Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Văn học đông âu

.DOC
39
373
147

Mô tả:

VĂN HỌC ĐÔNG ÂU Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VĂN HỌC ĐÔNG ÂU 1.1. Vị trí, diện mạo, đặc điểm của văn học Đông Âu Đông Âu hoặc Khối Đông Âu là một khái niệm chính trị xã hội chủ yếu bị ảnh hưởng bởi Chiến tranh lạnh – là yếu tố chính tạo ra biên giới của nó. Biên giới của nó được củng cố hữu hiệu trong các giai đoạn cuối của Thế chiến II (sau Hội nghị Yalta) và bao trùm tất cả các quốc gia nằm dưới quyền ảnh hưởng và kiểm soát của Liên Xô, liên kết bởi các liên minh – liên minh quân sự (Khối Warszawa) và liên minh kinh tế (khối SEV hay còn gọi là Hội đồng Tương trợ Kinh tế). Vì các quốc gia này theo chế độ cộng sản và nằm ở phía đông của châu Âu, với ranh giới là dãy Ural và Caucasus nên chúng được được sắp xếp một cách tự nhiên thành các quốc gia Đông Âu. Tuy nhiên định nghĩa này đã dần lỗi thời sau những biến động to lớn ở Đông Âu và Liên Xô trong những năm 1988 - 1991, khi mà Đông Đức đã nhập vào trong Tây Đức qua cuộc thống nhất nước Đức, và trở thành một phần của Tây Âu và Khối Đông Âu đã bị tan vỡ và cùng theo với sự tan vỡ này, các liên minh trên tuyên bố tự giải thể. Theo cách sử dụng và nhận thức thông thường, Đông Âu trước đây (và bây giờ theo quy mô hẹp hơn) khác với Tây Âu vì những dị biệt về văn hoá, chính trị, và kinh tế và biên giới của nó có chút liên quan tới yếu tố địa lý. Dãy núi Ural là biên giới địa lý rõ ràng của Đông Âu, vậy Đông Âu là phía đông dãy Ural. Tuy nhiên đối với Tây phương, biên giới tôn giáo và văn hóa giữa Đông và Tây Âu có sự nằm chồng lên nhau đáng kể và quan trọng nhất là sự thay đổi bất thường trong lịch sử khiến việc hiểu về nó một cách chính xác gặp phải đôi chút khó khăn. Đông Âu gồm có: - lãnh thổ châu Âu của Nga; - các quốc gia Baltic (Estonia, Latvia, Litva); - phần lớn các nước Balkan, trừ Hy Lạp được xem là một phần của Tây Âu, và lãnh thổ châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ thường thì không tính vào (Slovenia, Croatia, Bosna và Hercegovina, Serbia, Montenegro, Macedonia, Albania, Bungary); - các quốc gia khác: Ba Lan, Cô ng hòa Sec, Slovakia, Hungary, Belarus, ô Ukraina, Romania, Mondova. Đối với Liên hiệp quốc, Đông Âu cũng là một tiểu vùng địa lý của châu Âu nhưng ít biết đến hơn và hạn chế hơn, chỉ bao gồm các quốc gia sau đây: phần châu Âu của Nga, Bungary, Ba Lan, Cô ng hòa Sec, Slovakia, Hungary, Belarus, ô Ukraina, Romania, Moldova. Những quá trình diễn ra trong văn học Đông Âu mang đă ôc trưng riêng đối với từng quốc gia trong khu vực, đồng thời cũng có những điểm chung, những nét tương đồng. Trong các thời kì lịch sử khác nhau, đă ôc điểm chung đó thể hiê ôn ở những mức đô ô khác nhau, có các dạng thức khác nhau. Những nét thống nhất và tương đồng đó được quy định bởi các đă ôc điểm lịch sử, dân tô ôc, tôn giáo. Trước hết cần nhắc đến sự gần gũi về lãnh thổ và các mối quan hê ô thường xuyên, chă ôt chẽ giữa các quốc gia trong khu vực. Những nét tương đồng về dân cư và ngôn ngữ giữa các quốc gia không thể không ảnh hưởng đến những mối bang giao về văn hóa và văn học. Bên cạnh đó, yếu tố tôn giáo cũng góp phần đẩy mạnh quan hê ô giữa các quốc gia trong cùng mô ôt khu vực, gây trở ngại đối với các quốc gia thuô ôc những giáo hô ôi khác nhau. Trong suốt chiều dài lịch sử, cuô ôc đấu tranh của các dân tô ôc trong khu vực Đông Âu giành đô c lâ ôp cho quốc gia, chống lại ách thống trị của quân xâm lược ô nước ngoài luôn được phản ánh trong sự phát triển của văn học. Nền văn học của phần lớn các nước Đông Âu có nhiều điểm tương đồng, từ xa xưa đã gắn bó mâ ôt thiết với nhau, đồng thời các nền văn học này là bô ô phâ ôn không thể tách rời của bức tranh toàn cảnh văn học chung châu Âu. Phần lớn các nền văn học trong khu vực, trước hết là văn học Đông và Tây Slav, có mối quan hê ô lâu đời bền vững với văn học Nga. Mối quan hê ô giữa văn học Đông Âu với văn học Pháp, Italia, Anh, trong thế kỷ XX – với văn học Mỹ, và trong những thâ ôp niên gần đây – văn học Mỹ Latinh, khá tích cực. Số phâ n của các khuynh hướng lớn (chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự ô nhiên…) trong văn học Đông Âu khác với số phâ ôn của các khuynh hướng này trong các nền văn học dẫn đầu của châu Âu về niên đại cũng như đă ôc điểm. Trong văn học các nước Đông Âu, những thành tựu đáng kể nhất trong quá khứ gắn liền với chủ nghĩa lãng mạn. Các tên tuổi nổi bâ ôt nhất của khuynh hướng này là Mitskevich và Slovatsky (Ba Lan), Petefi (Hungary), Eminesku (Romania), Botev (Bungary), Presern (Slovenia)… Đáng chú ý nhất trong văn học lãng mạn Đông Âu là cảm hứng giải phóng dân tô ôc. Viê ôc khẳng định sự tự do của mô ôt cá nhân riêng biê ôt đôi khi có thể được coi là sự phản bô ôi lý tưởng yêu nước. Cảm hứng giải phóng dân tô ôc còn tiếp tục phát triển trong văn học hiê ôn thực, nhưng yếu tố phê phán xã hô ôi bị mờ hóa. Sự phát triển của hê ô thống thể loại trong văn học Đông Âu mang đă c trưng ô riêng. Trong hầu hết các nền văn học khu vực Đông Âu, trong mô ôt thời gian dài thơ ca là thể loại chiếm ưu thế trên văn đàn. Tiểu thuyết được hình thành muô ôn hơn ở Tây Âu, tiểu thuyết lịch sử với nô i dung yêu nước chiếm vị trí đă c biê t ô ô ô (sáng tác của Sienkiewicz, Irasek, Senoa…). Bên cạnh đề tài lịch sử, đề tài nông thôn được khai thác rất tích cực. 1.2. Sơ lược về lịch sử phát triển văn học Đông Âu Trong phần này, chúng tôi trình bày khái quát về tiến trình văn học Đông Âu trước thế kỷ XVIII. Các giai đoạn văn học thế kỷ XIX – XX được trình bày chi tiết ở những chương tiếp theo.  Văn học dân gian Trước khi có chữ viết, những cư dân Slav đã sáng tác nên các tác phẩm văn học dân gian truyền miê ông phản ánh các mối quan hê ô xã hô ôi, đời sống sinh hoạt và quan niê ôm của chế đô ô thị tô ôc bô ô lạc. Mô ôt bô ô phâ n quan trọng của sáng tác dân gian là những bài ca lao đô ng. ô ô Đây là thể loại ca khúc thường đi kèm với các nghi lễ gắn liền với công viê ôc đồng áng và thời điểm giao mùa, cũng như các sự kiê ôn quan trọng của đời người (sinh, kết hôn, tử). Phần cốt lõi của khúc ca nghi lễ thường là những lời cầu khấn mă ôt trời, đất đai, gió, sông, cây cối với ước mong mùa màng bô ôi thu, gia súc đầy đàn, viê ôc săn bắn thuâ ôn lợi. Sáng tác dân gian của cư dân Slav rất phong phú về thể loại: truyê ôn cổ tích, tục ngữ, câu đố, truyền thuyết về nguồn gốc các vị thần… Thơ ca truyền miê ông cổ nhất của người Slav có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển về sau của văn hóa nghê ô thuâ ôt. Cùng với sự hình thành nhà nước, viê ôc tiếp nhâ ôn Kitô giáo và sự xuất hiê ôn của chữ viết, trong văn học dân gian xuất hiê ôn những nhân tố mới. Trong các ca khúc, truyê n cổ tích, đă c biê ôt là huyền thoại có sự đan xen giữa thần thoại tôn ô ô giáo cũ và những quan niê n Kitô giáo. Bên cạnh các nhân vâ ôt phù thủy hay thần ô tiên có sự xuất hiê ôn của Chúa, Đức mẹ, các thiên thần, các bâ ôc thánh nhân; các sự kiê ôn không chỉ diễn ra trên mă ôt đất mà còn diễn ra trên thiên đường hay dưới địa ngục. Trong văn học Bungary, Serbia rất phổ biến các cốt truyê n huyền thoại và ô cổ tích từ văn học Byzantine, Tây Âu và Câ n đông. ô Mô ôt hiê ôn tượng mới rất quan trọng trong sáng tác dân gian Bungary, Serbia thế kỷ XII-XIV là sự xuất hiê ôn và phát triển của các ca khúc sử thi. Quá trình này diễn ra qua hai giai đoạn: đầu tiên, xuất hiê ôn các ca khúc với nô ôi dung sinh hoạt phản ánh đă ôc trưng của các mối quan hê ô xã hô ôi và đời sống sinh hoạt của xã hô ôi đầu phong kiến, bên cạnh đó là sự xuất hiê ôn của các khúc ca anh hùng. Sau đó, cùng với viê ôc thành lâ p và củng cố nhà nước, bắt đầu cuô ôc chiến chống Byzantine ô và Thổ Nhĩ Kì, các khúc ca anh hùng với nô i dung thần thoại hay truyền thuyết đã ô xuất hiê ôn và dần dần chiếm vị trí dẫn đầu trong sử thi. Khác với văn học dân gian Đông và Nam Slav, các cư dân Tây Slav (Séc, Slovakia, Ba Lan) không có thể loại sử thi anh hùng với dạng thức phát triển như vâ ôy. Trong văn học dân gian Séc và Ba Lan, các ca khúc lịch sử rất phổ biến. Tiền thân của các ca khúc này chính là những khúc ca anh hùng. Như vâ ôy, có thể phỏng đoán rằng các khúc ca anh hùng đã từng xuất hiê ôn trong văn học dân gian Tây Slav.  Văn học Đông Âu thế kỷ XVII Trong thế kỷ XVII, sự phát triển văn học ở các nước sống dưới ách nô dịch Thổ Nhĩ Kì diễn ra châ ôm và tâ p trung duy trì những truyền thống tôn giáo trung ô cổ. Các thể loại tiêu biểu trong văn học các nước này là sử biên niên; các tuyển tâ ôp giáo huấn tôn giáo (dịch và nguyên bản), truyê n về cuô ôc đời các thánh, trong đó ô có cả truyê ôn về cuô ôc đời các vị lãnh đạo nhà nước hay những anh hùng đánh đuổi quân Thổ Nhĩ Kì; sử liê ôu học. Ở các nước chịu sự nô dịch của đế chế Osman, truyền thống văn học giáo huấn tôn giáo mă ôc dù lạc hâ ôu nhưng có ý nghĩa rất lớn trong viê ôc đoàn kết các dân tô ôc bị áp bức, gìn giữ ngôn ngữ và văn hóa của họ, củng cố lực lượng đấu tranh giải phóng dân tô ôc. Ở các quốc gia duy trì được nền đô c lâ p của mình hoă ôc phụ thuô ôc mô ôt cách ô ô tự do vào chính quyền đế chế, sự phát triển văn học diễn ra trong những điều kiê ôn thuâ ôn lợi hơn. Trong văn học Ba Lan, dòng văn học Baroque đỉnh cao giữ vị trí dẫn đầu. Dòng văn học này bao quát cả thơ trữ tình, thơ ca quý tô ôc, xâm nhâ ôp vào môi trường giai cấp mà trước đây nghê ô thuâ ôt Phục hưng từng thống trị. Những đại diê ôn lớn nhất của dòng văn học Baroque Ba Lan không chỉ là các tín đồ Thiên chúa (Yan Morstun) mà còn có các tín đồ Tin lành như D. Naborovsky, Z. Morstun. Mô ôt trong những thể loại dẫn đầu trong văn học Đông Âu thế kỷ XVII là sử thi văn học và sử thi dân gian. Thể loại sử thi anh hùng phổ biến ở các thời kì trước nay được cải biến thành các trường ca yêu nước với đề tài lịch sử và giải phóng dân tô ôc. Trong thơ ca sử thi mang phong cách Baroque, đề tài cuô ôc đấu tranh với “cái sai lầm” chiếm mô ôt vị trí quan trọng, bởi nó đáp ứng những đòi hỏi của cuô ôc đấu tranh giải phóng dân tô ôc.  