. Vai trò xã hội của tỗn giáo.
8
K
II. Phật giáo và vân dề vai trò của nó trong lịch sử Việt
Nam.
Chương II: Vai trò Phật giáo trong lịch sử Việt
Nam (Qua triêu đại nhà Lý: 1010 -1225)
I. Thực trạng Phật giáo dưói triều
đạinhà Lý.
II. Vai trò Phật giáo trong lĩnh vực tưtưỏng.
32
60
60
72
III. Vai trò của tín ngưỡng Phật giáo trong lĩnh vực tín
ngưỡng của người Việt Nam.
I24
- Kết luận.
144
- D anh mục các tài liệu tham khảo.
l4cS
- Những công trình khoa học đã công bỗ có liên quan
vói nội dung luận án.
2
Ị 59
LÒI M ỏ ĐẦU
1. TÍnh cấp thiết của dê tàí íuận án.
Trong mấy năm gằn dây, môn lịch sử triết học (trong đó có lịch
sủ triết học phương Đông và lịch sử tư tưởng Việt nam) đã dược
chính thúc dưa vào chương trình giảng dạy trong các trưòng Dại
học và Cao dẳng nưóc ta. Đây thật sự là vần dê mỏi (nhất là vói
phân lịch sử triết hoc phương Đông và lịch SỪ tư tưỏng Việt nam).
Vì là vấn đề mỏi nên thực tê biên soạn và giảng dạy gặp không
ít những khó khăn mà trước hết là nội dung những vấn dê trong
chương trình.
Thực tế này đòi hỏi cần có sụ xúc tiến nhanh việc nghiên cứu
nhièu vẫn đề, trong đó có vấn đê vai trò Phật giáo trong lịch sử
tư tưởng Việt nam,
'A Dây là điều cần thiết bởi vì như thục tế lịch sủ dã chỉ ra: đân
tộc Việt nam có một lịch sử thành văn trên hai ngàn năm thì
phật giáo cũng có một lịch sử gân hai ngàn năm đồng hành cùng
đân tộc. Đặc biệt, vào giai doạn dâu của thòi kỳ xác lập một nên
quốc gia phong kiến Việt nam (thòi Lý- Trân), trong khoảng 4
thê kỷ Phật giáo dã từng là quốc giáo.
Trong suốt chiều dài lịch sử gân hai ngàn năm, Phật giáo dã
để iại những dấu ấn sâu, rộng trong lịch sủ tư tưởng và tín ngưỡng
3
nước nhà. Diều này cho thây việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng và
tín ngưõng Việt nam không thể bỏ qua, cũng không thể coi nhẹ
vấn dê vai trò của Phật giáo.
2. Tỉnh hình nghiên cứu của đ ề
tài luận án.
Cho tói nay ỏ nước ta dã có khá nhiêu công trình nghiên cứu
và trình bày về lịch sủ phật giáo Việt nam mà diên hình là một
số công trình sau dây:
"Phật giáo Việt nam tù nguyên thủy dến thế kỷ XIli'* của Trần Văn
Giáp, "Việt nam phật giáo sủ lược" của Thích Mật Thể, "Việt nam
phật giáo sử luận" (2 tập) của Nguyễn Lang, "Lịch sử phật giáo Việt
nam" của nhiêu tác giả, do P.G.S Nguyễn Tài Thư chủ biên, "Lược sử
Phật giáo Việt Nam" của Thượng tọa Thích Minh Tuệ.
Trong nhũng công trình này các tác giả cíêu có những nhận xét
nhất dịnh về vai trò Phật giáo ỏ Việt nam trên một số phương
diện khác nhau.
Nhận rõ tâm quan trọng của Phật giáo trong lịch sủ tư tưỏng
Việt nam, ủy ban khoa học xã hội Việt nam đã chủ trương mỏ
hai cuộc hội thảo khoa học tại H à nội (tháng 12- 1984) và T hành
phố H ồ Chí Minh (tháng 3- 1985) với chủ đê "Mối quan hệ giữa
Phạt giáo và lịch sừ tư tưỏng Việt nam". Kết qủa trực tiếp của
hai cuộc hội thảo này là cuốn "Mây vân dề vê Phật giáo và lịch
sủ tư tường Việt Nam" dã dược xuất bản (năm 1986) do viện
Triết học thuộc ủy ban khoa học xã hội Việt nam phát hành.
Dây là cuốn tài liệu bao gồm nhiều bài phát biểu, nhiêu bản
tham luận khoa học rất khác nhau. Có tác giả là nhà nghiên cứu,
có tác giả là nhà tu hành, có cả nhà báo, nhà tuycn huấn. v.v...
4
Nhũng ý kiến rất phong phú? thậm chí đối lập nhau, Điêu này
cho thấy việc đánh giá về vai trò P hật giáo trong lịch sử Việt
nam là hết sức phức tạp.
.
Năm 1993, nhà xuất bản khoa học xã hội dã phát hành cuốn
"Lịch sử tư tuỏng Việt nam" (gồm nhiêu tác giả do P.G.S Nguyễn
Tài Thư chủ biên). Khi trình bày về lịch sủ tư tưỏng Việt nam
thòi Lý- Trần, cuốn sách dã có hắn một chương (chương X - 22
trang) đế viết về P hật giáo và triết học của các thiên sư. Trong
phần này, các tác giả giành sự quan tâm nhiêu hon tói việc trình
bày những tư tưỏng triết học cùa các thiền sư thòi Lý- Trần.
Ngoài ra, trên một sỗ tạp chí nghiên cứu mà diên hình là "Tạp
chí Triết học" cũng có một số bài đê cập tói vấn đê vai trò của
Phật giáo trong lịch sủ tư tưởng Việt nam, chẳng hạn bài "Thủ
tìm hiểu VỊ trí của ba dạo: Nho, Phật, Lão trong lịch SLÌ tư tưỏng
Việt nam" của tác giả Nguyễn Tài Thu dăng trên tạp chí triết
học, số 1- 1982, hoặc bài "Thủ bàn về một vài tư tuỏng Phật
giáo' của tác giả Nguyễn Hùng Hậu đăng trên tạp chí Triết học
số 1/3- 1989. v.v.
Diêm qua tình hình nghiên cứu như vậy đã cho thấy: 1) v ấ n
dề vai trò Phật giáo ỏ Việt nam dã dược nhiều công trình nghiên
cúu dề cập tói nhưng vẫn chưa dạt tối khảo cứu một cách có hệ
thống. 2) Còn có nhiều nhận dịnh rất khác nhau về vấn dê vai
trò Phật giáo trong lịch sử việt nam nói chung và thòi Lý- Trần
nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án.
Luận án bưóc dầu vận dụng lý luận triết học Mác - Lênín và
5
những quan diêm của các nhà kinh điển chủ nghía Mác - Lênin
vê vai trò tôn giáo trong dòi sống xã hội dê dịnh hướng nghiên
cúu vấn dê vai trò Phật giáo ỏ Việt nam nói chung, thòi Lý nói
riêng.
Đ ể đạt được mục tiêu dó, luận án có những nhiệm vụ:
- Nghiên cứu một cách tương dối có hệ thống lý luận của triết
học Mác - Lênin và quan diêm của các nhà kinh diển chủ nghĩa
Mác - Lênin về vai trò tốn giáo trong đòi sỗng xã hội.
- Phân tích tình hình nghiên cứu lẫu nay vê vấn dê vai trò
Phật giáo ỏ Việt nam để tìm ra hướng tiếp cận phù hợp.
- Đi theo huóng tiệp cận đã dược xác dịnh, nghiên cứu một
cách có hệ thống vấn dê vai trò phật giáo trong lĩnh vực tư tưỏng
và tín ngưỡng Việt nam ỏ giai đoạn lịch sử thời Lý (1010- 1225).
4.
Cơ
sỏ
lý
luận,
thực
tiễn
và
phương
pháp
nghiên
cứu.
- Quan diểm Mác xít về vai trò tôn giáo trong dời song xã hội.
- Những tư liệu lịch sù đã được các bộ môn lịch sử khảo cứu,
sắp xếp một cách có hệ thống.
- Phương pháp biện chứng của triết học Mác - Lênin; phương
pháp trừu tượng hóa khoa học và phương pháp phân tích, đối
chiếu, so sánh, tổng hợp.
5.
Cái mối khoa
học
của
luận án.
Luận án đã bưóc dầu góp phân:
- Phân tích một cách có hệ thống lý luận vê vai trò xã hội của
tôn giáo trên cơ sỏ những luận diêm do các nhà kinh diên chủ
nghĩa Mác- Lê nin dê ra.
6
- Định hưóng cách tiếp cận vấn dê vai trò p h ật giáo ỏ Việt
nam.
- Trình bày có hệ thống những tư tưởng triết học thiên tông
thòi Lý và khẩng dịnh vai trò tích cực của tư tưỏng thiên tông
trong lĩnh vực tu tuỏng Việt nam, đặc biệt là tư tưởng "vô trụ"
của thiên tông.
- Khảo cứu tương đối toàn diện tín ngưỡng Phật giáo thời Lý
trong tương quan ảnh hưỏng vói tín ngưỡng truyền thống Việt
nam.
Vói những kết qủa đó, tác giả hy vọng luận án này có thể góp
phần vào thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy lịch sử tu tưỏg triết
học phương Dông cũng như lịch sử tư tưỏng Việt nam hiện nay
ỏ nưóc ta.
6. Kết cấu luận án.
- Tên luận án: "Về vai trò phật giáo ỏ Việt nam" (Qua triều
dại nhà Lý).
- Luận án gồm 169 trang. Ngoài "Lòi mỏ đầu", "Kết luận",
"Danh mục các tài liệu tham khảo" và "Nhũng công trình khoa
học đã công bố có liên quan vói nội dung luận án", Luận án
được cấu trúc thành 02 chương, 5 tiết (chương 1: 2tiết, chưong
II: 3 tiết.).
7
CHƯỜNG I
VAI TRÒ TÔN GIÁO TRONG ĐÒI SốNG XÃ HỘI
VÀ VẤN ĐỀ VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG
LỊCH
sử VIỆT
NAM.
•
■
I. VAI TRÒ XÃ HỘI CỦA TÔN GIÁO
Luận diểm xuất phát dê có the xác dịnh dúng và dây dủ vị trí,
vai trò cùa tôn giáo trong dòỉ sống xã hội là luận diêm xem xét
tôn giáo với tư cách là một hiện tượng xã hội - một tiểu hệ thống
kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Điều này đặc biệt cân thiết khi nghiên cúu vai trò xã h ộ i/của
những tôn giáo lón như Phật giáo, Co dốc giáo, Hồi giáo v.v.
cũng như mọi tôn giáo của xã hội hiện dại.
Vói tư cách là một tiểu hệ thống kiến trúc thượng tâng của xã
hội, mọi tôn giáo đều bao gồm ý thức tôn giáo, dặc biệt là ý
thức hệ tôn giáo, và tương ứng với nó là một thiết chế xã hội
như tổ chức giáo hội, tăng doàn, nhà thờ và nghỉ lễ thờ cúng.
Nếu chỉ nghiên cứu tôn giáo vói tư cách là một hình thái ý
thúc xã hội thì có thể cho phép chỉ rõ bản chất không khoa học
cua tôn giáo và dễ nhận thấy vai trò hạn c h ế của tôn giáo trong
lịch sử nhận thúc và văn hóa; trong lịch SỈ! cải tạo thiên nhiên,
cải tạo xã hội và tiến hóa của loài người. Vai trò tích cực nhất
8
định của tôn giáo hầu như rất khố được làm sáng tỏ. Song nêu
nghiến cứu tôn giáo với tu cách toàn diện hơn, dẳy dử hơn, tức
íà với tu cách là một tiểu hệ thống kiến trúc thượng tâng của xã
hội thì không những nó cho phép
vạch
rõ vai
trò hạnchế lịch
sử, đôi khi là phản tiến bộ, phản
khoa
học... của tôn giáo mà
còn có thể thấy được một cách dúng dắn vai trò tích cực nhất
định của tôn giáo trong đòi sống xã hội.
Trong công cuộc xây dựng xã hội mới ỏ nước ta hiện nay, tôn
giáo vẫn tồn tại một cách khách quan thì việc nghiên cứu vai trò
của nhửng tác động nhiêu mặt của tôn giáo, kể cả mặt hạn chế,
tiêu cực để khắc phục cũng như mặt tiến bộ, tích cực dể sử dụng
và phát huy là một việc làm cân thiết.
1.1. Ý thức tôn giáo.
Là một hình thái ý thức xã hội, bất cứ một tôn giáo nào cũng
bao hàm một nội dung không khoa
học;
dó là sự phản ánh một
cách sai lệch nội dung khách quan
của giói tự nhiên và xã
hội.
Nó là kết quả tất nhiên của tính hạn chê trong sự phát triển của
ý thức con ngưòi, của nhân loại. Bỏi vậy, xét theo bản chất, ý
thức khoa học và ý thức tôn giáo là không thê tương dông, thậm
chí đối lập nhau. Có nhũng ý dịnh khoa học hóa nội dung ý tlúíc
tôn giáo nhưng diều đó là không thể thục hiện dược, bởi vì chúng
khác nhau vê bản chất. Cho tói nay, luận diểm kinh điển của các
nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác vẫn giữ nguyên giá trị khoa học:
"... bất cứ tồn giáo nào cũng dều chỉ là sự phản ánh hư ảo vào
đâu óc ngưòi ta những sức mạnh ở bên ngoài chỉ phối cuộc sống
hằng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh mà trong đó những sức
9
mạnh ỏ thế gian dã mang hình thức sức mạnh siêu thế gian
(4. ỉ
- trang 544) hoặc tôn giáo là "thế giói quan lộn ngược", "là trái
tim của thế giói khồng có trái tim" và "là thuốc phiện của nhân
dân" (31.4 - trang 14).
Là sự phản ánh sai lệch hiện thức khách quan, dương nhiên ý
thúc tôn giáo mang trong nó bản chất hạn chê của sự tác dộng
tích cực tỏi những yếu tô tiến bộ của xã hội, của lịch sử. Không
thể dòi hỏi ỏ ý thúc tôn giáo tính duy lý, khoa học, Câu cách
ngôn "tôi tin vì diêu dó là vô lý" là một cách ngôn chân ỉý vê
bản chất của ý thức tôn giáo.
Tuy nhiên, nếu trong ý thức, dặc biệt là ý thức hệ tôn giáo chỉ toàn
là những sai lâm, những phi lý và tiẻu cực dối vối dời sống xã hội thì
tôn giáo dã không thế tồn tại và phát triển hàng ngàn năm trong lịch
sử các dân tộc khác nhau trên hành tinh của chúng ta. Và, điêu dó
cũng không đúng vối quan diểm duy vật Mácxít.
Trong khi chi ra nguyên tắc quyết định của tồn tại xã hội dối
với ý thức xã hội thì đồng thòi chủ nghía duy vật lịch sử cũng
chi ra rằng bản thân đời sống ý thílc xã hội củng có tính độc lập
tương dối của nó, trong CỈÓ có sự tác dộng lẫn nhau, giao lưu,
kế thùa lẫn nhau của các hình thái ý thúc xã hội là một nội dung
căn bản của tính độc lập tương đối dó. Nhu vậy thì ý thức tôn
giáo, vói tư cách là một hỉnh thái ý thức xã hội không tôn tại
biệt lập vói các hình thái ý thức xã hội khác như: hình thái ý
thức dạo dức, thẩm mỹ, chính trị, pháp luật V.V.. Giữa chúng có
sự tác dộng qua lại, kê thừa lẫn nhau, tạo ra sự phong phú của
mỗi hỉnh thái ý thức xã hội, tạo ra cái thần thái của mỗi hình
10
thái ấy. Nguyên lý triết học này dã dược chúng minh bằng sự
phát triển thực tế phong phú của ý thúc xã hội trong lịch sú
hàng ngàn năm của các quốc gia, các dân tộc khác nhau. Thực
tế cho thấy, có nhũng niíóc mà ỏ dó tôn giáo trỏ thành một
truyền thống sâu sắc thì nó dã góp phân làm biển th ái, tạo ra
cái than thái dặc thù của các lĩnh vực ý thức xã hội khác như
đạo dúc, thẩm mỹ.... Ngay cả lĩnh vực ý thức chính trị và pháp
quyền cũng có thể chịu ảnh hưỏng sâu sắc của tư tưởng tôn giáo
truyền thống. Tôn giáo tự nó không phải là chính trị, song chính
trị mang mâu sắc tôn giáo, hay mang tính chất sâu sắc nào đó
của một tôn giáo đang phổ biến trong xã hộỉ là diêu dễ nhận
thấy.
Tương ứng như vậy, tôn giáo vằ dạo đức không phải ià dồng nhất,
tôn giáo và thẩm mỹ cũng không phải là một v.v. song khó có thể biện
minh rằng trong một ý thức tôn giáo lại không có những yếu tố cùa
tư tưởng dạo đức, của thẩm mỹ, của văn hóa... và trong diều kiện xã
hội có giai cấp thì còn có cả những yếu tố chính trị, dảng phái nữa.
Lịch sử phát triển của bất cứ một tôn giáo lón nào trên thế giới
dều chũng tỏ rằng; trong quá trình phát triển của mình, nó clã dược
làm giàu thêm, phong phú thêm nội dung tư tưỏng bằng tất cả sự lliu
nhận và biến cách những yếu tố ngoại lai, từ các hình thái ý thức xã
hội khác.
Phật giáo là một điển hình của tình hình dó. Kể từ khi xuất hiện,
càng về sau Phật giáo càng được phát triển thành nhiêu tồng phái
khác biệt, tuy vậy k h ồn g VI t h ế mà các tông pliái khác nhau ấy lại
không phải lả Phật giáo. Sự khác nhau ấy dã duợc tạo ra bởi sự du
11
nhập phật giáo vào các dịa phương, khu vực khác nhau, dưới sụ ảnh
hưởng khác nhau bỏi ý thức xã hội của các cộng dồng ngưòi khác
nhau. Khi phật giáo thâm nhập vào một xã hội cụ thể nhất định như
Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản .v.v. thì một mật nó đã bị bản dịa
hóa vê nội dung, mặt khác nó có thể thu nhận từ ý thúc xã hội bản
địa nhũng yếu tố tư tưởng mà vốn nó chưa có.
Một nét riêng ỏ Phật giáo Ấn độ so vói các tôn giáo ỉón khác trên
thễ giới mà bất cú một nhà nghiên cứu nào cũng có thể nhận thấy là
nó vùa có tu cách triết học lại vừa có tu cách tôn giáo. Người ta hoàn
toàn có thể minh chứng rằng Phật giáo là một tôn giáo, đồng thời
cũng không ai có thể bác bỏ dược sự thật phật giáo là một ý thức hệ
triết hoc. Vậy thì phật giáo có sự thống nhất giữa những tư tưởng tôn
giáo và những tư tưởng triết học. Có thể giả định rằng: ra đời trong
một điêu kiện truyền thống của triết lý thòi kỳ Ưpanisad dã lằm phát
sinh vô số các trương phái triết học khác nhau như Mimansa, Vedanta,
Yôga .v.v. đã khiến cho phật giáo không thể dứng vững nếu không có
một nên tảng triết học nhất định. Dương thời, vị sáng lập dạo Phật
ỉà Thích ca mâu ni, được truyền tụng rằng ngài thường im lặng trước
những câu hỏi vê siêu hỉnh học của các dệ tủ. Nhưng càng về sau,
nhât là vói các đệ tủ truyền thùa dã khồng thể im lặng mãi írưóc
những vân dề của siêu hình học.
Bới vậy, thái dộ dúng đắn khoa học khi nghiên cứu vê ý thức
tôn giáo là cân phải phân tích đầy dủ những phương diện, những
yếu tố khác nhau của nó.
Dó là thái dộ khoa học của sự chọn lọc và kẽ thùa. Nhiêu giá
trị dạo đức, thẩm mỹ, vãn hóa... truyền thống của một dân tộc
12
có thê dược tìm thây ỏ ngay trong ý thức truyền thống của một
tôn giáo của dân tộc dó.
Có nhũng dân tộc mà bản thân chưa có cliều kiện và khả năng tạo
ra một tôn giáo nào dó thì nó dón nhận sự du nhập của một tôn giáo
từ bên ngoài, Con dưòng du nhập của một tôn giáo ngoại lai đối vói
một dân tộc có thê phải trải qua nhiêu thòi kỳ, qua nhiêu dân tộc
khác nhau trưóc khi dến vói dân tộc dó. Chính ỏ diêm này dân tộc
đó có thể tìm thấy và kê thừa ỏ tôn giáo ngoại lai này nhiêu yếu tô’
có giá trị tích cực vê các phương diện khác nhau của các dân tộc khác,
thông qua tôn giáo CỈÓ.
Nghiên cứu kỹ vê vai trò tích cực của ý thức tôn giáo cho phép
di sâu hơn một bưóc nữa: có th ể tìm thấy những giá trị tích cực
nhất định của ý thức tôn giáo ngay trong nội dung phản ánh mà
C.Mác cũng như F.Engen gọi là "hư ào" hay "thuốc phiện" của
nó.
Sụ phân tích toàn bộ doạn văn sau dây của C.Máe (trong Góp
phần phê phán triết học pháp quyền của Hêgen. Lòi nói đầu)
cho thấy chính bậc sáng lập ra chủ nghĩa Mác dã nhận thấy diều
dó:
"Sự nghèo nàn cùa tôn giáoJ một mặt là biểu hiện của sụ nghèo
nàn hiện thực, và mặt khác là sự phàn kháng chống sự nghèo nàn
hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thỏ dài của chủng sinh bị áp bức,
là trái tim của thế giới khồng có trái tim, cũng giống như nó là
tinh thân của những diêu kiện xã hội không có tinh thân. Tôn
giáo là thuốc pliỉện của nhân dân" (31.4 - trang 14).
Trong doạn văn trích dẫn trên dây cho thấy C.Mác dã vận
13
dụng tài tình phép biện chúng dể thấy dược sự thống nhất giữa
những hạn chế lịch sử của ý thức tôn giáo và nhũng tích cực nhất
định có tính lịch sử của ý thức ấy. Mỗi câu trong đoạn văn trên
dây dều chỉ rõ hai mặt dối lập của cùng một vấn dề.
Khi C.Mác nói "Sự nghèo nàn của tôn giáo, một mặt là biểu
hiện của sự nghèo nàn hiện thực", rằng "Tôn giáo tiếng thỏ dài
của chúng sinh bị áp bức" thì chính ông dã chỉ rõ mặt hạn chê,
tiêu cực của tôn giáo. Hình tượng "tiếng thỏ dài của chúng sinh
bị áp bức" là một hình tượng rất đạt để nói về sự bât lực, bất
phàn kháng cùa quàn chúng nhân dân trong tình trạng bị áp bức,
bị bóc lột trong
đòi sống hiện thực.
Mặc dù vậy, C.Mác vẫn thấy
rõ mặt khác của
vấn
đêtôn giáo,
ông chỉ rõ: "Mặt khác là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện
thực ấy", rằng tôn giáo "là trái tim của th ế giói không cố trái tinVy
cũng giống như nó là tinh thần của những diêu kiện xã hội không
có tinh thân".
Vói nhãn quan duy vật lịch sử, C.Mác chỉ rõ nguồn gốc hiện
thực của ý thức tôn giáo. Ý thíic tôn giáo chính là biểu hiện, là
sự thăng hoa sự bất lực của quần chúng nhân dân trưóc hiện
thực xã hội phi
nhân tính; là áp bức, là bóc lột? là
tai họa...,
dồng thòi chính
sự biểu hiện, sự thăng hoa dó lại
nói lên mặt
khác của vấn dê: dó là biểu hiện của sự phản kháng, có ý hướng
thể hiện sự chống dối tinh thân hiện thực phi nhân tính. Hình
ảnh "trái tim" mà C.Mác sủ dụng ở dây có thể hiểu là tính nhân
bản, tính nhân ái, tinh thán dại bi. tính ngưòi... Con ngưòi không
tìm thây bản tính ấy của nó trong clòi sống hiện thực nên con
14
nguòi đã di tìm bản tính ấy ỏ một tồn tại khác do chính Củn
ngưòi tạo ra - đó là ý thức tôn giáo. Việc con ngưòi đi tìm bản
tính ây, dù không phải ỏ bản thân đòi sống hiện thực, mà là ỏ
một thế giói tường tượng tôn giáo, đã nói lên rằng nhu cẳu phải
có, phải tìm thấy bản tính ngưòi của nó là một nhu câu khách
' quan, Do vậy, việc đi tìm bản tính ngưòi ỏ thê giói tưỏng tượng
chính cũng là biểu hiện của sự phản kháng tình trạng phỉ nhân
tính của xã hội đang là trạng thái hiện thực bao trùm con ngưòi.
Có thê nói bất cứ ý thúc tôn giáo nào cũng là tiếng "vang” của
nhu câu hiện thực dã dược thăng hoa trong những lóp mây mù
của sự tưỏng tượng. Bất cứ một ý thúc tôn giáo nào cũng ỉà biểu
hiện của "sự không bằng lòng" vói những hạn chế của lịch SỪ, của
con người; nó là biểu hiện của một nhu cầu chân, thiện, mỹ cần
phải có nhưng chưa có duợc trơng đòi sống hiện thực. Bỏi thế,
chỉ khi nào cái chân, thiện, mỹ đã dược thỏa mãn trong cuộc
sống hiện thực, thì khi đó niềm hạnh phúc hư ảo trong tôn giáo
mới có thể không còn ]ý do tồn tại. Cũng bỏỉ vậy, không thấy
tính nhân bản dã được tôn giáo thần thánh hóa như là sụ phản
ánh một nhu câu chính đáng, hiện thực của con người thì cũng
là một khiếm khuyết, là phiến diện khi nghiên cứu vê ý thức tôn
giáo. Việc đối dâu vói ý thức tôn giáo theo nghĩa là chống đối
bản tính ngưòi đã dược thiêng liêng hóa thì xét về thực chất là
chống lại chính bản thân con ngưòi, chống lại nhu cầu chính dáng
vươn lên bản tính chân, thiện, mỹ của xả hội con người. Điêu
đó, không bao giò có thế thành công. Quan điểm Mác xít vê tôn
giáo, trong khi chỉ rỗ cơ sỏ hiện thục của ý thức tôn giáo, dã
15
chỉ ra con đưòng hiện thực của sự xóa bỏ tôn giáo, con dường
triệt dể nhất, khoa học và cách mạng nhất là huóng vào sự cải
tạo bản thân sụ "nghèo nàn hiện thực" dã sản sinh ra tôn giáo.
Bỏi thế, sau khi đã phê phán sự tha hóa của bản tính ngưòi (chứ
không phải phê phán bản tính ngưòi trong sự tha hóa ấy) trong
tôn giáo thì "phê phán thượng giói biến thành phê phán cỗi trần"
(31.4 - trang 15).
Sự phân tích dó cho phép di tói kết luận rằng mặt hạn chế, s
tiêu cực của ý thức tôn giáo chính là hình thức tha hóa bản tính
nguòi, đưói hình thức thiêng liêng, thần thánh tôn giáo, còn mặt
hợp lý, tích cực của ý thúc tôn giáo chính là nội dung của sự bị V
tha hóa - tức bản tính ngưòi.
Nếu như bản thân nội dung ý thức tôn giáo có nhũng yếu tỗ
hợp lý, tích cực thì dương nhiên nó có khả năng, bằng nhũng
phương thức và duói nhũng hình thức nào đó, có thể hiểu hiện
vai trò tác động tích cực nhất định tới đời sống xã hội, chẩng hạn
nhu thông qua những giá trị đạo dức tôn giáo, thẩm mỹ tôn giáo,
văn hóa tôn giáo v.v...
1,2 Tổ chức, ỉhĩết chẽ xã hội của tôn giáo và yêu tố
lễ nghỉ tôn giáo.
Cùng vói ý thức tôn giáo là tổ chúc, thiết ch ế xã hội của tôn
giáo và nhũng hoạt động của nó thông qua hoạt dộng của cốc
tín dô tôn giáo.
Nhũng tổ chức, thiết chế xã hội tôn giáo được thiết lập trưóc
hết trên co sỏ của một ý thức và ý thức hệ tôn giáo. Tưong ứng
vói một ý thúc và ý thức hệ tôn giáo sẽ có một tổ chức, thiết
16
chễ tôn giáo nhất dịnh, tồn tại với tư cách là quá trình vật chất
hóa ý thức và ý thúc hệ tôn giáo trong thực tiễn xã hội.
Theo luận đê của C.Mác: Ý thúc tự nó không thục hiện dược
gì hết, muốn thực hiện ý thúc cần phải có nhũng hoạt dộng xã
hội, có những con ngưòi thực hiện ý thúo ấy. Trên ý nghĩa dó
Vvai trò xã hội của tôn giáo chủ yếu dược bộc lộ thông qua hoạt
dộng của các tổ chức, thiết chế xã hội của tôn giáo. Bỏi vậy,
nghiên cứu vai trò xã hội của tôn giáo cân phải đặc biệt chú
trọng vào sự phân tích hoạt dộng của các tổ chức, thiết chế xã
hội tôn giáo cùng vói những hoạt dộng xã hội của các tín dô.
Nếu như nghiên cứu ý thức tôn giáo cho phép ta di tói những
nhận định về vaỉ trò nào dó của nó dối với thục tiễn xã hội, thực
tiễn lịch sủ một cách trừu tượng, thì việc nghiên cũu tổ chức,
thiết chế xã hội tôn giáo và hoạt động của nó sẽ cho phép vạch
chỉ ra vai trò xã hội thực tế, trực tiếp của tôn giáo nói chung,
vằ ý thức tôn giáo nói riêng dối vói thực tiễn lịch sử, thực tiễn
xã hội.
Không xuất phát từ góc độ như vậy, có quan diểm khi phân
tích vai trò của Phật giáo đối với thực tiễn lịch sử Việt Nam dã
cho rằng: nếu căn cứ vào hoạt dộng của các tổ chúc, thiết chế
xã hội của Phật giáo cùng hoạt dộng của các tăng ni phật tử
Việt nam thì sẽ không dánh giá dược vai trò của Phật giáo Việt
Nam dối vói thực tiễn lịch sử Viêt Nam; vì ngay trong hoạt dộng
của các tăng ni phật tủ Việt Nam chẳng hạn thì không phải mọi
phật tử đêu có những hoạt dộng tích cực trong phong trào dậu
tranh cho dộc lập dân tộc và thống nhất quốc gia, cũng không
V
17
phải ỏ mọi giai doạn lịch sử tổ chức phật giáo Vụ,Ị Nam dều có
những dóng góp lốn cho lịch sử nưóc nhà. Tù dó quan diểm này
cho rằng cằn phải căn cứ vào chỉ bàn thân giáo lý Phật giáo mói
có thê nói vè vai trò tích cực hay tiêu cực dối vói lịch su xã hội
Việt Nam.
Theo quan diểm này:
Thứ nhất'. Không quán triệt quan điểm Mác xít; thực ra hoạt
động xã hội của con nguòi là "sự tha hóa" tu tưởng xã hội của
con ngưòi. Đ ó là điểm khác biệt giữa "hoạt động của một kiến
trúc sư tồi nhất vói hoạt dộng của một con ong khéo léo nhất".
Nếu dánh giá vai trò của một hiện tượng xã hội chỉ căn cứ vào
ý thức xã hội của hiện tượng dó, và chỉ vậy thôi thì khó có thể
đạt tới quan điểm duy vật Mác xít vê xã hội.
Thứ hai: Đúng là khi nghiên cứu tổ chức, thiết chẽ xã hội và
hoạt dộng của nó thông qua hoạt dộng của các thành viên của
tổ chức xã hội dó không tránh khỏi một tình trạng phức tạp:
hoạt dộng đó có lúc như thê này có lúc như thê khác; có những
thành viên của tổ chúc đó hoạt dộng một cách tích cực cho xã
hội, ỉại có những thành viên xa ròi xu hưóng tích cực .v.v. Đ ó là
diều thường thấy ỏ hoạt dộng của bất cứ tổ chức xã hội nào.
Tuy vậy ta cũng không thể phủ nhận nguyên lý Mác xít: quì
luật xã hội thường biểu hiện như một xu hướiỉg. Qui luật xã hội
mang tính tất yếu. Vậy, nếu xem xét hoạt dộng của một tổ chức,
thiết ch ế xã hội trên nét tổng quát của nó và trong một giai đoạn
lịch sứ tương đối dài thì chúng ta vẫn có thể nói về vai trò tích
cực hay tiêu cực của nó biểu hiện ra như là tínli tất yếu lịch sủ
18
- dó là xu hướng cơ bản, xu hưóng lỏn.
Như vậy có thể thấy rằng giữa ý thức và ý thúc
hệ tôn giáo
vói tổ chức, thiết chê xã hội tôn giáo có một sự thống nhất, song
giũa chúng không đông nhất. Tổ chức, thiết chẽ xã hội tôn giáo
là ton tại khác, là quá trình vật chất hóa xã hội của ý thức và ý
thức hệ tôn giáo. Nói theo thuật ngữ của các triết gia cổ diên
Đức và của C.Máe thòi trẻ, thì nó là sự "tha hóa’ của ý thức và
ý thức hệ tôn giáo. Là sự tha hóa, nó vừa mang bản chất và nội
đung của đối tượng bị tha hỏa, đồng thòi nó không dồng nhất
với bản chất và nội dung đó.
Diêu nằy giải thích tại
sao tổ chúc, thiết c h ế
tôn giáo vừa
có
những hoạt dộng thuần túy tôn giáo như những hoạt động tín
ngưỡng; hoạt động lễ nghi, cúng tế; hoạt động rao giảng kinh
điển... của một tôn giáo, song đồng thời lại có những hoạt dộng
không thuần túy tôn giáo như những hoạt dộng mang nặng tính
chất kinh tế - chính trị - xã hội: đấu tranh xã hội, hoạt dộng dâu
tranh vì hòa bỉnh, vì phong trào dấu tranh giành độc lập dân
tộc, phong trào vì lòng từ thiện .v.v.
Có thê gọi những hoạt dộng loại thứ hai này là những hoạt
dộng xã hội không tôn giáo dược không? Không. Vì những hoạt
dộng này dù có xa vói bản chất và nội dung của ý thức tôn giáo
bao nhiêu chăng nữa thì nó vẫn mang ít nhiều tính chất tôn giáo.
Mỗi hoạt dộng xã hội như vậy đêu thường dược nhũng chù thể
hoạt dộng tìm ra mối liên hệ nào dó vói những tư tưởng tôn giáo
của chủ thể ây, vằ nó thưòng cỗ gắng lái nhĩíng hoạt dộng dó
qui tụ vào nhũng tư tưỏng, những giáo lý tôn giáo của nó.
19
Như vậy thì việc nghiên cứu vai trò xã hội của các tổ chức,
thiết c h ế tôn giáo cùng những hoạt động của các tín đồ cần được
quán triệt trên cả phương diện những hoạt động thuần túy tôn
giáo lẫn trên phương diện những hoạt động không thuần túy tôn
giáo. Chỉ có như vậy mói có quan diểm toàn diện trong việc xem
xét vấn dẻ vai trò xã hội của các tổ chức, thiết chê xã hội tỏn
giáo cũng như hoạt động của các tin đồ. Tiếp cận vai trò tôn
giáo chỉ dừng lại ỏ việc nghiên cứu ý thức tôn giáo hoặc chỉ đẻ
cập phương diện những hoạt dộng thuần túy tôn giáo của các tổ
chức, thiết chê tôn giáo và của tín dô có đạo là phiến diện, tù
đó có nhũng nhận định không đây dủ vê vai trò xã hội của chúng.
Dây là phương pháp luận khá quan trọng để phãn tích vần dê
vai trò của Phật giáo trong lịch sử Việt Nam.
Chẩng hạn, có quan điểm cho rằng một số thiền sư thời Lý,
Trần có tham gia vào những hoạt động chính trị - xã hội thì diêu
đó không phải họ xuất phát tù những tư tưỏng của dạo Phật,
không phải các thiền sư ấy dã hành động theo tư cách thiên su,
theo tư cách phật tử mà là họ đã hành dộng theo tư cách của
một công dân Dại Việt, tư cách một người Việt Nam.
Theo quan diêm này thì chỉ khi nào các thiền sư ngôi trên
chiếu thiền, tụng kinh, gõ mõ... thì họ mói tồn tại vói tư cách là
phật tử.
Trước hết, cân khẳng định rằng không thê dông n h ấ t ý thức
tôn giáo vói ý thức xã hội nói chung, cũng như không thể dồng
nhất ý thức tôn giáo của một tín dồ có dạo vói ý thức của ngưòi
dó, và do dó cũng không thể dồng nhất hoạt động tôn giáo vói
20
hoạt dộng không tôn giao của các chủ thể hoạt dộng. Đ ế phân
biệt được sự khác nhau giữa chúng cân có quan điểm lịch sử, cụ
thể, cân có sự áp dụng phép biện chứng Mác xít đê phân tích
các phương diện khác nhau cùa cùng m ệt hoạt động xã hội thống
nhất của các tổ chức, thiết chế tôn giáo và của các tín đỏ Tức ỉà
cùng một hoạt động của tổ chức, thiết chế tôn giáo và của các
tín dồ nào đó có thể dược phân tích vói các ý nghĩa xã hội khác
nhau của nó: ý nghĩa tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa, dạo đức,
chính trị, kinh tê .v.v. Theo cách tiếp cận này thì ngay cả những
hoạt động gọi là thuần túy tôn giáo cũng chưa hẳn là thuân túy
tôn giáo. Ngay ỏ hoạt động ấy vẫn có thể có những ý nghía không
thuần túy tôn giáo như những ý nghĩa văn hóa, thẩm mỹ, dạo
dức .v.v.
Đòi hỏi một sự rạch ròi trong sự phân loại giũa những hình
thức hoạt động tôn giáo vói các hoạt dộng không tôn giáo của
các tổ chức, thiết chế... tôn giáo là khống thể thực hiện dược.
Chỉ có thê phân tích các phương diện khác nhau của chúng mói
có thể thấy dược các vai trò, chức năng khác nhau của chúng.
Quan niệm này đặc biệt cần thiết khỉ phân tích vai trò xã hội
của Phật giáo trong thực tễ lịch sủ Việt Nam. Điêu này còn có
liên quan tới tính chất đặc thù của Phật giáo, đặc biệt là của
tông Thiên, rất phổ biến trong xã hội thời Lý-Trần.
Khi các thiên sư hay các phật tủ nói chung có tham gia các
hoạt dộng chính trị - xã hội, thậm ch í rất dắc lực, thì diêu dó
không phải là họ xa ròi dạo pháp của phật pháp.
Fư tưỏng khá cốt lõi của Phật giáo, nhất là Thiên tông là coi
21
- Xem thêm -