Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng mô hình trường học mới vnen vào thiết kế dạy học bài “nghĩa của câu” (n...

Tài liệu Vận dụng mô hình trường học mới vnen vào thiết kế dạy học bài “nghĩa của câu” (ngữ văn 11) (2016)

.PDF
60
187
117

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ===o0o=== VŨ THỊ HẢI YẾN VẬN DỤNG MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI VNEN VÀO THIẾT KẾ DẠY HỌC BÀI “NGHĨA CỦA CÂU” (NGỮ VĂN 11) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngữ văn, các thầy cô trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn đã quan tâm, giúp đỡ và kiện cho tôi trong quá trình làm khóa luận. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS.Phạm Kiều Anh - người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình chu đáo để tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 22 tháng 04 năm 2016 Sinh viên Vũ Thị Hải Yến LỜI CAM ĐOAN Để hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗi lực của bản thân, tôi đã nhận được sự hướng dẫn của các thầy cô trong khoa Ngữ văn và sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo – TS.Phạm Kiều Anh. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Kết quả nghiên cứu là trung thực và không trùng khớp với kết quả của các tác giả khác. Hà Nội, ngày 22 tháng 04 năm 2016 Tác giả Vũ Thị Hải Yến BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CH: Câu hỏi GV : Giáo viên HS : Học sinh MH: Mô hình NXB : Nhà xuất bản PPDH : Phương pháp dạy học SGK : Sách giáo khoa SGV : Sách giáo viên THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 7 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 7 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7 6. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 8 NỘI DUNG....................................................................................................... 9 Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC VNEN VÀO DẠY HỌC BÀI NGHĨA CỦA CÂU ................................................................................................................... 9 1.1. Giới thiệu chung về Mô hình trường học VNEN ...................................... 9 1.1.1. Khái niệm mô hình trường học VNEN ................................................... 9 1.1.2. Nguyên tắc tổ chức các hoạt động trong mô hình trường học VNEN .... 9 1.1.3. Tổ chức và quản lí lớp học của mô hình trường học VNEN ................ 12 1.1.4. Mục đích của việc sử dụng mô hình trường học VNEN trong giáo dục ......................................................................................................................... 16 1.2. Những vấn đề chung về “Nghĩa của câu”................................................ 17 1.2.1. Khái niệm nghĩa của câu ....................................................................... 17 1.2.2. Các thành phần ý nghĩa trong câu ......................................................... 19 1.3. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 21 1.3.1. Điều tra, khảo sát thực trạng dạy học bài “Nghĩa của câu” ở trường THPT Tây Tiền Hải ........................................................................................ 21 1.3.2. Đánh giá chung ..................................................................................... 26 Chương 2. THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC BÀI “NGHĨA CỦA CÂU” SỬ DỤNG MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC VNEN .............................. 