Văn học Đông Âu thế kỷ XVIII Trong thế kỷ XVIII, nhiều nền văn học thuô ôc khu vực Đông Âu đã “phục hưng” trở lại sau mô ôt quãng thời gian dài sa sút do nạn ngoại xâm. Bối cảnh lịch sử- xã hô ôi đă ôc biê ôt đã chi phối hê ô thống thể loại của các nền văn học trong khu vực. Thơ trữ tình yêu nước chiếm mô ôt vị trí rõ nét. Trong nhiều nền văn học, thời kì Phục hưng đã đánh dấu sự ra đời của kịch dân gian. Chiếm vị trí dẫn đầu không phải là bi kịch mà là hài kịch xã hô ôi và sinh hoạt xã hô ôi (thể loại này đă ôc biê ôt phát triển trong văn học Ba Lan). Chương 2: Văn học Đông Âu thế kỷ XIX 2.1. Bối cảnh lịch sử Đông Âu thế kỷ XIX Thế kỷ XIX ở châu Âu bắt đầu với những cuô ôc chiến tranh của Napoleon. Mục đích chủ yếu của các cuộc chiến tranh này là giành lấy thị trường mới, giành lấy bá quyền của Pháp trong công thương nghiệp, chính trị và quân sự ở châu Âu. Trong những cuộc xâm lược của mình, Napoleon đã dùng nhiều biện pháp đối với các nước bị chiếm như: sát nhập thẳng vào Pháp, hoặc chia thành từng quận thuộc Pháp. Napoleon thiết lập chế độ tư sản ở những nước bị chiếm. Từ 1809-1812 đế quốc Napoleon trải qua một thời kỳ hòa bình và cũng là thời gian mà nó được mở rộng hơn hết. Tuy nhiên, những khó khăn bên trong và bên ngoài đã đưa đế chế đến chỗ sụp đổ nhanh chóng. Thêm vào đó, do ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của nhân dân Tây Ban Nha, một phong trào chống đối Napoleon ở những nước bị xâm lược nổ ra. Sau cùng, với sự thất bại của chiến dịch Nga 1815, đế chế I nhanh chóng bị sụp đổ. Napoleon buộc phải thoái vị và bị đày sang đảo Elbe. Sau khi Napoleon thất bại, các thế lực phản động tạm thời thắng thế ở Pháp và châu Âu. Sự thắng lợi tạm thời của các thế lực này có thể gây khó khăn, nhưng không ngăn chặn được sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã làm nảy sinh những nguyện vọng dân chủ, dân tộc. Do sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, thế lực kinh tế của giai cấp tư sản tăng lên, họ tìm cách lôi kéo nhân dân vào những cuộc đấu tranh chống phong kiến để giành lấy quyền chính trị. Vì vậy trong nửa đầu thế kỷ XIX, phong trào cách mạng tư sản nổ ra ở các nước Châu Âu. Phần lớn các nước Đông Âu và Balkan cũng đấu tranh giành đô c lâ ôp cho ô quốc gia: năm 1878 giải phóng Bulgari và thành lâ p nước Romania đô c lâ p, năm ô ô ô 1867 thành lâ ôp liên minh Áo-Hung, khởi nghĩa Ba Lan năm 1863. Sau khi các nước Đông Âu giành được đô c lâ p dân tô c và chính trị, vấn đề đấu tranh giải ô ô ô phóng dân tô c vẫn còn tiếp tục được quan tâm. Chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh ô mẽ, tuy nhiên ở phần lớn các nước Đông Âu, quá trình này bị kìm hãm bởi các tàn tích của chủ nghĩa phong kiến và vấn đề nông dân vẫn còn cấp thiết. 2.2. Khái quát văn học Đông Âu thế kỷ XIX 2.2.1. Văn học Đông Âu nửa đầu thế kỷ XIX Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX đối với nhiều nền văn học của các nước Đông Âu là giai đoạn tự khẳng định, nhâ n thức khả năng của mình, tìm kiếm con đường ô phát triển riêng biê ôt. Khởi đầu của quá trình này thường đi liền với viê ôc chú trọng hơn đến folklore, tăng cường hoạt đô ng sưu tầm. Quá trình này diễn ra trong văn ô học Nga, Ucraina, Belarus, Moldavia, Litva, Latvia và Estonia. Folklore học xuất hiê ôn như mô ôt môn khoa học, các bô ô lịch sử được biên soạn (ví dụ như công trình của Simonas Daukantas là bô ô tài liê ôu lịch sử Litva đầu tiên được biên soạn bằng tiếng Litva). Mô ôt đă ôc trưng khác của sự phát triển văn học đầu thế kỷ XIX là sự chuyển đổi thường xuyên từ chủ nghĩa lý luâ n sang thi ca trữ tình. Các khuynh hướng lý ô luâ ôn gắn liền với những motiv tôn giáo đã phần nào tạo nên đă c điểm của văn học ô Moldavia và Do Thái, cũng như phong cách của nền văn học của các dân tô ôc Bắc Kavkaz và Dagestan. Tất cả các nền văn học của khu vực Đông Âu đều phát triển dưới ảnh hưởng của các tư tưởng Khai sáng, thể hiê ôn ở các dạng thức khác nhau và mức đô ô tích cực khác nhau. Đối với các nước phải trải qua cuô ôc khủng hoảng của chủ nghĩa phong kiến và sự gia tăng không ngừng của các nhân tố tư bản chủ nghĩa (Nga, Ucraina, các nước Baltic, mô ôt bô ô phâ n thuô ôc Belarus và Moldavia), hê ô tư tưởng ô Khai sáng mang đâ m màu sắc chống chế đô ô nông nô, có sự đan xen của các tư ô tưởng công bằng xã hô ôi và chính trị, đôi khi có thiên hướng đến chủ nghĩa Russo và các nguyên tắc của cách mạng tư sản Pháp vĩ đại. Đối với các dân tô ôc Bắc Kavkaz và Dagestan, để phù hợp với những đă c trưng của tiến trình lịch sử, ô chương trình Khai sáng mang tính rô ng rãi và có chừng mực hơn với các nhiê ôm ô vụ như đào tạo đô i ngũ tri thức, xây dựng hê ô thống giáo dục phi tôn giáo, vượt qua ô sự cuồng tín tôn giáo và tính nóng vô ôi, tiếp nhu những thành tựu của văn minh châu Âu, đề ra những quan niê ôm đạo đức mới. Trong sự phát triển của các khuynh hướng và phương pháp nghê ô thuâ ôt của các nước thuô ôc khu vực Đông Âu có sự tiếp nối như trong tiến trình văn học Tây Âu, tuy nhiên nhiều giai đoạn hoàn toàn chưa thể hiê ôn rõ nét hoă ôc bô ôc lô ô mô ôt cách mờ nhạt. Sự phát triển theo trình tự và đầy đủ nhất của văn học qua các thời kì chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa tình cảm, chủ nghĩa lãng mạn đến chủ nghĩa hiê ôn thực có thể thấy rõ trong văn học Nga. Trong văn học Ucraina, chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa tình cảm tuy có tồn tại, nhưng không có các thể loại phát triển rực rỡ. Thay vào đó, chủ nghĩa lãng mạn phát triển rực rỡ, tạo cơ sở cho sự phát triển mạnh mẽ chung của văn hóa dân tô ôc, góp phần hình thành ngành phê bình văn học Ucraina và hàng loạt ngành khoa học nhân văn. Trong văn học Ucraina có sự chuyển giao từ chủ nghĩa lãng mạn sang chủ nghĩa hiê ôn thực, cũng như có sự xuất hiê ôn của các tác phẩm trào phúng cách mạng dân chủ. Quá trình này thể hiê ôn rõ nhất trong sáng tác của T. G. Sevchenko. Những truyền thống của chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa tình cảm cũng có thể nhâ n thấy trong văn học Belarus, đôi khi thể hiê ôn trong mối quan hê ô chă ôt chẽ ô với nhau, gắn liền không tách rời. Ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn thể hiê ôn trong thơ ca – trong thể loại balat và trường ca. Ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn cũng thể hiê ôn rõ trong văn học của các nước Baltic (ví dụ như trong sáng tác của nhà thơ Litva Simonas Stanyavichus) và văn học Moldavia (sáng tác của Konstantin Stamati). Văn học Bắc Kavkaz và Dagestan không trải qua các thời kì chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa tình cảm kiểu châu Âu, nhưng có thể nhâ ôn thấy những hiê ôn tượng văn học thú vị ở mô ôt mức đô ô nào đó tương đương với chủ nghĩa lãng mạn. Trong khu vực Đông Âu nửa đầu thế kỷ XIX có thể nhâ ôn thấy những hiê ôn tượng văn học đă ôc trưng cho các quốc gia có sự tương đồng về mă ôt lãnh thổ, ngôn ngữ và dân tô c. ô Trong văn học Đông Âu nửa đầu thế kỷ XIX, nhiều tác phẩm được viết bằng ngôn ngữ của quốc gia có nền văn học phát triển hơn, và tác giả đồng thời thuô ôc hai nền văn hóa. Ví dụ như các tác giả G. F. Kvitka-Osnovyanenko, E. P. Grebenko sáng tác bằng cả tiếng Nga và tiếng Ucraina; Yan Barshevsky sáng tác bằng tiếng Ba Lan và Belarus; Antanas Klementas, Silivestras Valyunas sáng tác bằng tiếng Litva và Ba Lan. Nhà văn Moldavia Alexander Khuzhdeu viết các tác phẩm của mình bằng tiếng Nga, nhà văn Osetia I. G. Yalguzidze sáng tác bằng tiếng Gruzia. Do mô ôt số đă c trưng riêng biê ôt và trình đô ô phát triển của văn học Nga, nền ô văn học này đã có ảnh hưởng rõ nét đến các nền văn học khác trong khu vực – đă ôc biê ôt là văn học Ucraina, Belarus, ít rõ nét hơn là ảnh hưởng đến văn học Moldavia, các nước Baltic, Bắc Kavkaz và Dagestan, văn học Do Thái. Sự ảnh hưởng này được củng cố bởi các mối liên hê ô giữa các nền văn học, do các nhà văn Nga đã từng lưu trú tại nước khác (ví dụ như Puskin đã từng đến Moldavia), các nhà văn nước ngoài đã từng lưu trú tại các trung tâm văn hóa của Nga (Sevchenko đã từng đến Petersburg), các nhà văn nước ngoài có tác phẩm được đăng tải trên các ấn phẩm định kỳ của Nga (tác phẩm của nhà văn Moldavia A. Khuzhdeu được đăng trên tạp chí Moscow “Kính thiên văn”, tác phẩm của Khan-Girei được đăng trên tạp chí Petersburg “Người đương thời”)... Ngoài ra, các nền văn học khác cũng ảnh hưởng lẫn nhau. Văn học Litva chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn học Ba Lan, văn học Latvia và Estonia hướng đến học hỏi các khuôn mẫu bằng tiếng Đức. Các quốc gia Bắc Kavkaz và Dagestan duy trì những mối quan hê ô mâ ôt thiết vớivăn hóa Câ n Đông và châu Á. ô 2.2.2. Văn học Đông Âu nửa sau thế kỷ XIX Ở giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX, nét đă c trưng của phần lớn các nền văn học ô khu vực Đông Âu là sự đan xen của nhiều khuynh hướng văn học, tiếp tục những truyền thống của chủ nghĩa cổ điển, đến cuối thời kì này có sự xuất hiê ôn của các khuynh hướng hiê ôn thực phê phán. Có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thành chủ nghĩa hiê ôn thực ở phần lớn các nước khu vực Đông Âu là văn học và phê bình cách mạng dân chủ Nga. Trong số các nhà văn hiê n thực Nga, có uy tín nhất ở giai đoạn này là Gogol và ô Turgenev, các sáng tác của Tolstoy và Dostoevsky được phổ biến và có ảnh hưởng ở phần lớn các nước Đông Âu muô ôn hơn. Trong sáng tác của nhiều nghê ô sĩ, khuynh hướng chính trị của vấn đề giải phóng nhường bước cho những trăn trở mang tính triết học về số phâ n con người ô và những bước tiến lớn của lịch sử. Trong văn học Rumani, các nhà thơ lãng mạn đã phản ứng ít tích cực hơn trước những sự kiê ôn lịch sử cụ thể trong đời sống của nhân dân, thâ ôm chí là những sự kiê ôn gắn liền với cuô ôc đấu tranh giải phóng dân tô ôc vốn là chủ đề chính trong thi ca. Trên con đường nhâ n thức số mê ônh lịch sử của nhân loại, các nhà thơ lãng ô mạn đã thể hiê ôn chiều sâu và tầm nhìn xa rô ông, phản ánh những xung đô t mới, ô cấp thiết trong thế kỷ XIX. Thi ca tiếp tục duy trì và phát triển ở mức đô ô nhất định khuynh hướng đă ôc trưng của văn học lãng mạn nửa đầu thế kỷ – khuynh hướng xây dựng những hình tượng mang tính khái quát và tính tượng trưng. Chủ đề nghê ô thuâ ôt và thi nhân chiếm vị trí quan trọng trong thi ca thời kì này. Các nhà thơ thời kì này rất tích cực tìm kiếm những hình thức thi ca mới (hê ô thống ẩn dụ phong phú hơn, sử dụng nhiều hơn các từ nhiều nghĩa và các phương tiê ôn biểu cảm). Viê ôc thay đổi phương thức tiếp câ ôn tư tưởng dân tô ôc đã dẫn đến nỗ lực tri nhâ ôn vâ ôn mê ônh dân tô ôc như mô ôt mắt xích của chuỗi lịch sử thế giới. Phương diê ôn này đã trở thành đă c điểm quan trọng của thi ca nửa sau thế kỷ XIX ở nhiều ô nước Đông Âu (Ba Lan, Séc, Hungari, Rumani). Hình tượng công dân bị kẻ thù ngoại bang đàn áp và tham gia cuô ôc chiến chống lại kẻ thù đã nhường chỗ cho hình tượng cá nhân sống trong những điều kiê ôn xã hô ôi nhất định, chịu áp lực của những điều kiê ôn đó, đồng thời trăn trở về các giá trị tinh thần và đạo đức, về số phâ ôn của mình trước sự sống và cái chết. Vấn đề giải phóng dân tô c được mang diê n mạo mới và dẫn đến cái nhìn ô ô sâu sắc hơn về cuô c sống của nhân dân, nhâ n thức sáng suốt hơn về quá khứ và ô ô tương lai của nhân dân, về vị trí của họ trong thế giới. Trong thi ca, yếu tố lãng mạn kết hợp với các nhân tố hiê ôn thực tạo nên mô ôt thể loại thi ca đă ôc biê ôt có triển vọng trong tương lai. Tiêu biểu là sáng tác của các nhà thơ Kh. Botev, I. Bazov, Ya. Nerudu, S. Chekh, P. Orsag-Gvezdoslav, Ya. Arani. Nhìn chung, thi ca nửa sau thế kỷ XIX đã dần tiến tới chủ nghĩa hiê ôn thực, có cảm hứng lịch sử, hướng đến các thể loại lớn, có khả năng bao quát hiê ôn thực rô ng lớn (trường ca, các tâ ôp thơ), trong thi ca, thế giới nô i tâm của con người ô ô được khám phá sâu hơn. Gắn liền với sự phát triển của chủ nghĩa hiê ôn thực là những thay đổi căn bản trong hê ô thống thể loại. Thơ trước đây chiếm ưu thế nay đã nhường chỗ cho văn xuôi. Các thể loại nhỏ có khả năng phát triển trong truyê n ngắn, truyê n vừa. Đề tài ô ô của các thể loại này được mở rô ng hơn: tâm điểm chú ý là những đại diê ôn của các ô tầng lớp thấp kém trong xã hô ôi, những số kiếp lầm than, bị áp bức. Các nhà văn dần dần thoát khỏi sự lý tưởng hóa và tính đa cảm thường thấy khi miêu tả hình tượng nhân dân trong văn học thời kì trước, đi sâu hơn vào những mâu thuẫn phức tạp, căng thẳng phát sinh do sự hình thành nhanh chóng của chế đô ô tư bản chủ nghĩa. Văn học phản ánh cuô ôc sống của các tầng lớp khác nhau trong xã hô ôi, ở thành thị và nông thôn, ở những vùng miền khác nhau của mỗi quốc gia với những đă c trưng riêng về lịch sử và văn hóa. ô Trong các sáng tác văn xuôi về đời sống xã hô ôi, các nhà văn (Kavalerov, Philimon) đă t ra trước mắt mục đích phản ánh trực tiếp về môi trường xung quanh, ô rõ nét nhất là các xung đô t và các loại hình trong xã hô ôi. Đă ôc trưng tiêu biểu của ô các sáng tác kiểu này là tính thiên hướng mở, dòng văn học phê phán và trào phúng phát triển mạnh. Nhìn chung, sự phát triển của thể loại trào phúng trong văn xuôi cũng như thơ là đă c điểm quan trọng của văn học thời kì này. Ở mô t số nền văn ô ô học, trong các thể loại nhỏ ghi nhâ n sự trưởng thành về nghê ô thuâ t và chiều sâu ô ô hiê ôn thực rõ rê ôt hơn trong tiểu thuyết. Khuynh hướng xâu chuỗi các thể loại văn xuôi nhỏ khá rõ nét. Khuynh hướng này cho phép trong khuôn khổ truyê n ngắn có ô thể đạt đến tầm bao quát hiê ôn thực rô ng lớn, và trong phạm vi cả chuỗi truyê n ô ô ngắn có thể đạt đến tầm nhâ ôn thức đầy đủ về những vấn đề quan trọng của đời sống xã hô ôi và con người. Tiểu thuyết vươn lên dẫn đầu các thể loại văn học. Tốc đô ô và đă ôc trưng của quá trình này ở các nền văn học khu vực Đông Âu không giống nhau bởi xuất phát điểm khác nhau: trong văn học Ba Lan, tiểu thuyết tồn tại từ thế kỉ XVIII, trong khi đó trong văn học Bulgari mới chỉ xuất hiê ôn những tác phẩm đầu tiên thuô ôc thể loại tiểu thuyết. Gắn liền với vấn đề đấu tranh giải phóng dân tô ôc là vai trò đă c biê ôt của thể ô loại tiểu thuyết lịch sử trong hầu hết các nền văn học thuô ôc khu vực Đông Âu. Chính những thành công của thể loại này đã quyết định đóng góp của các nền văn học khu vực Đông Âu vào tiến trình văn học thế giới (các sáng tác của H. Sienkiewicz, A. Irasek, A. Shenoa, I. Vazov). Các tiểu thuyết lịch sử của các nhà văn trong khu vực thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước nồng nàn. Nét đă ôc sắc của các tác phẩm thể hiê ôn ở ý nghĩa giáo dục và mối liên hê ô hiếm có về tình cảm với đô c ô giả. Thể loại tiểu thuyết này gắn liền với vấn đề lịch sử dân tô ôc. Mô ôt cái nhìn nhất định, toàn diê ôn về thời kì lịch sử được phản ánh và vai trò của thời kì đó trong lịch sử dân tô ôc đã lí giải khuynh hướng sáng tác những bô ô tiểu thuyết anh hùng đồ sô ô (như sáng tác của H. Sienkiewicz, Irasek) được liên kết bởi mô ôt cốt truyê n, mô t ô ô nguồn cảm hứng chung và mô ôt quan niê ôm lịch sử thống nhất. Gần với đề tài đấu tranh giải phóng dân tô ôc là đề tài các cuô ôc khởi nghĩa chống phong kiến (sáng tác của Irasek, Shenoa). Những bức tranh về các phong trào nông dân cũng như những tấm gương hi sinh anh hùng của các nhân vâ ôt được tái hiê ôn lại với tầm vóc sử thi chân thực. Các sáng tác của Sienkiewicz hay Shenoa thường được so sánh với các tiểu thuyết của Walter Scott. Những nét tương đồng giữa các tác phẩm khá rõ nét: nô i dung phiêu lưu, màu sắc lịch sử sắc nét, nhiều yếu tố lãng mạn trong cốt ô truyê n và quan điểm của các nhân vâ ôt. Tuy nhiên, khác với kiểu “con người trung ô lâ ôp” của W. Scott, người anh hùng trong các sáng tác của các nhà văn Đông Âu là người tham gia tích cực vào các sự kiê ôn lịch sử có ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử. Tuyến truyê ôn tình yêu không quyết định sự vâ ôn đô ng của cốt truyê ôn mà hoàn ô toàn lui về tuyến sau. Tiểu thuyết lịch sử đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thể loại tiểu thuyết hiê ôn thực trong văn học Đông Âu, mă ôc dù tiểu thuyết lịch sử có nhiều đă c điểm khiến nó được xếp vào chủ nghĩa lãng mạn. Tiểu thuyết lịch sử giải ô quyết các vấn đề quan trọng đối với tiểu thuyết hiê ôn thực nói chung, trước hết la việc khai thác mối quan hệ giữa cuộc đời cá nhân với lịch sử. Sự hình thanh thể loại tiểu thuyết về thời đại hiện nay diễn ra khó khăn va chậm chạp hơn, mặc dù trong những thập niên cuối thể kỉ XIX đã chứng kiến những bước tiến. Đời sống xã hội được tái hiện trước mắt các nha văn với những đường nét rõ rệt trong khoảng cách lịch sử, cang gần về hiện tại cang bị chia nho ra, đánh mất mối liên hệ va bị tách ra thanh những bức tranh phong tục. Nhìn chung, trong thể loại tiểu thuyết diễn ra quá trình kiếm tìm sự tổng hợp cách nhìn, khai thác những mối quan hệ sâu xa giữa số phận cá nhân với sự phát triển của xã hội, tìm hiểu về cá thể con người va giải quyết các vấn đề xã hội. Trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX có sự ra đời của tiểu thuyết xã hội từ cuộc sống hiện đại trong các nền văn học trước đây chưa có thể loại nay (các sáng tác của Arbes, Svetlaya ở Cộng hòa Séc; Miksat, Tolnai – Hungari). Các tác phẩm kiểu như tiểu thuyết Búp bê của Prus la thanh tựu quan trọng của chủ nghĩa hiện thực phê phán va cũng la loại tiểu thuyết mới đối với văn học khu vực Đông Âu – tiểu thuyết tâm lý xã hội về cuộc sống hiện đại với cách phân tích đời sống xã hội va tinh thần của đất nước. Các tiểu thuyết kiểu nay rất gần với tiểu thuyết Nga thời kỳ nay ( Anna Karenina của Tolstoy, các tiểu thuyết của Gonsarov). Nét tương đồng thể hiện ở tầm bao quát rộng lớn đời sống xã hội hiện đại trong sự vận động của nó, việc đặt ra những vấn đề cấp thiết của thời đại, tầm quan trọng của vấn đề đạo đức, sự chú ý đến quá trình kiếm tìm về mặt tinh thần của các nhân vật. Gắn liền với những đặc điểm đó la nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật, không chỉ thể hiện ở những bức tranh xã hội rộng lớn ma còn thể hiện trong thể loại đặc thù – tiểu thuyết tâm lý, ví dụ như tiểu thuyết Không giáo điều của Sienkiewicz. Tiểu thuyết Ba Lan có nét tương đồng với tiểu thuyết Nga cả ở ý nghĩa đặc biệt của vấn đề trách nhiệm của con người đối với xã hội. Trong tiến trình phát triển của chủ nghĩa hiện thực ở nửa sau thế kỷ XIX, thể loại trao phúng xã hội chiếm một vị trí đặc biệt (các sáng tác của Gavlichek-Borovsky, Karadzhale, A. Konstantinov). Có thể nói đến sự xuất hiện va phát triển của thể loại trao phúng hiện thực. Về quan niệm nghệ thuật, thể loại nay khác với thể loại trao phúng khai sáng phổ biến ở các thời kì trước, hay thể loại trao phúng lãng mạn vẫn còn có vị trí trong văn học thời kì nay. Như vậy, nét mới của văn học Đông Âu nửa sau thế kỷ XIX chính la sự hình thanh va phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa hiện thực, khuynh hướng dẫn đầu trong phần lớn các nền văn học khu vực Đông Âu. 2.3. Tác gia, tác phẩm tiêu biểu: Henrik Sienkiewicz (Ba Lan) (các tác phẩm tiêu biểu: Quo vadis, Hania)  Vài nét về cuô ôc đời và sự nghiê ôp Henryk Sienkiewicz (1846-1916) tên đầy đủ là Henryk Adam Alexander Pyus Sienkiewicz, có bút hiê ôu là Litwos. Ông sinh ra ở làng Wola Okrzejska, tỉnh Lublin, Ba Lan, là con trai mô ôt địa chủ quý tô ôc nghèo. Đến tuổi đi học, do ảnh hưởng của các biến đô ng kinh tế, gia đình ông phải chuyển về Warszawa, và năm ô 1858 Henryk vào học trung học tại đây. Từ năm 1866 đến 1870, ông học tại trường Đại học Tổng hợp Warszawa, lúc đầu học Luâ ôt và Y khoa, sau chuyển sang Văn và Sử. Từ năm 1869, tên tuổi của Henryk bắt đầu xuất hiê ôn trên tạp chí sinh viên Tổng quan hàng tuần. Sau khi tốt nghiê ôp đại học, Henryk bắt đầu kiếm sống bằng nghề làm báo. Sự nghiê ôp sáng tác của Henryk Sienkiewicz được chia thành 3 giai đoạn: những năm 70-đầu những năm 80; 1883-1905; và sau cuô ôc cách mạng năm 1905.  Giai đoạn sáng tác những năm 70-đầu những năm 80 Henryk Sienkiewicz bắt đầu gây được sự chú ý với công chúng với tiểu thuyết viết từ thời sinh viên Phí hoài (Namarne, 1871) và các truyê n ngắn lấy đề ô tài từ cuô ôc sống nông thôn, số phâ ôn người nông dân, nhưNgười đầy tớ già (1875), Hania (1876), Những phác thảo bằng than (1877), Nhạc sĩ Janko (1879), đồng thời ông cũng trở thành mô ôt nhà báo được thừa nhâ ôn tài năng, cô ng tác với nhiều ô tòa soạn như Báo Ba Lan, Cánh đồng, Tiếng nói… Sự thâ ôt, cái đẹp và lợi ích xã hô ôi là những yêu cầu mà chàng trai trẻ Sienkiewicz đă t ra cho những đồng nghiê ôp ô cầm bút của mình. Khác với những người đồng chí thuô ôc nhóm người “trẻ”, Sienkiewicz tiếp nhâ n nền văn minh tư sản giống như lẽ tất nhiên không tránh ô khỏi, mă ôc dù thiê ôn cảm của nhà văn vẫn nghiêng về thời đại cũ đã qua. Trong các truyê n ngắn thời kì đầu, viê ôc thi vị hóa những con người thời xưa với nhân cách ô đạo đức không phức tạp nhưng vĩ đại đã tạo nên cho văn phong của Sienkiewicz mô ôt sự biểu cảm đă c biê ôt trữ tình. Chính trong những sáng tác thời kì đầu, ô Sienkiewicz lần đầu tiên tìm thấy chính mình như mô ôt người nghê ô sĩ có thế mạnh là phủ nhâ ôn thói dung tục, tầm thường của tầng lớp tư sản, mă ôt khác lại bị hạn chế bởi cách nhìn thế giới hạn hẹp, lỗi thời. Năm 1876, tờ Báo Ba Lan cấp tiền cho Henryk Sienkiewicz đi Mỹ với điều kiê ôn ông phải viết mô ôt loạt bài báo về nước này (những bài báo đó sau này được in thành sách Những bức thư trên đường sang My, 1882). Tại Hoa Kỳ, Henryk Sienkiewicz tham gia vào những thử nghiê ôm xây dựng trại XHCN ở Anaheim (gần Los Angeles) nhưng không thành công. Từ năm 1878, Henryk Sienkiewicz trở về châu Âu, đi du lịch qua rất nhiều nước, viết báo, viết văn và diễn thuyết. Làm quen với các dạng thức quan hê ô tư bản tiến bô ô, nhà văn tự giải phóng khỏi những hình dung ngây thơ về những con đường phát triển của văn minh. Lòng yêu nước nồng nàn, thái đô ô hoài nghi đối với thế giới tư bản đã trở thành nét đă ôc sắc trong khuynh hướng nghê ô thuâ ôt của Henryk Sienkiewicz. Mô ôt châu Âu tư bản, đă c biê ôt là nước Anh, đã làm cho Henryk Sienkiewicz ô vô cùng ngạc nhiên bởi vẻ bề ngoài là nền dân chủ, nhưng lại ẩn giấu đằng sau nhiều mâu thuẫn xã hô ôi. So với các quốc gia châu Âu, nước Mỹ gần hơn với lí tưởng của Henryk Sienkiewicz về mô ôt đất nước thịnh vượng với chế đô ô dân chủ. Nước Mỹ của những thương nhân được nhà văn đă ôt trong sự tương phản với mô ôt nước Mỹ của những con người bình dân, những người cần lao hăng hái di cư đến những vùng đất lạc hâ ôu, và ở chính những nơi đó lại thấy tương lai của đất nước. Nhà văn bị cuốn đi giữa thiên nhiên trong lành và với niềm cảm thông sâu sắc ông đã kể về số phâ ôn bi thương của “những đứa con” của thiên nhiên – những người da đỏ đã giết hại rất dã man các môn đồ của nền văn minh Mỹ. Mùa xuân năm 1878, Henryk Sienkiewicz đến Paris và mô ôt năm sau từ Paris ông về nước. Tuy nhiên, những ấn tượng về nước Mỹ đã thấm sâu vào tâm hồn nhà văn và vẫn tiếp tục nuôi dưỡng sức sáng tạo của ông. Năm 1879, Henryk Sienkiewicz trở thành chủ bút mô ôt tờ nhâ ôt báo mới ở Ba Lan.  Giai đoạn sáng tác 1883-1905 Năm 1881, Henryk Sienkiewicz kết hôn với Maria Szetkiewiczowna, nhưng 4 năm sau bà mất vì bênh lao, để lại hai người con. Năm 1888, được mô ôt người hâm mô ô giấu tên tă ng 15 nghìn rup,Henryk ô Sienkiewicz đã lâ p mô ôt quỹ từ thiê ôn mang tên vợ ông để giúp đỡ những người ô hoạt đô ng văn hóa bị bê ônh lao (thời đó là mô ôt căn bê nh nan y và phổ biến). ô ô Sau khi trở về Ba Lan, Henryk Sienkiewicz bắt đầu sáng tác những tác phẩm dài hơi, và trở nên thâ ôt sự nổi tiếng với 3 bô ô tiểu thuyết lịch sử:Bằng lửa và gươm (1883-1884), Trâ ân hồng thủy (1884-1886), Ngài Wolodyjowski (1887-1888). Henryk Sienkiewicz viết những tiểu thuyết lịch sử này với mục đích khơi dâ ôy lòng tự hào dân tô ôc Ba Lan trong thời kì đen tối khi đất nước bị chia cắt và nhiều cuô ôc khởi nghĩa chống ngoại xâm lần lượt thất bại. Tiểu thuyết Bằng lửa và gươm viết về cuô ôc chiến tranh giữa vương quốc Rzeczpospolita của người Ba Lan với người Cazzak Ucraina (từ 1647 đến 1651) do thủ lĩnh huyền thoại Bohdan Chmielnicki lãnh đạo. Bô ô sách Trâ ân hồng thủy gồm ba tâ p, mô tả cuô ôc chiến đấu của người Ba ô Lan chống lại cuô ôc xâm lăng của người Thụy Điển (1655-1656) mà sử sách gọi là “Trâ ôn hồng thủy Thụy Điển”. Trong cuốn Ngài Wolodyjowski, tác giả ca ngợi những chiến công quả cảm của các hiê ôp sĩ Ba Lan trong cuô ôc chiến chống quân Thổ Nhĩ Kỳ (1672-1673). Bô ô ba tiểu thuyết lịch sử của Henryk Sienkiewicz vừa ra đời đã được đón nhâ n nồng nhiê ôt, biến tác giả thành nhà văn Ba Lan có thu nhâ p ô ô cao nhất thời đó (tiền nhuâ ôn bút của bô ô ba tác phẩm này trong 20 năm đã lên đến hơn 70 nghìn rup). Vào những năm tiếp theo, Henryk Sienkiewicz xuất bản tiếp 2 tiểu thuyết tâm lí xã hô ôi về cuô ôc sống đương thời là Không giáo điều (1890) và Polamiecki (1895) phê phán giới quý tô c đang suy đồi. ô Đỉnh cao thâ t sự trong sự nghiê p sáng tác củaHenryk Sienkiewicz, tác phẩm ô ô để đời mang lại danh tiếng thế giới cho ông, là bô ô tiểu thuyết Quo Vadis viết về cuô ôc đấu tranh của những người Thiên Chúa giáo với bạo chúa Nero. Năm 1893, Henryk Sienkiewicz tái hôn với Maria Wolodkowicz, con gái của mô ôt thương gia giàu có, nhưng cuô ôc hôn nhân này kết thúc không hạnh phúc. 10 năm sau, năm 1904, Henryk Sienkiewicz cưới người vợ thứ ba là Maria Babska, người mà ông đã quen biết từ năm 1888. Henryk Sienkiewicz không hiểu được cuô ôc cách mạng 1905. Ông chỉ nhìn thấy trong đó sự chia rẽ dân tô ôc, khối thống nhất yêu nước của những người Ba Lan trong cuô ôc chiến chống quân xâm lược nước ngoài đã bị phá vỡ. Nhà văn đã đáp lại sự kiê ôn cách mạng 1905 bằng tiểu thuyết Vòng xoáy (1910). Năm 1905, Henryk Sienkiewicz được trao giải Nobel vì những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực sử thi, mà cụ thể là tiểu thuyết Quo Vadis. Viê ôn Hàn lâm Thụy Điển đánh giá ông là “Mô ôt trong những thiên tài hiếm hoi thể hiê ôn được tinh thần dân tô ôc… Sáng tác của H. Sienkiewicz vừa có tầm bao quát rô ng vừa được ô suy tính kĩ lưỡng, văn phong sử thi đạt đến đô ô hoàn thiê ôn nghê ô thuâ ôt”.  Giai đoạn sáng tác sau cuô ôc cách mạng 1905 Năm 1910-1911, truyê ôn vừa của Henryk Sienkiewicz Trên sa mạc và trong rừng thẳm được xuất bản. Trong tác phẩm này, nhà văn đã thi vị hóa những mơ ước thơ trẻ hồn nhiên kiểu hiê ôp sĩ, khích lê ô lòng yêu nước và cái nhìn lạc quan với thế giới. Tác giả của Trên sa mạc và trong rừng thẳm lại mô ôt lần nữa khẳng định tài nghê ô của mình qua viê ôc xây dựng mô ôt cốt truyê ôn hấp dẫn, viê ôc miêu tả mô ôt cách sống đô ng các nhân vâ ôt, những bức tranh thiên nhiên rực rỡ, và khả năng ô khơi dâ ôy trong tâm hồn thơ trẻ những niềm say mê cao cả. Năm 1911, Henryk Sienkiewicz bắt đầu viết chùm tiểu thuyết Những quân đoàn lê dương. Đây là lần cuối nhà văn thử nghiê ôm viết mô ôt tác phẩm có quy mô lớn. Tác phẩm kể về những quân đoàn lê dương đã từng chiến đấu trong đô i quân ô của Napoleon. Cảm hứng viết tác phẩm này được khơi gợi từ tư tưởng quên mình phục vụ Tổ quốc. Theo tác giả, tư tưởng đó có thể liên kết và hòa giải mọi tầng lớp trong xã hô ôi Ba Lan. Chiến tranh thế giới 1914 đã làm gián đoạn quá trình sáng tác Những quân đoàn lê dương. Sienkiewicz rời quê sang sống ở nước Thụy Sĩ trung lập, làm việc trong tổ chức Hồng thập tự Ba Lan. Năm 1916 ông mất ở Vevey, tám năm sau thi hài của ông được chuyển về Warszawa và an táng trong nhà thờ. Ý nghĩa sáng tác của Henryk Sienkiewicz đã vượt ra khỏi khuôn khổ văn học Ba Lan. Lúc sinh thời, ông không chỉ nổi tiếng là mô ôt nhà văn mà còn là mô ôt trong những nhà phê bình văn học có uy tín. Trong số rất nhiều bài bình luâ n văn ô học, bài tiểu luâ ôn, bài phê bình sân khấu,… của Henryk Sienkiewicz, nhiều công trình đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị khoa học. Henryk Sienkiewicz còn là mô t ô nhà phê bình hô ôi họa Ba Lan xuất sắc.  Tiểu thuyết Quo vadis Tác phẩm nổi tiếng Quo vadis được viết trong thời kỳ sung sức nhất của H. Sienkiewicz. Ý đồ sáng tác xuất hiện vào mùa xuân năm 1893, khi nhà văn tới thăm Rome lần thứ hai. Như nhà văn đã viết trong bức thư gửi nhà khảo cổ học kiêm nhà phê bình học người Pháp Boyer D"Agen vào năm 1912: “Ý định sáng tác Quo vadis nảy sinh trong tôi khi tôi đọc các tập Niên ký của Taxits, một trong những nhà văn tôi yêu thích nhất và trong chuyến lưu trú dài ngày tại Rome. Họa sĩ nổi tiếng Siemiradzki đang sống tại Rome hồi ấy là người hướng dẫn tôi đi thăm quan cái thành đô vĩnh hằng này, và ở một trong những cuộc dạo chơi như thế, anh ấy đã chỉ cho tôi ngôi nhà thờ nhỏ mang tên “Quo vadis” (Chiesa del Domine Quo Vadis). Chính lúc ấy, tôi đã nảy sinh ra ý định viết một tiểu thuyết về thời kỳ lịch sử đó”. Trong suốt hai năm 1893 - 1894, tác giả đã tiến hành những công cuộc chuẩn bị khảo cứu rất công phu để xây dựng nền móng cho tác phẩm, đồng thời đã vài lần thử nghiệm chủ đề này trong một số phác thảo khác nhau. Quo vadis được chính thức bắt đầu viết từ mùa xuân năm 1895 tại Vacsava và được hoàn thành ngày 18/2/1986 tại Nixe. Vừa viết Sienkiewicz vừa cho đăng tải Quo vadis trên tờ “Báo Ba Lan” ở Vacsava và hai tờ báo khác tại Poznan và Cracov. Vài tháng sau, tác phẩm được nhà xuất bản Gebethner và Wolf in thành sách (3 tập). Thời trị vì của Nero bạo chúa và việc khủng bố các tín đồ Thiên chúa giáo hồi ấy đã từng là đề tài của nhiều tác phẩm của các nhà văn trước Sienkiewicz, song Quo vadis vượt xa các tác phẩm ấy về giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Quo vadis là bức tranh toàn cảnh xã hội La Mã vào năm 61 sau công nguyên, với những mâu thuẫn chính trị xã hội và tôn giáo đã căng thẳng tới tột đỉnh chỉ chực bùng nổ. Trong lần xuất bản đầu tiên, Quo vadis có mang thêm phụ đề nhỏ “Tiểu thuyết về thời Nero” nhưng thực ra Sienkiewicz không có ý định dựng một tiểu
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan