BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Tạ Thị Hoàng Yến
VĂN XUÔI VỀ CHIẾN TRANH
CỦA ĐÌNH KÍNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Tạ Thị Hoàng Yến
VĂN XUÔI VỀ CHIẾN TRANH
CỦA ĐÌNH KÍNH
Chuyên ngành : Lí luận Văn học
Mã số
: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, nghiên cứu. Các
kết quả và số liệu tôi trình bày trong luận văn này là trung thực, không trùng với
bất kì đề tài nào khác.
Học viên
Tạ Thị Hoàng Yến
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Phùng Quý
Nhâm, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian nghiên cứu, hoàn
thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới quý thầy cô đã giảng dạy và đóng góp cho
tôi trong quá trình học tập, thực hiện luận văn. Đồng thời, tôi cũng bày tỏ lời
cảm ơn chân thành tới quý thầy cô công tác tại Phòng Sau Đại Học trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
quá trình học tập nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
giúp đỡ, động viên tôi rất nhiều trong quá trình học tập và làm luận văn tốt
nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tp Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 9 năm 2017
Học viên
Tạ Thị Hoàng Yến
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG VĂN XUÔI VỀ CHIẾN
TRANH CỦA ĐÌNH KÍNH ......................................................... 11
1.1. Người kể chuyện ....................................................................................... 11
1.1.1. Người kể chuyện đồng sự và người kể chuyện dị sự.......................... 16
1.1.2. Người kể chuyện bên trong và người kể chuyện bên ngoài ............... 17
1.2. Các dạng người kể chuyện trong văn xuôi về chiến tranh của
Đình Kính ................................................................................................ 19
1.2.1. Vai trò của người kể chuyện đồng sự ................................................. 19
1.2.2. Vai trò của người kể chuyện dị sự ...................................................... 28
Tiểu kết ............................................................................................................... 38
Chương 2.
ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG VĂN XUÔI
VỀ CHIẾN TRANH CỦA ĐÌNH KÍNH .................................... 39
2.1. Điểm nhìn trần thuật ................................................................................. 39
2.1.1. Điểm nhìn zero .................................................................................... 43
2.1.2. Điểm nhìn nội quan............................................................................. 43
2.2. Các dạng điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi về chiến tranh của
Đình Kính ................................................................................................ 45
2.1.1. Điểm nhìn zero .................................................................................... 45
2.2.2. Điểm nhìn nội quan cố định................................................................ 50
2.3. Các motif thể hiện điểm nhìn trần thuật của Đình Kính về vấn đề
chiến tranh ................................................................................................. 54
2.3.1. Từ motif con người khát khao đấu tranh giành lại độc lập................. 54
2.3.2. Motif con người thức tỉnh lên án chiến tranh ..................................... 58
Tiểu kết ............................................................................................................... 63
Chương 3.
KHÔNG
GIAN
–
THỜI
GIAN
TRẦN
THUẬT
TRONG VĂN XUÔI VIẾT VỀ CHIẾN TRANH
CỦA ĐÌNH KÍNH ....................................................................... 64
3.1. Không gian trần thuật................................................................................ 64
3.1.1. Không gian trần thuật........................................................................ 64
3.1.2. Các dạng phối cảnh không gian trần thuật trong văn xuôi về
chiến tranh của Đình Kính ................................................................ 69
3.2. Thời gian trần thuật ................................................................................... 82
3.2.1. Thời gian trần thuật ........................................................................... 82
3.2.2. Các dạng phối cảnh thời gian trần thuật trong văn xuôi về chiền
tranh của Đình Kính .......................................................................... 85
3.3. Ý nghĩa của sự phối cảnh không gian – thời gian trong văn xuôi viết
về đề tài chiến tranh của Đình Kính.......................................................... 92
3.3.1. Phản ánh hiện thực và lịch sử chiến tranh .......................................... 92
3.3.2. Phản ánh tâm trạng của con người trong cuộc chiến và gợi mở
nhiều suy niệm trong người đọc ......................................................... 96
Tiểu kết ............................................................................................................... 98
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 101
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Dù đang sống trong thời hòa bình nhưng văn học viết về chiến tranh
vẫn là đề tài lớn, là mảnh đất màu mỡ không bao giờ cạn kiệt với cả người sáng
tác lẫn bạn đọc, người nghiên cứu văn học. Viết về chiến tranh để khẳng định
rằng không ai muốn chiến tranh, đồng thời càng trân trọng hơn giá trị của hòa
bình. Điều đó có nghĩa là viết về đề tài chiến tranh không chỉ giúp con người
hiểu về một thời lịch sử đã qua mà còn giúp giữ gìn và trân trọng những giá trị
thiêng liêng, cao đẹp của con người.
1.2. Vẫn là đề tài chiến tranh – một đề tài không mới cũng không cũ, nhưng
tác giả Đình Kính đã mở rộng biên độ, khai thác nhiều vấn đề mới còn ẩn sâu
trong lớp bụi thời gian. Bản thân tác giả cũng từng là một người lính trận nên
ông am tường và yêu thích viết về chiến tranh. Ông chuyên viết về đề tài chiến
tranh đặc biệt là về người lính biển – lĩnh vực chưa được nhiều nhà văn khai
thác. Bên cạnh đó, đề tài hậu chiến cũng được ông quan tâm khai thác trong các
sáng tác của mình.
Thông qua các tác phẩm của mình, Đình Kính đã góp tiếng nói riêng của
mình về đề tài người lính biển, thân phận của con người trong chiến tranh... Từ
góc nhìn của một người lính, Đình Kính đã đào sâu thân phận con người trong
chiến tranh, nhân danh quyền sống chính đáng của con người. Ngòi bút của
Đình Kính đã phơi bày sự hi sinh quả cảm của những người lính trực tiếp tham
gia chiến tranh, sự mất mát của những người vợ, những người con trong gia đình
có người thân đi chiến trận.
Các tác phẩm của Đình Kính đa dạng, trên nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu
thuyết, kí, báo chí. Các giá trị nội dung mà Đình Kính thể hiện trong sáng tác
của mình là rất lớn. Đồng thời, tác phẩm của Đình Kính còn là bài ca trong trẻo
về tình yêu, cuộc sống, những giá trị chân – thiện – mĩ.
2
Không phải ngẫu nhiên mà tiểu thuyết Sóng chìm đạt giải thưởng của Hội
nhà văn Việt Nam (2008) và Người của biển đạt giải thưởng Bộ quốc phòng
(1989). Cùng với hai tác phẩm này, các tác phẩm khác của nhà văn Đình Kính
đều phản ánh hiện thực và con người trong chiến tranh.
1.3. Tự sự học (Narratologie/Narratology) là một phân môn nghiên cứu cấu
trúc diễn ngôn truyện kể. Tự sự học vừa kế thừa được những thành tựu ưu việt
của các lĩnh vực nghiên cứu ra đời trước nó (rõ nét nhất là cấu trúc luận và thi
pháp học) vừa có sự đóng góp, phát hiện thiên tài của các nhà khoa học hàng
đầu như Roland Barthes, Genette, Todorov, Chatman, Rimon Kenan, H.
White,... Tính hiệu quả của nó trong nghiên cứu văn chương đã được chứng thực
trên phạm vi toàn thế giới và vẫn là một trong những phương pháp khoa học
được áp dụng rộng rãi.
Lí thuyết tự sự học hiện đại lần đầu tiên tập trung nghiên cứu vai trò của
người trần thuật trong việc “can dự” vào cấu trúc văn bản, nói đúng hơn là “quá
trình vận hành” của một cấu trúc truyện kể. Như vậy, có thể thấy rằng việc ứng
dụng hệ thống lí thuyết tự sự học vào nghiên cứu văn học không chỉ giúp khám
phá cấu trúc nội tại của tác phẩm mà còn chỉ ra vai trò, những đóng góp của nhà
văn, với tư cách là người sáng tạo, người kể chuyện.
Mặc dù chuyên ngành tự sự học đã trải qua hai giai đoạn là tự sự học kinh
điển (narratologie classique) và tự sự học hậu kinh điển (narratologie postclassique) nhưng ở Việt Nam hiện nay, tự sự học vẫn đang là khuynh hướng
nghiên cứu đang có tính thời sự. Nó đã và đang là một hướng nghiên cứu mới
vừa hấp dẫn, vừa phức tạp trong giới lí luận – phê bình, đặc biệt tại các trường
đại học của nước ta.
Như vậy, trước nhu cầu nghiên cứu về lĩnh vực tự sự học, cũng như
những đặc sắc về giá trị nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của Đình Kính,
chúng tôi mạnh dạn đi vào tìm hiểu, nghiên cứu đề tài: “VĂN XUÔI VỀ CHIẾN
TRANH CỦA ĐÌNH KÍNH”. Đề tài mang ý nghĩa của sự vận dụng lí thuyết tự
3
sự học vào việc nghiên cứu văn xuôi về chiến tranh của Đình Kính. Hi vọng, đề
tài của chúng tôi sẽ có một đóng góp nhất định trong việc nghiên cứu văn xuôi
về chiến tranh của Đình Kính.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi chọn đối tượng nghiên cứu là văn xuôi về
chiến tranh của Đình Kính. Người viết tiến hành vận dụng lí thuyết tự sự học và
các phạm trù tự sự học vào việc tìm hiểu nghiên cứu cấu trúc văn xuôi về chiến
tranh của Đình Kính. Cụ thể là tập trung nghiên cứu về người trần thuật, điểm
nhìn trần thuật và không gian – thời gian trong các sáng tác văn xuôi về chiến
tranh của Đình Kính.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi khảo sát và nghiên cứu tác phẩm văn xuôi về chiến tranh của
Đình Kính qua các văn bản sau đây:
− Sóng của sông (1976), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
− Đảo mùa gió (1981), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
− Những người đổ bộ (1981),Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
− Người của biển (1985), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
− Sóng chìm (2007), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội (in lần thứ 2).
Đây là các tác phẩm văn xuôi về chiến tranh của Đình Kính mà chúng tôi
sẽ khảo sát, nghiên cứu.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3.1. Về lịch sử nghiên cứu Đình Kính và các sáng tác của ông
Đình Kính bắt đầu xuất hiện trên văn đàn vào những năm cuối của thập
niên 70, với những tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh phản ánh những hi
sinh, mất mát của những con người, những số phận. Bên cạnh đó, Đình Kính
cũng có những tác phẩm viết về đề tài thế sự.
4
Nhận định về văn xuôi Đình Kính, nhất là về mảng đề tài chiến tranh, cho
đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào hoàn chỉnh và đầy đủ. Đa số
tài liệu tham khảo mà chúng tôi có được chỉ là những bài phòng vấn, giới thiệu
tác giả, tác phẩm và bài viết, bài báo nhỏ lẻ (ở dạng cảm nhận, nhận xét) được
đăng tải ở một số trang điện tử trên Internet. Có thể kể ra một số bài tiêu biểu
như: Đọc tiểu thuyết Sóng chìm của Đình Kính (Bài của Hoài Khánh trên
http://hoaikhanh.vnweblogs.com/a84229/doc-tieu-thuyet-song-chim-cua-dinhkinh.html), Đọc hai góc nhìn tiểu thuyết Sóng chìm của Đình Kính (Bài đăng
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=9159),
bài phỏng vấn nhà văn Đình Kính: Đề tài biển đảo trong văn học – Không chỉ
giờ mới nóng trên trang http://vov.vn/van-hoa/van-hoc/de-tai-bien-dao-trongvan-hoc-khong-chi-gio-moi-nong-326687.vov, bài phỏng vấn Nhà văn Đình
Kính: chỉ sợ tác phẩm rơi vào...khoảng trống của Trần Thanh Hà đăng trên
trang http://vnca.cand.com.vn/Tu-lieu-van-hoa/Nha-van-Dinh-Kinh-Chi-so-tacpham-roi-vao-khoang-trong-326663/.
Nhà văn Hào Vũ nhận xét về tiểu thuyết Sóng chìm: Khai thác sự bất ngờ
ngẫu nhiên mang đầy tính bi kịch nhà văn Đình Kính đã thành công khi khắc
hoạ hình tượng nhân vật trong Sóng chìm mang đến cho người đọc một hiểu biết
mới một cách nhìn mới về một sự kiện lâu nay tưởng như đã cũ Đường Hồ Chí
Minh trên biển. Ông cho rằng thủ pháp bất ngờ ngẫu nhiên mang đầy tính bi
kịch là một khía cạnh đặc sắc của tác phẩm này. Dưới góc nhìn của nhà văn Hào
Vũ: Đình Kính không chỉ kể lại chiến công thầm lặng của những chiến sĩ cách
mạng họat động trong lòng địch. Với cảm quan của một nhà văn anh đã cố gắng
đưa ra một cái nhìn cao hơn các sự kiện cái nhìn về thân phận con người trong
chiến tranh. (http://hoaikhanh.vnweblogs.com/a112079/tieu-thuyet-song-chimdang-noi-giua-dong-du-luan.html).
Nhà văn Cao Năm nhận định: Với Sóng chìm, Đình Kính không đi sâu
vào miêu tả những chiến sĩ cán bộ vượt qua khó khăn mà mở rộng tầm tư tưởng
5
tác phẩm bằng việc thông qua nhân vật của mình thể hiện sâu đậm tình cảm cao
đẹp và sự hi sinh vô bờ bến của đồng bào chiến sĩ hai miền Nam - Bắc. Không
biết có nhà văn nào ở ta tâm huyết với đề tài biển và người lính biển hơn nhà
văn Đình Kính nhưng quả là đến thời điểm này anh là người lập kỉ lục về tác
phẩm văn học viết về biển và người lính biển với một chùm ngót chục đầu sách
gồm nhiều thể loại tiểu thuyết truyện ngắn bút kí và mấy kịch bản phim truyền
hình nhiều tập. Chỉ một con Đường Hồ Chí Minh trên biển ngoài tập bút kí mấy
trăm trang Đi tìm dấu tích con đường (2004)..."Thâm canh" như thế trên một
mảnh đất tưởng cũng khó có thể cày xới gì thêm vậy mà Đình Kính vẫn cày xới
mà còn cày xới tơi xốp đến độ quánh đặc phù sa như thể mảnh đất mới lần đầu
khai
phá.
(http://hoaikhanh.vnweblogs.com/a112079/tieu-thuyet-song-chim-
dang-noi-giua-dong-du-luan.html).
Nhà văn Cao Năm với bài đăng trên báo Văn nghệ công an (tháng 1 năm
2011) đã giới thiệu, nhận định, đánh giá về cuốn tiểu thuyết Biển trổ hoa vàng,
một cuốn tiểu thuyết về đề tài tình yêu của Đình Kính: “Vẫn chung thủy với đề
tài về biển và những người đi biển, nhưng lần này, với tiểu thuyết "Biển trổ hoa
vàng", nhân vật chính của nhà văn Đình Kính lại là những người gác đèn biển
nơi đảo xa. Qua đó, anh đã mang đến cho người đọc một câu chuyện tình nhiều
ý nghĩa nhân sinh”. (http://vnca.cand.com.vn/Ly-luan/Khong-tron-duoc-tinhyeu-328584).
Nhà văn Nguyễn Long Khánh đánh giá, với tiểu thuyết Sóng chìm, Đình
Kính đã xây dựng thành công các nhân vật sử thi anh hùng trong cuộc chiến
tranh thầm lặng. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết đánh giá tài năng và vốn sống
phong phú của Đình Kính. (http://www.vanhaiphong.com/van-hai-phong-gioithieu/3170-2016-09-08-07-13-02.html).
Nhìn chung, các bài viết và công trình nêu trên đã có những nhìn nhận,
đóng góp nhất định vào việc phát hiện những sáng tạo trong bút pháp của tác
giả. Tuy nhiên, những ý kiến nhận xét về các phương diện khác nhau của mảng
6
đề tài văn xuôi chiến tranh Đình Kính chỉ mới dừng lại mức đánh giá khái quát
chứ chưa có sự lí giải một cách triệt để và hệ thống.
Những ý kiến trên là những gợi ý quý giá giúp chúng tôi có thêm cơ sở lí
luận để giải mã giá trị tác phẩm của nhà văn. Với một khía cạnh khám phá riêng
biệt, luận văn này muốn tổng hợp nhận định từ những công trình bài viết nói
trên để có cái nhìn toàn diện, thấu đáo về một số vấn đề trong văn xuôi về chiến
tranh của Đình Kính.
3.2. Tình hình nghiên cứu về tự sự học
Chúng tôi điểm qua những công trình tự sự học, các bài dịch thuật tiêu biểu
ở Việt Nam:
- Hai công trình lớn tự sự học, phần I [52] và phần II [53] do tác giả
Trần Đình Sử chủ biên, bao gồm các bài viết: Tự sự học – một bộ môn
nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng, lấy nghệ thuật tự sự làm đối
tượng nghiên cứu, bài viết khẳng định đây là lĩnh vực thu hút sự quan
tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, phê bình văn học trên thế giới;
Tự sự học không ngừng mở rộng và phát triển của Trần Đình Sử, tác
giả dẫn ra lịch sử nghiên cứu về tự sự học qua các giai đoạn từ thời cổ
đại, đầu thế kỉ XIX cho đến nay; Tự sự học: tên gọi, lược sử và một số
vấn đề lí thuyết của Lê Thời Tân bao gồm các nội dung lược sử về tự
sự học, một số vấn đề lí thuyết của tự sự học hiện đại; Bàn về một vài
thuật ngữ trong kể chuyện của giáo sư Đặng Anh Đào, bao gồm các
thuật ngữ như người kể chuyện, điểm nhìn, tiêu điểm, ngôi kể, giọng
kể...; Lí thuyết tự sự học của Mieke Bal của Nguyễn Thị Ngọc Minh,
bài viết góp phần giới thiệu lí thuyết tự sự học ở nhiều phương diện,
cung cấp những lí thuyết hữu hiệu giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc
về tự sự học...
- Dẫn luận về tự sự học của Sussana Onega và T.A.Garcia Landa, Lê
Lưu Oanh và Nguyễn Đức Nga dịch và tóm lược. Đây là công trình
7
dịch thuật tổng quan về tự sự học, với các bài giới thiệu về tự sự học,
cấu trúc trần thuật trong tự sự học, các trường phái nghiên cứu tự sự
học ở phương Tây: cổ điển và hiện đại. [66].
Những bài viết trên đã góp phần giới thiệu tình hình nghiên cứu tự sự học ở
nước ngoài như Châu Âu, Mĩ... vừa bước đầu thấy được tình hình nghiên cứu tự
sự học ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu trên đã giúp chúng tôi có thêm cơ
sở, phương pháp nhất định để vận dung vào lí thuyết tự sự học vào nghiên cứu
văn xuôi về chiến tranh của Đình Kính. Tuy nhiên, theo tiến sĩ Trần Huyền Sâm
thì các công trình lí luận cơ bản về lí thuyết tự sự học vẫn chưa được dịch thuật
một cách hệ thống. Nhiều vấn đề về các thuật ngữ, khái niệm, cấu trúc truyện kể
như ngôi kể, điểm nhìn trần thuật, phối cảnh trần thuật, không gian, thời gian
vẫn còn phức tạp, gây nhiều tranh cãi ở Việt Nam. Đây là một khó khăn lớn
trong việc nghiên cứu tự sự học ở nước ta.
3.3. Về các công trình vận dụng tự sự học để nghiên cứu
- Trần thuật từ điểm nhìn bên trong ở tiểu thuyết Việt Nam đương đại của
Thái Phan Vàng Anh [64]. Tác giả vận dụng các lí thuyết về điểm nhìn, đặc
biệt là về điểm nhìn bên trong vào việc vận dụng nghiên cứu một số tiểu
thuyết Việt Nam đương đại.
- Người kể chuyện và mối quan hệ giữa người kể chuyện với tác giả của Cao
Kim Lan [65]. Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả được tác giả
làm sáng rõ qua việc vận dụng các lí thuyết này vào những tác phẩm cụ thể.
- Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao của Phạm Thị Lương
[41]. Tác giả làm rõ các phương diện trần thuật: người kể chuyện, điểm
nhìn trong sáng tác của nhà văn Nam Cao.
- Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh dưới góc nhìn tự sự học của Nguyễn Thị
Yên Hà [22]. Tác giả nghiên cứu tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh từ góc
độ tự sự học trên các phương diện: người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật.
8
- Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (trên tư liệu của
ba nhà văn nữ) của Hoàng Dĩ Đình [21]. Dựa trên các lí thuyết về tự sự
học, tác giả đi sâu vào đặc trưng ngôn ngữ trần thuật và người kể chuyện
trong sáng tác của ba nhà văn nữ: Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo và
Nguyễn Thị Thu Huệ.
Như vậy, hiện chưa có công trình nào ở nước ta đi sâu nghiên cứu toàn diện
văn xuôi về chiến tranh của Đình Kính từ góc độ tự sự học.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng những hướng tiếp cận, phương pháp
sau đây:
− Phương pháp nghiên cứu tự sự học: ngưởi viết tiến hành vận dụng lí
thuyết tự sự học với các phương diện nổi bật như: người kể chuyện, điểm nhìn
trần thuật, không gian – thời gian trần thuật; đồng thời lấy đó làm tiền đề cho
việc tìm hiểu đặc điểm, tính chất, hiệu quả nghệ thuật trong các tác phẩm văn
xuôi về chiến tranh của Đình Kính.
− Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Giải mã cấu trúc văn bản từ 3 góc độ:
Thi pháp học, cấu trúc học và tự sự học, nhất là góc nhìn tự sự học. Các phương
diện nổi bật trong các sáng tác văn xuôi về chiến tranh của Đình Kính từ góc độ
tự sự học được tìm hiểu trong tiến trình hệ thống – cấu trúc của tác phẩm theo
phạm vi của đề tài.
− Phương pháp so sánh: Tiến hành so sánh với tác phẩm của một số nhà
văn như Bảo Ninh, Nguyễn Minh Châu, Trung Trung Đỉnh, Văn Lê...ở những
vấn đề liên quan nhằm phát hiện, khẳng định những nét đặc sắc riêng biệt trong
tác phẩm của Đình Kính.
− Phương pháp liên ngành: bên cạnh việc dùng lí thuyết tự sự học là cơ
bản, chúng tôi vận dụng những kiến thức về phân tâm học, xã hội học, triết học
hiện sinh, lí thuyết của chủ nghĩa hiện đại... để phân tích, hệ thống nhằm phát
9
triển và hoàn thiện hơn đặc trưng nghệ thuật liên quan tự sự học trong văn xuôi
về chiến tranh của Đình Kính.
− Phương pháp loại hình: luận văn xem xét truyện và tiểu thuyết của Đình
Kính như một loại hình văn học.
5. Đóng góp của luận văn
5.1. Về mặt lí thuyết
Luận văn là công trình ứng dụng lí thuyết tự sự học trong việc tìm hiểu văn
xuôi về chiến tranh của Đình Kính. Vì vậy, luận văn sẽ ít nhiều đóng góp thêm
cho việc vận dụng tự sự học trong nghiên cứu nghệ thuật văn chương.
Luận văn góp phần tìm hểu sâu sắc hơn về văn xuôi về chiến tranh của
Đình Kính dưới góc độ tự sự học. Trên cơ sở đó, luận văn đã làm rõ những đặc
điểm về vai trò của người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, không gian – thời
gian trần thuật trong văn xuôi về chiến tranh của Đình Kính.
5.2. Về mặt thực tiễn
Dưới góc độ tự sự học, luận văn góp phần khẳng định phong cách sáng tác
của Đình Kính. Từ đó khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật của các tác phẩm
của Đình Kính.
Thông qua luận văn này, chúng tôi hi vọng có thể góp phần làm rõ những
giá trị nghệ thuật trong sáng tác văn xuôi về chiến tranh của Đình Kính.
Với luận văn này, chúng tôi mong muốn đặt lên những viên gạch góp phần
định hướng trong việc tiếp nhận, nghiên cứu đặc điểm văn xuôi về chiến tranh
của Đình Kính từ góc độ tự sự học.
Với những đóng góp đó, chúng tôi tin đây sẽ là một tài liệu tham khảo cho
những ai có nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu về tác giả Đình Kính.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, luận văn có 3 chương:
− Chương 1: Người kể chuyện trong văn xuôi về chiến tranh của
Đình Kính. Chương này có nội dung từ trang 11 đến trang 39 (bao gồm 28
10
trang), trình bày các lí thuyết của các nhà nghiên cứu về người kể chuyện và
nghiên cứu các dạng người kể chuyện trong văn xuôi về chiến tranh của Đình
Kính, đó là người kể chuyện đồng sự và người kể chuyện dị sự.
− Chương 2: Điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi về chiến tranh của
Đình Kính. Chương này có nội dung từ trang 40 đến trang 64 (bao gồm 24
trang), trình bày các lí thuyết, quan điểm về điểm nhìn trần thuật của các nhà
nghiên cứu, các dạng điểm nhỉn trần thuật trong văn xuôi về chiến tranh của
Đình Kinh, đó là điểm nhìn zero và điểm nhìn nội quan cố định.
− Chương 3: Không gian – thời gian trần thuật trong văn xuôi về chiến
tranh của Đình Kính. Chương này có nội dung từ trang 65 đến trang 99 (bao
gồm 34 trang), bao gồm 2 mục lớn là không gian trần thuật và thời gian trần
thuật trong văn xuôi về chiên tranh của Đình Kính. Ở mỗi mục người viết đều
trình bày các lí thuyết nền tảng về không gian và thời gian đồng thời tìm ra đặc
trưng cơ bản của không – thời gian trong các sáng tác văn xuôi của Đình Kính.
11
Chương 1. NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG VĂN XUÔI
VỀ CHIẾN TRANH CỦA ĐÌNH KÍNH
1.1. Người kể chuyện
Người kể chuyện – narrator – là một trong phạm trù cơ bản của tự sự học.
Người kể chuyện là thuật ngữ quan trọng khi giải mã tác phẩm văn học. Một
truyện kể không thể tồn tại nếu thiếu người kể chuyện, mặc dù vai trò và các
hình thức của người kể chuyện trong truyện kể vô cùng phong phú, linh hoạt.
Trong bất kì tác phẩm truyện kể nào, người kể chuyện đồng thời vừa là người
giữ vai trò giới thiệu, dẫn dắt câu chuyện, vừa là người điều khiển nhận định về
câu chuyện, chi phối ngôn ngữ của nhân vật. Điều đó có nghĩa rằng đề cập đến
vai trò của người kể chuyện cũng là đề cập đến nhiều yếu tố liên quan đến tiến
trình vận động trong cấu trúc nội tại của tác phẩm nghệ thuật. Cho nên, vai trò
của người kể chuyện không chỉ là một yếu tố trong truyện mà còn là công cụ,
một phương tiện để nhận thức thế giới nghệ thuật.
Theo 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn, “Trần thuật tự
sự được dẫn dắt bởi một ngôi được gọi là người trần thuật – một loại trung giới
giữa cái được miêu tả và thính giả, loại người chứng kiến và giải thích về những
gì đã xảy ra. Ngôi này thường được gọi là ngôi “thứ ba” và thông thường là
“vô hình”, “phi nhân cách hóa”. Đồng thời, người trần thuật có thể bị “cô
đặc” lại thành một vai cụ thể để trở thành người kể chuyện hoặc nhân vật kể
chuyện. Lời trần thuật không chỉ mô tả đối tượng phát ngôn mà còn mô tả ngay
cả kẻ mang lời nói; hình thái tự sự đánh dấu lối nói và lối nói tri giác thế giới,
đánh dấu nét độc đáo của ý thức người trần thuật” [5, tr.360].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “người kể chuyện là hình tượng ước lệ về
người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu
chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tượng
của chính tác giả, có thể là nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra hoặc có thể
12
là một người biết một câu chuyện nào đó”. Và “không phải bao giờ cũng có
thể đồng nhất người trần thuật với bản thân tác giả”. “Một tác phẩm có
thể có một hoặc nhiều người kể chuyện” [23, tr.191].
W.Kayser đã khẳng định: “Người kể chuyện – đó là một hình hài đã được
sáng tạo ra, thuộc về toàn bộ chỉnh thể tác phẩm văn học, “ở nghệ thuật kể,
không bao giờ người trần thuật là vị tác giả đã hay chưa nổi danh, nhưng là cái
vai mà tác giả bịa ra và chấp nhận” [31, tr.245]. R.Barthes đưa ra quan điểm:
“người trần thuật và các nhân vật về thực chất là những “sinh thể trên giấy”,
không ai có thể nhầm lẫn tác giả của câu chuyện với người trần thuật lại câu
chuyện ấy” [31, tr.245]. Quan điểm này cho thấy người kể chuyện không mang
tính chất hình thức, dừng lại ở phần thông tin mà tác giả sáng tạo ra chứ chưa
thực sự mang ý nghĩa mà tác giả chuyển tải. Người kể chuyện theo quan điểm
này đối lập với khái niệm “tác giả thực”, “tác giả cụ thể”.
Các nhà trần thuật học viết tiếng Anh phân biệt “trần thuật cá nhân” – ngôi
thứ nhất của người kể chuyện vô danh hay của một nhân vật nào đó và “trần
thuật phi cá nhân” – trần thuật nặc danh từ ngôi thứ ba. Còn các nhà nghiên cứu
viết tiếng Pháp thì phủ nhận điều ấy, họ cho rằng về nguyên tắc không thể có
“trần thuật cá nhân”. Vì họ cho rằng, phải có người “nắm lấy” ngôn từ và dẫn
dắt câu chuyện hoặc khi nhân vật lên tiếng thì vai trò của người trần thuật lúc
này là sự ủy thác cho nhân vật quyền dẫn dắt câu chuyện. Bà M.L.Ryan cho
rằng: “sự có mặt của người trần thuật là điều nhất thiết phải có trong bất kì văn
bản nào, mặc dù ở một số trường hợp nó có thể có một mức độ tính cá nhân, còn
ở một số trường hợp khác, tính cá nhân hoàn toàn bị loại trừ” [31, tr.247].
Phùng Văn Tửu trong công trình tiểu thuyết trên con đường đổi mới nghệ
thuật còn đặt ra vấn đề tách riêng “người kể chuyện” và “người viết chuyện”
như một thủ pháp nghệ thuật nhằm làm tăng thêm bình diện cho tác phẩm khiến
cho câu chuyện vừa sinh động hơn, vừa thật hơn. Tác giả công trình đã nhận xét
rằng: “vậy là ngoài “người viết chuyện” là nhà văn, còn có “người kể chuyện”
13
chẳng biết có phải là nhà văn hay không và “người kể chuyện” trung gian
phiếm chỉ “người ta”, vì câu chuyện chắc đã truyền qua miệng nhiều người
trước khi nhân vật “người kể chuyện” chưa hẳn đồng nhất với tác giả - kể lại
với bạn đọc” [62, tr.39].
Tz. Todorov đánh giá cao vai trò của người kể chuyện. Ông cho rằng:
“Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng...
Không thề có trần thuật nếu thiếu người kể chuyện. Người kể chuyện không nói
như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện. Như vậy, kết hợp đồng thời
trong mình cả nhân vật và người kể, nhân vật mà nhân danh nó cuốn sách được
kể có một vị thế hoàn toàn đặc biệt...” [53, tr.75-77]. “Người kể chuyện không
thể được gọi tên, nếu anh ta có tên, thì sau cái tên đó không có ai cả”
[53, tr.117]. Thống nhất với quan điểm đó, R.Barthes cho rằng: “Người kể
chuyện và những nhân vật của anh ta bản chất là thực thể trên mặt giấy”;
tác giả (thực tế) của văn bản không có điểm gì chung với người kể chuyện”
[53, tr.117].
Nhìn chung, quan điểm này gần như cô lập hoặc tuyệt đối về vai trò của
người kể chuyện khi không thiết lập nên mối quan hệ giữa người kể chuyện và
tác giả. Bởi đằng sau người kể chuyện là ý thức của nhân vật, của người kể
chuyện và của cả tác giả. Người kể chuyện xuất hiện trong tác phẩm là một
trong những hình thức thể hiện quan điểm của tác giả người kể chuyện mang
tính cách cũng như một hình tượng do tác giả sáng tạo ra. Cho nên, thái độ, tư
tưởng của người kể chuyện cũng có thể là thái độ, quan điểm của tác giả nhưng
không bao giờ trùng khớp hoàn toàn.
G. Genette là người chủ trương trong nghiên cứu cấu trúc nội tại của tác
phẩm tự sự. Cho nên, vấn đề người kể chuyện được ông đặt trong sự tương quan
với các yếu tố khác như tiêu cự, tiêu điểm, thức, giọng, tần suất. Ông rằng, để lí
giải cách thức một câu chuyện được kể như thế nào phải phân biệt giữa giọng và
thức. Các công trình của ông được nhiều sự ủng hộ và vận dụng của các nhà
14
nghiên cứu.
Xuất phát từ giọng, Genette đưa ra bốn kiểu người kể chuyện tương ứng
với kiểu người kể chuyện. Đó là: người kể chuyện bên trong (intradiegetic
narrator), người kể chuyện bên ngoài (extradiegetic narrator), người kể chuyện
dị sự (hetrotradiegetic narrator) và người kể chuyện đồng sự (homodiegetic
narrator). Sự phân biệt này được xác định cụ thể trong mối liên hệ giữa người kể
chuyện với nhân vật bằng cách xác lập tiêu điểm và tiêu cự. Theo G. Genette,
khái niệm tiêu điểm đặt ra vấn đề câu chuyện đó do ai kể và đứng ở vị trí nào kể.
Từ đây, ông đưa ra ba kiểu người kể chuyện để xác định vai trò của người kể
chuyện. Kiểu kể chuyện có tiêu điểm bằng không – zero focalization – chỉ người
kể chuyện đứng bên ngoài nhưng là người biết tuốt, toàn tri, có vai trò như
thượng đế biết hết mọi việc trong nhân sinh, quá khứ, hiện tại và tương lai. Kiểu
kể chuyện có tiêu điểm bên trong còn gọi là nội tiêu điểm (internal focalization)
người kể chuyện đồng thời cũng là nhân vật trong truyện. Kiểu kể chuyện này
chia làm ba dạng cụ thể đó là dạng cố định, khi người kể chuyện là một nhân vật
trong truyện kể lại mọi việc; dạng bất định, khi nhiều nhân vật kể những chuyện
khác nhau; dạng đa thức, khi nhiều nhân vật cùng kể về một sự việc. Kiểu
truyện có tiêu điểm bên ngoài (external focalization) là người kể chuyện nằm
ngoài câu chuyện kể lại tình tiết truyện một cách khách quan, không đi sâu vào
tâm lí nhân vật.
Trong khi đó, R. Scholes và R. Kellogg lại chú ý đến mối quan hệ giữa
người kể chuyện và thế giới được kể, với các nhân vật, sự kiện. R. Scholes và R.
Kellogg đã xác lập vai trò của người kể chuyện truyền thống, sử quan, chứng
nhân và người kể chuyện toàn tri. Tùy thuộc vào từng loại truyện kể mà vai trò
và quyền năng của người kể chuyện được xác định. Lúc dó, người kể chyện xác
định chỗ đứng của mình và chi phối các sự kiện, tình huống truyện.
W. Booth trong Tu từ học tiểu thuyết đã đề cập đến những vấn đề liên quan
đến tác giả, người kể chuyện, sự lựa chọn kiểu người kể chuyện. Từ đó, ông chia
- Xem thêm -