27 2.1. Mục đích của việc dạy học bài “Nghĩa của câu” ..................................... 27 2.2. Các nguyên tắc thiết kế hoạt động dạy học bài “Nghĩa của câu” theo mô hình trường học VNEN ................................................................................... 27 2.2.1. Nguyên tắc phù hợp với đặc điểm nhận thức của HS ........................... 27 2.2.2. Nguyên tắc dạy học gắn liền với thực tiễn............................................ 29 2.2.3. Nguyên tắc trực quan ............................................................................ 31 2.3. Bài “Nghĩa của câu” trong SGK Ngữ văn 11 .......................................... 32 2.4. Những hoạt động dạy học bài “Nghĩa của câu” theo mô hình trường học VNEN .............................................................................................................. 34 2.4.1. Hoạt động khởi động ............................................................................. 34 2.4.2. Hoạt động hình thành kiến thức ............................................................ 35 2.4.3. Hoạt động luyện tập .............................................................................. 38 2.4.4. Hoạt động vận dụng .............................................................................. 39 2.4.5. Hoạt động mở rộng ............................................................................... 39 Chương 3. THỬ NGHIỆM SƯ PHẠM ...................................................... 40 3.1. Mục đích và yêu cầu thử nghiệm ............................................................. 40 3.1.1. Mục đích................................................................................................ 40 3.1.2. Yêu cầu thử nghiệm .............................................................................. 40 3.2. Đối tượng thử nghiệm .............................................................................. 40 3.3. Kế hoạch thử nghiệm ............................................................................... 41 3.4. Nội dung thử nghiệm ............................................................................... 41 KẾT LUẬN .................................................................................................... 48 CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Với quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta, thời gian gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện đổi mới PPDH, đổi mới kiểm tra, đánh giá và yêu cầu GV tăng cường tổ chức các hoạt động nhận thức cho HS, hướng dẫn phương pháp tự học cho các em. Đổi mới PPDH luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong giáo dục. Nhưng trên thực tế, vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức. GV tuy được tham dự các lớp tập huấn về phương pháp song khi áp dụng trong quá trình dạy học chỉ mang tính "hình thức", chưa đạt hiệu quả cao, do GV chưa nắm chắc lí thuyết và điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế và thiếu thốn. Bên cạnh đó, mặc dù đã có nhiều cải tiến trong nhiều hoạt động của quá trình giáo dục nhưng nhìn chung PPDH của GV và đổi mới hình thức học của học sinh (HS) vẫn chưa có bước đột phá lớn, chủ yếu vẫn là những đổi mới nhỏ lẻ, mang tính thao tác. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là thiếu một mô hình (MH) dạy học mới, có thể hiện thực hóa một cách hiệu quả tư tưởng đổi mới DH. Để giải quyết vấn đề này, một hướng đi mới đã và đang được nghiên cứu, vận dụng là cách thức tổ chức hoạt động dạy học theo MH trường học mới VNEN. Việc đổi mới PPDH nói chung và PPDH môn Ngữ văn nói riêng là việc vô cùng cần thiết. Bởi lẽ Ngữ văn là một môn học có vị trí quan trọng. Nó vừa là môn học mang tính công cụ, vừa là môn học mang tính nghệ thuật, lại là môn học mang tính nhân văn cao.Tuy nhiên, một thực trạng đáng lưu ý ở đây, 1 đó là HS đang ngày càng quay lưng lại với môn Ngữ văn, không còn coi trọng và hứng thú với môn học này. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó bao gồm cả những nguyên nhân khách quan về thực trạng của xã hội và những nguyên nhân chủ quan nảy sinh trong thực tế dạy học môn học này ở nhà trường phổ thông. Lối dạy học truyền thống; cách tạo không khí học tập và cả cách kiểm tra đánh giá theo lối áp đặt, không xác định HS là chủ thể của hoạt động dạy học nên nhiều giờ học trở nên nhàm chán, căng thẳng; không có ấn tượng với các em. Bởi vậy, để HS học tốt môn Ngữ văn cần áp dụng những hình thức, biện pháp dạy học mới, hiện đại nhằm kích thích hứng thú học tập cho HS. "Nghĩa của câu" là một bài học tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT. Đây là một nội dung kiến thức hoàn toàn mới so với các chương trình trước đây. Các nội dung kiến thức của bài "Nghĩa của câu" cũng chưa được trình bày ở lớp dưới. Muốn đạt được hiệu quả cao trong việc bài "Nghĩa của câu" nói riêng và dạy học tiếng Việt nói chung cần có PPDH phù hợp kích thích được hứng thú, sự say mê tìm tòi của HS. Nhận thấy MH trường học mới VNEN đã áp dụng thử nghiệm và đạt được thành công đáng ghi nhận ở cấp học Tiểu học và THCS ở nhiều môn học trong đó có Ngữ văn. Hơn nữa, gần đây ở bậc THPT cũng đã có nhiều nghiên cứu đưa vào ứng dụng thử nghiệm mô hình trường học VNEN ở nhiều phân môn. Với Ngữ văn, cũng đã có nhiều bài nghiên cứu thử nghiệm trong dạy đọc hiểu văn học, nhưng nghiên cứu về giờ dạy tiếng Việt ở chương trình THPT vẫn còn là hướng đi khá mới. Xuất phát từ lí do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: Vận dụng mô hình trường học mới VNEN vào thiết kế dạy học bài “Nghĩa của câu” (Ngữ văn 11). 2 2. Lịch sử nghiên cứu 2.1. Lịch sử nghiên cứu về Nghĩa của câu Nghĩa của câu là một bình diện khá quan trọng của câu. Tuy nhiên, nghĩa của câu không phải là đối tượng được chú trọng nghiên cứu ngay từ đầu, các công trình nghiên cứu về nó còn hạn chế và còn tồn tại nhiều ý kiền khác nhau. Trong ngữ pháp truyền thống, câu được coi là đơn vị cấu trúc lớn nhất trong tổ chức nội bộ của một ngôn ngữ. Quan niệm này xuất pháp từ nhận thức câu là một đơn vị ngôn ngữ lớn, có nội dung thông báo và có cấu trúc cụ thể. Việc nghiên cứu câu theo quan niệm này quan tâm nhiều đến cấu trúc mà xem nhẹ và chưa đi sâu vào mặt nghĩa và mặt sử dụng của câu. Theo quan niệm trên, các tác giả trong cuốn "Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt" tập trung xem xét câu chủ yếu ở cấu trúc ngữ pháp. Do đó, câu được phân loại dựa trên ba căn cứ: phân loại theo mục đích nói (câu tường thuật, câu nghi vấn, câu mệnh lệnh, câu cảm thán); căn cứ vào mối quan hệ với hiện thực (câu khẳng định, câu phủ định); phân loại câu theo cấu tạo (câu đơn, câu ghép) [11]. Ngày nay, cùng với sự phát triển của hàng loạt lí thuyết mới, câu được xem xét trên nhiều phương diện. Chẳng hạn, một học giả người Nga cho rằng câu có ba phạm trù cú pháp hiện thực hóa bản chất ngữ pháp. Đó là tính thông báo, tính tình thái và tính ngữ vị. Trong đó, phạm trù tính thông báo truyền đạt ý đồ thông báo của người nói về một cái gì đó cho người khác biết để cho người đó có thể phản ứng lại. Tiêu chí tình thái là phạm trù ngữ điệu, nhờ ngữ điệu này mà chúng ta biết được câu được cấu thành không và ý đồ thông báo của người nói có được thực hiện không. Còn phạm trù tính vị ngữ truyền đạt mối liên hệ giữa vị ngữ với chủ ngữ của câu. Như vậy, mỗi phạm trù này đều 3 có các mặt bên trong (ý nghĩa) và mặt bên ngoài (các tiêu chí hình thức) [3, Tr.44] Trong ngôn ngữ học hiện đại, câu được khảo sát ở ba bình diện mà Ch.Moriss đã khởi xướng. Trong lí thuyết kí hiệu học, ba lĩnh vực cần được xem xét là: Nghĩa học (Semantics): đó là lĩnh vực của các mối quan hệ giữa kí hiệu với các sự vật ở bên ngoài hệ thống kí hiệu. Kết học (Syntatics): là lĩnh vực nghiên cứu kí hiệu các mối quan hệ kết hợp với các kí hiệu khác. Dụng học (Pragnatic): là lĩnh vực của mối quan hệ giữa các kí hiệu và người sử dụng nó. Vận dụng vào đơn vị câu, ngôn ngữ hiện đại đã phân biệt ba bình diện khác nhau: nghĩa học (nghĩa của câu), kết học (cú pháp) và ngữ dụng. Đây là sự khác biệt lớn so với quan niệm ngữ pháp truyền thống vốn chỉ xem xét câu ở bình diện cú pháp mà không coi trọng bình diện nghĩa và bình diện sử dụng của câu. Theo tác giả Diệp Quang Ban trong sách "Ngữ pháp tiếng Việt" [1, tr.105], ông cho rằng câu ngày nay người ta thường nêu ra các yếu tố sau đây: Yếu tố hình thức: Câu có cấu tạo ngữ pháp bên trong và bên ngoài có tính chất tự lập và có một ngữ điệu kết thúc. Yếu tố nội dung: Câu có nội dung là một sự tưởng tượng đối trọn vẹn và có thể kèm thái độ của người nói hay nội dung làm thái độ, tình cảm của người nói. Yếu tố chức năng: Câu có chức năng hình thành và biểu hiện truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Nó là đơn vị thông báo nhỏ nhất. Lĩnh vực nghiên cứu: Câu là đơn vị của nghiên cứu ngôn ngữ. 4 Như vậy, một định nghĩa về câu sẽ như sau: "Câu là đơn vị của nghiên cứu có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc, mang một ý nghĩ tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nó hoặc có kèm theo thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn ngữ". [1, tr.106] Định nghĩa trên tương đối đầy đủ. Nó đề cập đến hai thành phần nghĩa cơ bản của câu là sự việc và nghĩa tình thái. Đây cũng là hai thành phần nghĩa được giảng dạy trong bài "Nghĩa của câu" trong SGK Ngữ văn 11 (tập 2). Trong khi đó, tác giả Cao Xuân Hạo khi bàn về nghĩa của câu lại cho rằng: "Nghĩa của câu là cấu trúc nhiều tầng. Các tầng nghĩa trong câu phối hợp với nhau tạo ra cái nghĩa hành chức ấy và được như vậy thì mới là hiểu nhau... Nghĩa của câu nhiều khi ở trên bề mặt của nó nhưng nhiều khi chỉ thấy được trong bề sâu của nó." [6, tr.103]. “Nghĩa của câu” là một nội dung kiến thức quan trọng trong chương trình Ngữ văn THPT. Cho đến nay, việc dạy học nội dung này đã được nhiều nhà nghiên cứu và cả GV phổ thông quan tâm nhằm tìm ra những hình thức tổ chức hướng dẫn HS tiếp cận những tri thức này đạt kết quả cao. Tuy nhiên, trong khóa luận này, chúng tôi tập trung vào tìm hiểu và bước đầu vận dụng một hình thức tổ chức hướng dẫn HS tiếp cận với “Nghĩa của câu” trong SGK Ngữ văn 11 - THPT. Đó là sử dụng mô hình (MH) trường học VNEN hướng tới mục đích tạo ra hiệu quả cho việc tổ chức dạy học bài học và tạo hứng thú, và sự say mê học Tiếng Việt cho chủ thể học tập - HS. 2.2. Lịch sử nghiên cứu về mô hình trường học mới VNEN Ở Việt Nam, MH trường học mới VNEN đã và đang được chú trọng nghiên cứu cũng như đưa vào thử nghiệm tại một số cấp học ở nhiều trường trên phạm vi cả nước. Có thể kể đến một số công trình bàn luận và đánh giá 5 về MH như: 1. Đặng Tự Ân - Mô hình trường học mới Việt Nam. Hỏi - Đáp. NXB Giáo dục Việt Nam, 2014. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Vụ Giáo dục Tiểu học - Dự án Mô hình trường học mới Việt Nam, Hướng dẫn tổ chức sinh hoạt chuyên môn tại các trường thực hiện mô hình trường học mới Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013. Từ năm 2011-2012, MH trường học mới VNEN được tiến hành thử nghiệm ở cấp Tiểu học. Qua ba năm triển khai ở cấp Tiểu học đã khẳng định mô hình trường học mới VNEN là mô hình trường học hiện đại, tiên tiến, phù hợp với mục tiêu đổi mới và đặc điểm của giáo dục của Việt Nam. Do vậy, mô hình tiếp tục được nhân rộng quy mô, năm 2014-2015 trên cả nước có 1447 trường Tiểu học có HS học hết lớp 5 theo MH trường học VNEN, Bộ cũng chỉ đạo 6 tỉnh triển khai thử nghiệm MH trường học mới này tại bậc THCS. Đã có 46 lớp 6, trong 24 trường THCS triển khai và thực nghiệm thành công. Tiếp đó, năm 2015-2016, trên cả nước đã có 3700 trường tiểu học và 1600 trường THCS tham gia triển khai MH trường học mới. Từ những thành công và khả năng ứng dụng của MH này đem lại hiệu quả cao trong học tập của HS, nên hướng nghiên cứu về việc thiết kế và tổ chức dạy học theo MH VNEN ở bậc THPT đang hứa hẹn sẽ đem lại bước tiến toàn diện hơn cho PPDH ở nhà trường Việt Nam. Đối với chương trình Ngữ văn ở bậc THPT, nghiên cứu áp dụng MH trường học mới VNEN vào dạy học giờ tiếng Việt còn là một hướng mới, hứa hẹn sẽ đem lại nhiều kì vọng đem vào ứng dụng trong thời gian gần nhất. Nhận thấy rõ tính tích cực và khả năng có thể ứng dụng cao đó của MH trường học mới VNEN, cùng với nội dung bài Nghĩa của câu có nhiều điểm thích hợp đưa vào ứng dụng thử nghiệm MH trường học mới, chúng tôi tiến hành bài nghiên cứu với đề tài: 6 Vận dụng mô hình trường học mới VNEN vào thiết kế dạy học bài “Nghĩa của câu” (Ngữ văn 11). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra một phương hướng dạy học bài "Nghĩa của câu", tạo ra sự sáng tạo và kích thích nhu cầu học tập cho HS trong dạy học tiếng Việt. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng hợp các vấn đề lý thuyết về MH trường học mới VNEN và nghĩa của câu. - Đề xuất cách vận dụng MH trường học mới VNEN khi dạy học bài "Nghĩa của câu" trong SGK Ngữ văn 11 (bộ chuẩn). - Thử nghiệm nhằm bước đầu đánh giá kết quả đề xuất. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - MH trường học mới VNEN trong giáo dục. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Bài "Nghĩa của câu" trong SGK Ngữ văn 11 (bộ chuẩn). 5. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp chính sau: 5.1. Phương pháp phân tích ngôn ngữ Phương pháp này sử dụng khi đi phân tích các ngữ liệu trong bài học và phần luyện tập. 5.2. Phương pháp so sánh đối chiếu Phương pháp này sử dụng khi tiến hành so sánh các ngữ liệu trong bài học nhằm làm nổi bật vấn đề nghiên cứu trong đề tài. 7 5.3. Phương pháp quan sát Phương pháp này sử dụng khi GV bao quát toàn bộ lớp học, bao quát hoạt động các nhóm, hoạt động cá nhân trong giờ học ứng dụng MH VNEN để kịp thời giải quyết các thắc mắc của HS. Đối với MH này, GV và HS đều thực hiện quan sát mọi hoạt động lớp học. 5.4. Phương pháp thực nghiệm Phương pháp này được sử dụng khi tổ chức thực nghiệm để chứng minh tính khả thi của thiết kế, từ đó rút ra kết luận chung, cần thiết cho những đề xuất được giới thiệu. 6. Bố cục khóa luận Khóa luận được triển khai làm 3 phần: mở đầu, nội dung, kết luận. Phần nội dung được bố cục thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng mô hình trường học mới VNEN vào dạy học bài “Nghĩa của câu”. Chương 2: Thiết kế hoạt động dạy học bài "Nghĩa của câu" trong SGK Ngữ văn 11 (bộ chuẩn) theo mô hình trường học mới VNEN. Chương 3: Thử nghiệm sư phạm. 8 NỘI DUNG Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC VNEN VÀO DẠY HỌC BÀI NGHĨA CỦA CÂU 1.1. Giới thiệu chung về Mô hình trường học VNEN 1.1.1. Khái niệm mô hình trường học VNEN MH trường học mới tại Việt Nam - VNEN (Việt Nam Escuela Nueva VNEN) là một kiểu MH nhà trường hiện đại, tiên tiến, phù hợp với mục tiêu đổi mới và đặc điểm của giáo dục Việt Nam. VNEN là cụm từ viết tắt của Việt Nam Escuela Nueva tức là MH trường học mới tại Việt Nam. Đó là sự vận dụng MH nhà trường đã được thí điểm thành công ở Cô-lôm-bi-a và một số nước Châu Mĩ la tinh (Escuela Nueva). MH này được đề xuất từ MH EN (đó là MH nhà trường kiểu mới được thực hiện tại nước Cộng hòa Côlômbia). MH EN đã đưa ra được một giải pháp giáo dục cụ thể để thay đổi nhà trường, phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục hiện đại. Ở Việt Nam, theo báo cáo nhanh của Dự án MH trường học mới, tính từ năm 2011, VNEN đã được triển khai thí điểm và nhân rộng ở bậc Tiểu học tại 63 tỉnh, thành phố, với gần 2000 trườngvà gần 70.000 HS tham gia. Đây là MH dạy học không những đổi mới về tổ chức lớp học, về trang trí lớp mà quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy - học cả lớp sang dạy học theo nhóm. 1.1.2. Nguyên tắc tổ chức các hoạt động trong mô hình trường học VNEN Mô hình trường học mới VNEN được triển khai dựa trên nguyên tắc phối hợp các hoạt động học tập cá thể với sự tương tác của HS - HS và HS GV; hướng HS đến sự phát triển toàn diện, không chỉ hoạt động lĩnh hội kiến thức mà còn rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế sinh động, năng lực tự học, kỹ năng sống, tự phục vụ bản thân, tự quản tập thể, bồi dưỡng hứng thú học tập để học tập suốt đời. MH trường học mới chú trọng 9 phát huy năng lực riêng của từng HS, không ứng xử một cách đồng loạt bằng cách quan tâm đến từng học sinh ngay trong quá trình học tập, kịp thời động viên kết quả đạt được, phát hiện những điểm mạnh để khuyến khích, những khó khăn để hướng dẫn; đánh giá tiến bộ của HS theo yêu cầu giáo dục, không so sánh HS này với HS khác. Để đạt được những mục tiêu giáo dục như trên, MH trường học mới xác định nguyên tắc hoạt động như sau: Quan điểm chỉ đạo các hoạt động của MH trường học mới được xây dựng dựa trên hai trụ cột lý thuyết giáo dục là Thuyết kiến tạo và Thuyết hoạt động, trong đó: Thuyết kiến tạo có vai trò là tiền đề xây dựng những định hướng cho việc triển khai các nhiệm vụ giáo dục cụ thể. Quan điểm chỉ đạo của thuyết này là: Mỗi người học là một chủ thể kiến tạo tích cực, tự phản ánh, khám phá, cải tạo thế giới từ kinh nghiệm, hiểu biết riêng của mình. Người ta không thể dạy một người nào đó, mà chỉ có thể giúp đỡ, hỗ trợ để người đó tự mình khám phá, phát triển. Gắn với chủ trương trên, người ta xác định rõ mọi khâu, mọi hoạt động của quá trình giáo dục đều phải xuất phát từ chủ thể HS. Và chính chủ thể HS cũng là một nhân tố quan trọng của hoạt động giáo dục. Còn thuyết hoạt động nhấn mạnh: Con người tự sinh ra bản thân mình bằng hoạt động của chính mình. Mỗi cá nhân bằng hoạt động của mình hình thành nên nhân cách và tạo ra sự phát triển của bản thân. Theo Vưgôtxki, yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách con người “là hoạt động của chính con người”. Với quan điểm chỉ đạo của thuyết này, MH trường học mới xác định mọi khâu của quá trình giáo dục đều lấy hoạt động làm căn cứ. Hoạt động ở đây là những hành động cụ thể của chủ thể học tập – HS. Và thông qua quá trình hoạt động của các em, người ta đánh giá chất lượng giáo dục. Trên nền tảng của các lý thuyết nêu trên, VNEN xác định các nguyên tắc vận hành của mô hình dạy học theo bốn định hướng lớn: - Định hướng về người học: HS là trung tâm của quá trình dạy học. HS 10 được hướng dẫn để tự thực hiện quá trình học tập với một chương trình tự học theo từng bước. HS được phát huy tính tích cực để tìm tòi, khám phá tri thức và vận dụng kiến thức, kĩ năng vào cuộc sống. HS được giao quyền tự quản và tăng cường hợp tác trong quá trình học tập. - Định hướng về người dạy: GV là người tổ chức, hướng dẫn HS học theo từng bước dựa trên tài liệu học. GV phải góp phần kiến tạo, duy trì và thúc đẩy một môi trường học tập tích cực, cởi mở, chú trọng tính hợp tác và cạnh tranh giữa các cá nhân HS. - Định hướng cho nhà trường: Nhà trường thiết lập mối liên hệ chặt chẽ với cha mẹ HS và cộng đồng để cùng tham gia vào quá trình giáo dục và các dự án giáo dục tại cộng đồng. - Định hướng về chương trình, nội dung và hoạt động dạy học: Chương trình, nội dung và hoạt động dạy học phải gắn bó chặt chẽ với thực tiễn cuộc sống. Đi sâu vào việc tổ chức các họat động dạy học trong mỗi giờ học, VNEN xác định có 5 hoạt động: Khởi động: Tổ chức HS huy động vốn kiến thức, kĩ năng của bản thân để chuẩn bị tiếp nhận kiến thức, kĩ năng mới, để giải quyết những vấn đề liên quan đến bài học, tạo hứng thú, động cơ học tập, từ đó bước đầu đánh giá khả năng, nhu cầu của HS. Hình thành kiến thức mới: HS tự chiếm lĩnh kiến thức, hình thành kĩ năng mới thông qua việc trực tiếp tiến hành hệ thống các bài tập/ nhiệm vụ dưới sự hướng dẫn của GV. Luyện tập: HS vận dụng kiến thức, kĩ năng vừa học để giải quyết nhiệm vụ cụ thể, tương tự do sách giáo khoa hoặc GV đưa ra. Vận dụng: HS sử dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ thực tiễn trong cuộc sống. GV định hướng, gợi ý HS tự đặt ra 11 trên cơ sở bài học, đây là hoạt động ở nhà, cộng đồng, giúp HS gắn với gia đình, địa phương. Mở rộng (tìm tòi mở rộng): Khuyến khích HS tiếp tục tìm hiểu, mở rộng kiến thức, kĩ năng từ các nguồn/kênh thông tin khác như sách, báo, mạng Internet…; tự đặt ra các tình huống có vấn đề nảy sinh từ nội dung bài học, từ thực tiễn cuộc sống, vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết bằng những cách khác nhau. Hoạt động này được chủ yếu giao cho HS thực hiện ở nhà nhằm mục đích hình thành thói quen tự học cho các em. 1.1.3. Tổ chức và quản lí lớp học của mô hình trường học VNEN 1.1.3.1. Sắp xếp bàn ghế học tập Thay vì bàn ghế được sắp xếp theo hàng ngang như trước đây, các lớp học của mô hình VNEN yêu cầu sắp xếp lại bàn ghế theo nhóm HS: nhóm 4 hoặc nhóm 6. Vị trí chỗ ngồi của HS có sự thay đổi về tâm thế học tập và quan hệ tương tác giữa các HS. Với cách ngồi theo hàng ngang, HS không cần tương tác với nhau, chỉ có quan hệ tương tác: GV và HS trong lớp học. Do đó, nảy sinh tâm lí lấy GV làm trung tâm của quá trình học tập; hoạt động học tập chủ yếu từ nghe giảng - ghi nhớ - vận dụng và tái hiện. Cách học này chỉ tạo nên những bộ óc biết ghi nhớ và tái hiện mà không tạo nên được con người có các năng lực mà xã hội đang cần - năng lực tự chủ, năng lực phối hợp nhóm, năng lực tư duy, năng lực sáng tạo, … Với vị trí ngồi học theo nhóm, cùng với cách tổ chức dạy học mới của GV, bên cạnh việc được tiếp nhận, mở rộng kiến thức các môn học, HS còn có điều kiện hình thành nhiều năng lực cần thiết của con người phù hợp với xã hội đang phát triển. Nhờ quan hệ tương tác được mở rộng, đa chiều: tương tác giữa HS (với tư cách là chủ thể của quá trình học tập) với tài liệu (với tư cách là đối tượng của quá trình học tập, được viết lại chủ yếu dành cho người học với các hướng dẫn sư phạm) dưới sự điều hành của nhóm trưởng và vai 12 trò cố vấn của GV; tương tác giữa HS với dụng cụ học tập (tranh ảnh, đồ dung, vật thật,…); tương tác giữa HS với HS (hai chủ thể với nhau) thông qua vai trò của nhóm trưởng, của GV; tương tác giữa HS và GV và ngược lại. Trong các quan hệ tương tác trên, HS thực sự được sống với tư cách là chủ thể của quá trình học tập. Với vị thế của mình trong quá trình học tập như vậy, các hoạt động tương có tác dụng kích thích các hoạt động của bộ não nhằm bồi dưỡng cho các em những năng lực cần thiết. Không chỉ có vậy, các em còn từng bước hình thành và phát triển tác phong tự tin, tự chủ và độc lập trước những thử thách của cuộc sống. Tuy nhiên, muốn làm được điều đó, GV phải tạo được bầu không khí thân thiện trong các hoạt động của mỗi giờ học. Tránh rủi ro do không quán xuyến được các hoạt động của mỗi HS trong giờ học. Muốn vậy, GV phải có khả năng quan sát, khả năng điều chỉnh hành vi tốt hơn là khả năng quan sát, khả năng thuyết trình tốt như các giờ dạy trước đây. 1.1.3.2. Xây dựng hội đồng tự quản học sinh Hội đồng tự quản HS là một biện pháp giáo dục nhằm thúc đẩy sự giáo dục về đạo đức, tình cảm xã hội của HS thông qua những kinh nghiệm hoạt động thực tế của các em trong nhà trường và mối quan hệ với những người xung quanh. Hội đồng tự quản của HS được thành lập vì chủ thể học tập và bởi chính các em nhằm đảm bảo cho các em tham gia một cách toàn diện vào các hoạt động của nhà trường và phát triển lòng khoan dung, sự tôn trọng, bình đẳng, tinh thần hợp tác đoàn kết cho HS. Hội đồng tự quản của HS phát triển kĩ năng ra quyết định, kĩ năng hợp tác và kĩ năng lãnh đạo. Đồng thời cũng chuẩn bị cho các em ý thức trách nhiệm khi thực hiện những quyền và bổn phận của mình. Với sự hướng dẫn của GV, HS sẽ tổ chức Hội đồng tự quản và thành lập các ban để lập kế hoạch và thực thi các hoạt động, các dự án. Nhà trường nên khuyến khích sự tham gia của phụ huynh HS và các hoạt 13 động, dự án của HS. Hội đồng tựu quản học sinh Chủ tịch hội đồng Phó chủ tịch hội đồng Phó chủ tịch hội đồng Ban học tập Ban thư viện Ban quyền lợi của hs trong học tập Ban đối ngoại Ban sức khỏe, vệ sinh Ban thể dục thể thao Sơ đồ: xây dựng hội đồng tự quản học sinh của mô hình VNEN Xây dựng mô hình tự quản có ý nghĩa rất lớn trong việc bồi dưỡng, phát triển kĩ năng tự ý thức, lòng tự trọng, tính tự tin và cách hành xử bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau của HS. Điều được quan tâm nhất ở Hội đồng tự quản đó là ý nghĩa của việc thúc đẩy quá trình tự học của mô hình này. Thực tế thử nghiệm ở bậc học dưới cho thấy, trong lớp học của VNEN, Hội đồng tự quản hỗ trợ GV rất nhiều trong quá trình tổ chức các hoạt động học. Hội đồng tự quản có các ban với các vai trò cụ thể thúc đẩy hoạt động học diễn ra hiệu quả hơn như: Ban học tập - thường xuyên giúp GV tổ chức hoạt động kiểm tra bài tập và khởi động cho giờ học; Hội đồng tự quản điều khiển các nhóm trong lớp thực hiện các hoạt động cơ bản của tiết học; ghi tiến độ, nhắc thời gian; điều khiển các trao đổi giữa HS với HS, hỗ trợ các bạn yếu trong các tiết học 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất