Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề tiếp nhận truyện ngắn nguyễn huy thiệp...

Tài liệu Vấn đề tiếp nhận truyện ngắn nguyễn huy thiệp

.PDF
117
102
101

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Thế kỷ XX đã chứng kiến những thành tựu lớn trong lí luận văn học. Một trong những thành tựu làm thay đổi các quan niệm cũ về phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, đó là sự ra đời của Mĩ học tiếp nhận(tiếp nhận văn học). Nếu lí luận văn học tiền hiện đại chỉ chú ý đến tác giả, lí luận văn học hiện đại đã có những bước tiến quan trọng trong việc khám phá văn bản văn học như là cấu trúc ngôn từ động thì tư duy lí luận văn học hậu hiện đại lại có những khám phá mới hơn về đặc trưng bản thể của văn bản văn học trong quan hệ với những yếu tố khác, với người tiếp nhận. Có thể khẳng định, sự chuyển đổi từ Mĩ học sáng tạo qua Mĩ học tiếp nhận xứng đáng là một trong những bước ngoặt quan trọng của tư duy lí luận văn học thế giới. Từ đây“Mĩ học tiếp nhận nêu lên những giá trị dễ thay đổi, trực tiếp gắn liền với cá nhân người đọc thông qua quá trình cụ thể hoá văn bản… Từ đây lịch sử văn học không chỉ đơn giản là con số cộng các tác giả và tác phẩm mà còn được hiểu là các tác phẩm và người tiếp nhận trong những biến chuyển lịch sử của nó”[18, tr167]. 1.2. Trên văn đàn Việt Nam cuối những năm 80 của thế kỷ XX, xuất hiện một hiện tượng lạ – hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp. Các sáng tác của ông ngay sau khi ra đời đã nhanh chóng trở thành tâm điểm chú ý của giới nghiên cứu phê bình và những người yêu văn chương. Có lẽ ông là tác giả đầu tiên trong văn học Việt Nam lập kỷ lục có được nhiều bài viết nhất về sáng tác của mình chỉ trong một thời gian ngắn. Đây là điều đáng mừng cho văn học và cũng là biểu hiện phong phú của sự tiếp nhận. Qua khảo sát các bài viết, công trình nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chúng tôi nhận thấy, bạn đọc đã dùng những hệ qui chiếu khác nhau để soi chiếu vào tác phẩm. Người nhìn nhận hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp ở phương diện giới thiệu tác giả tác 2 phẩm. Người khác chỉ đánh giá một vài truyện ngắn đơn lẻ hoặc một vài phương diện về nghệ thuật truyện ngắn nói chung. Xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau nên các ý kiến đánh giá về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chỉ là những nhận định mang tính chất riêng lẻ, có lúc cảm tính (khen hết lời mà chê cũng tột bậc), chưa đi sâu vào những sáng tạo riêng của nhà văn cũng như chưa có cái nhìn toàn diện về cây bút này. Mặt khác, xung quanh hiện tượng văn học này vẫn có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng chưa có bài viết nào thống kê và lí giải tại sao hiện tượng này lại gây nhiều sự tranh luận đến thế. Cũng có bài viết nêu lên những hướng tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và ít nhiều liên quan đến vấn đề tiếp nhận, tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, chưa có nhà nghiên cứu – phê bình nào đề cập đến vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp một cách cụ thể, khoa học và hệ thống. Chọn đề tài “Vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp” chúng tôi sẽ nêu lên những vấn đề xung quanh hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp và nhìn nhận nó một cách khoa học bằng ánh sáng của lí thuyết tiếp nhận. Từ đó giúp bạn đọc hiểu hơn về những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp đối với văn học nước nhà. 1.3. Chọn đề tài “Vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, chúng tôi không những được trở lại những vấn đề về lịch sử văn học mà còn có cơ hội tiếp cận với những thành tựu của tư duy lí luận văn học hiện đại và hậu hiện đại, từ đó giúp chúng tôi mở ra những nhận thức mới về phương thức tồn tại của tác phẩm văn học. Đây cũng là một dịp để chúng tôi khẳng định những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp trong quá trình đổi mới văn học nước nhà. Những sáng tác của ông không chỉ nêu lên những vấn đề bức xúc của đời sống xã hội mà còn có tác động quan trọng đối với vấn đề tư duy lí luận văn học về góc độ tác phẩm văn học. 3 1.4. Là một giáo viên dạy văn ở trường phổ thông, tôi nhận thấy vấn đề tiếp nhận văn học là vấn đề rất cần thiết khi tìm hiểu đúng bản chất của văn chương. Nhờ nó tôi có thể vận dụng vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập văn trong nhà trường . 2. Lịch sử vấn đề Trong thời kỳ đổi mới văn học nước nhà nửa đầu thế kỷ XX. Hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp ngay khi vừa xuất hiện đã tạo nên một cuộc tranh luận sôi nổi kéo dài và cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Số lượng các bài viết về ông rất lớn. Tuy nhiên những ý kiến đánh giá xung quanh tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp cũng rất khác nhau. Sự đánh giá ấy vô hình chung đã thừa nhận Nguyễn Huy Thiệp là một hiện tượng văn học phức tạp và tác phẩm của ông luôn có độ mở lớn. Năm 2001, tác giả Phạm Xuân Nguyên đã tập hợp, biên soạn những bài viết về Nguyễn Huy Thiệp trong cuốn sách “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp”[41], giúp cho những ai quan tâm đến “hiện tượng văn học” này cái nhìn khái quát, khách quan và đa chiều hơn. Trong cuốn sách này, chúng tôi nhận thấy, các bài biết chủ yếu phân thành hai luồng chính: phản đối và đồng tình. Các ý kiến phản đối một phần do người đọc đồng nhất cái phản ánh với cái được phản ánh, mặt khác, trong thời điểm văn học đã đổi mới, nhưng họ vẫn dùng nhãn quan một chiều, thụ động để đánh giá tác phẩm nên không tránh khỏi những hạn chế. Ý kiến phản đối chủ yếu tập trung vào truyện Tướng về hưu và bộ ba truyện ngắn “giả lịch sử ”(Đặng Anh Đào): Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết. Ngoài ra còn một số truyện khác của Nguyễn Huy Thiệp cũng bị lên án do phản ánh hiện thực quá “tàn nhẫn”. Đó là các ý kiến của những nhà phê bình như Lê Hà(Các vị tướng nói về phim “Tướng về hưu”), Tạ Ngọc Liễn(Về truyện ngắn “Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp, Về mối quan hệ giữa văn và sử), Đỗ Văn Khang(Có một cách đọc “Vàng lửa”; 4 Sự “mơ mộng” và “nghiêm khắc” trong truyện ngắn “Phẩm tiết”; Vì sao văn của Ngụyên Huy Thiệp ngày càng sa sút), Nguyễn Thúy Ái(Viết như thế, cũng là một cách bắn súng lục vào quá khứ), Vũ Phan Nguyên(Ba lần đọc Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp), Hồng Diệu(Một cây bút có tài nhưng…;Xung quanh sáng tác Nguyễn Huy Thiệp), Mai Ngữ(Cái tâm và cái tài của người viết), Trung Phương(Chữ nghĩa với tâm hồn)... Bên cạnh đó, các ý kiến đồng tình đã xoáy sâu vào những nét mới mẻ, những sáng tạo nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và đưa ra một số khám phá rất có ý nghĩa. Đó là bài phê bình khen ngợi truyện ngắn “Tướng về hưu” của nhà nghiên cứu văn học Đặng Anh Đào(Khi ông “Tướng về hưu xuất hiện”), Nguyễn Mạnh Đẩu(Đôi điều cảm nhận sau khi đọc truyện và xem phim “Tướng về hưu”), Trần Đạo(“Tướng về hưu” một tác phẩm có tính nghệ thuật)... đó là những bài khen ngợi bộ ba truyện "giả lịch sử " của nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân(Đọc văn phải khác với đọc sử), Thùy Sương(Về một cách hiểu truyện ngắn “Vàng lửa”),Văn Giá(Bàn thêm về truyện ngắn“Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp), Trương Hồng Quang và Nguyễn Xuân Mai(“Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp, “triết học lịch sử” hay là “Văn xuôi nghệ thuật”), Nguyễn Diệp(Đọc “Phẩm tiết” của Nguyễn Huy Thiệp), Vương Anh Tuấn(Lịch sử trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp), nhà nghiên cứu và phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp(Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp)....Đó còn là những bài viết bày tỏ sự khâm phục và ngưỡng mộ đối với tài năng viết truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp như các bài viết của: Hoàng Ngọc Hiến(Tôi không chúc bạn “thuận buồm xuôi gió”), Văn Tâm(“Đọc” Nguyễn Huy Thiệp), Diệp Minh Tuyền(Nguyễn Huy Thiệp, một tài năng mới), Thái Hòa(Có nghệ thuật ba-rốc trong các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hay không), Trần Duy Thanh(Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp), Nguyễn Đăng Mạnh(Truyện ngắn 5 Nguyễn Huy Thiệp, vài cảm nghĩ) Nguyễn Thanh Sơn(Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp), Đông La(Về cái “Ma lực” trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp), Đỗ Đức Hiểu(Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp), Vương Trí Nhàn(Tưởng tượng về Nguyễn Huy Thiệp)... Nhìn chung, các bài viết đều đi từ những đặc điểm sáng tạo nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và xuất phát từ cái Tâm của nhà phê bình. Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ xin điểm lại một vài ý kiến tiêu biểu xung quanh vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. GS Đặng Anh Đào trong bài "Thị hiếu và lối đọc truyện hiện nay qua một cuộc tranh luận"[57], bên cạnh việc đánh giá các giá trị của tác phẩm, còn nêu cụ thể lí do khiến cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều tranh luận, đó là "Nguyễn Huy Thiệp đã gây ra một cái hẫng giữa phát và nhận. Lối viết đa âm đụng phải lối đọc thánh thư" [57,tr203] và thế là không cùng "sóng" nên gây tranh cãi. Cũng trong bài viết này bà còn khẳng định "Tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp do sức mạnh gợi mở ra ngoài cuộc đời quá, do thức dậy quá nhiều liên tưởng, nên mọi người đều gán cho nó sự liên tưởng của mình và sinh ra cãi nhau. Những người ưa đọc thánh thư bực mình vì muốn tìm câu phán của nhà văn, có khi lại gắn nhầm, và cho rằng nha văn đã phán láo. Ngược lại, người đọc thiên về trí tuệ đã phản đối cách đọc ấy, gây nên độ căng của một cuộc tranh luận khó dứt, và cũng khẳng định đổi mới của thị hiếu hiện nay" [57,tr204). Ngoài ra trong bài viết "Khi ông Tướng về hưu xuất hiện"[41,tr21], bà đã nêu ra lối tiếp nhận cũ từ trong truyện thống và lối tiếp nhận mới của người đọc khi họ đem chúng xem xét truyện ngắn này. Đọc Tướng về hưu mà người đọc tự tạo ra một khoảng cách để nhìn nhận vấn đề, trước lối viết thản nhiên và trung hoà của nó, ấy là cách đọc mới. Ngược lại, ban đọc đọc Tướng về hưu theo trật tự tuyến tính, tìm xem nhân vật nào là chính diện, nhân vật ấy đã trừng trị cái ác như thế nào? và tiếng nói của nhân 6 vật đó chính là tư tưởng của tác phẩm, ấy là cách đọc cũ. Nhà nghiên cứu này cho rằng, với Tướng về hưu, "không thể đọc trên một dòng chữ, một đoạn mạch, mà là ở sự khái quát ở người đọc" [41,tr22]. Thái Hoà trong bài viết "Có nghệ thuật Ba-rốc trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay không" [41,tr92], cũng bày tỏ quan điểm của mình về vấn đề tiếp nhận của người đọc, nhưng ông đề cập đến phương diện nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Thái Hoà cho rằng "nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp mang sức tải của một quan niệm sống, quan niệm xử thế với người đời.... những quan niệm khác nhau va chạm, xung đột, bùng nổ... Và chính khi người đọc phản ứng mạnh mẽ với Nguyễn Huy Thiệp, tức cũng tự trình bày một cách hiểu, một quan niệm về cuộc sống, về văn chương nghệ thuật"[41,tr95]. Bàn về vấn đề "Đọc văn phải khác với đọc sử"[41,tr179], nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cũng cho bạn đọc thấy một vấn đề quan trọng khi tiếp cận tác phẩm văn học, ấy là cách đọc. Văn chương được quyền hư cấu nên cách đọc nó khác xa với cách đọc những công trình sử học. Ngoài ra, ông còn đề cập đến yếu tố văn bản, đó là sự lựa chọn kết thúc mở trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng gây nên những cách hiểu không giống nhau từ phía người đọc. Nói về truyện Vàng lửa ông viết "Ba đoạn kết dự kiến do vai tôi tạo ra làm cho câu chuyện trở nên bất định có thể thế này hoặc thế kia. Nhưng sự bất định của các chi tiết sự kiện lại một lần nữa đánh thức cách nhìn chủ động, xác định ở từng người đọc"[41,tr182]. Và ông còn khẳng định, nhà văn "muốn tôn trọng người đọc với sự nhận thức rất độc lập của họ thì nên để họ tự xác lập lấy các nhận định của họ"[41,tr183]. Xuất phát từ quan điểm thi pháp học, GS Đỗ Đức Hiểu trong quá trình "Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp" [41,tr472] đã nhận thấy một số tác phẩm văn học thế kỷ XX rất khó đọc, khó hiểu, trong đó có truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. 7 Vì thế, "người đọc không còn thụ động thưởng thức tác phẩm văn học, mà trở thành người đọc tích cực: đọc là một cuộc phiêu lưu giữa văn bản ngôn từ... người đọc phải từ bỏ lối đọc truyền thống và phải rèn luyện cách đọc tích cực, tức là phải khám phá, phải cùng nhà văn sáng tạo"[41,tr477]. Văn Giá trong bài "Bàn thêm về Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp" [41,tr205] đã nhận xét về cách kết thúc "mở" trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp: "Một số truyện ngắn gần đây của Nguyễn Huy Thiệp không có kết thúc rành mạch theo những phương pháp dễ dãi. Anh luôn đưa ra những giả định có thể thế này, thế kia, thế khác nữa, hối thúc người đọc suy nghĩ tự tìm ra lối kết thúc theo lối riêng của mình không cho phép biếng lười ăn sẵn. Nhìn rộng hơn, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều tầng ý nghĩa được nén lại trong sự trình bày kiệm lời. Một số nhân vật của anh ta là những ẩn dụ đa nghĩa"[41,tr205]. Có thể thấy, các ý kiến trên đã đề cập đến yếu tố văn bản và cách đọc đã đem đến cho người tiếp nhận những kết quả khác nhau khi cùng tiếp cận một tác phẩm văn học. Không phải ngẫu nhiên, sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp lại tạo thành hai luồng ý kiến: khen, chê rõ ràng, không phải chỉ liên quan đến một nhóm người mà liên quan đến cả nước. Trước hiện tượng tiếp nhận như vậy, ai đúng? ai sai? Dưới ánh sáng của lí thuyết tiếp nhận thế kỷ XX mà chúng tôi sẽ giới thiệu dưới đây có thể lí giải hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp trên cơ sở khoa học. Những năm đầu thế kỷ XX, trên thế giới đã có nhiều nhà lí luận nghiên cứu về lí thuyết tiếp nhận(đặc biệt ở phương Tây). Dựa trên những kết quả nghiên cứu tác phẩm văn học theo Hiện tượng học của Husserl, Roman Ingarden là người đầu tiên cho ra đời công trình “Tác phẩm văn học”[32]. Ông tìm ra những khả năng khác nhau để lĩnh hội và lí giải giá trị tác phẩm văn học. Ông nhấn mạnh: “Tác phẩm văn học không đồng nhất với moi sự 8 đọc và trong phê bình văn học, những ý kiến khác nhau không liên quan đến bản thân tác phẩm mà chỉ liên quan đến sự cụ thể hoá của từng nhà phê bình” [12,tr43]. Ngoài ra Heidegger và những đồng nghiệp của ông đã tạo ra những biến thể mới của Hiện tượng học như Tường giải học, Mĩ học tiếp nhận. Quan điểm của Heidegger đã được một người Đức khác - nhà tường giải học triết học lớn là Hans Goerg Gadame tiếp tục phát triển trong công trình triết học nghệ thật nổi tiếng “Chân lí và phương pháp” (1960). Tác giả đặt ra những vấn đề hoàn toàn mới mẻ cho Lí luận văn học. Đó là “Nghĩa của văn bản thể hiện qua cái gì? Vai trò của sự chủ ý của nhà văn trong nghĩa này là gì? Có thể hiểu được những tác phẩm mà về mặt lịch sử và văn hoá là xa lạ đối với người đọc? Có thể có sự hiểu “khách quan” hay mọi sự hiểu đều lệ thuộc vào tình thế lịch sử cụ thể” [16,tr15]. Khám phá sự vận động của cấu trúc ngôn từ động của văn bản nghệ thuật, H.G. Gadamer đã đặt tiền đề quan trọng để lí luận văn học tiến thêm một bước xa hơn, thấy được văn bản nghệ thuật còn có những khả năng mới trong quan hệ với những yếu tố khác, với người tiếp nhận. Dựa trên lí luận của H.G. Gadamer, những năm 60 của thế kỷ XX, Hans Robert Jauss và Wolfgang Iser và các nhà khoa học khác tuy có những quan điểm không giống nhau nhưng họ vẫn có điểm đồng nhất đó là vấn đề: Sự hiểu một văn bản văn học xảy ra như thế nào? Những người đọc thuộc các nhóm xã hội- lịch sử và các thời đại khác nhau có những kinh nghiệm gì trong việc tiếp nhận văn bản. Đây chính là bước phát triển mới của Tường giải học. Lần đầu tiên, sau một thời gian chỉ chú ý đến tác giả, văn bản, người ta đã quan tâm đến người đọc, nghiên cứu vai trò người đọc đối với sự tồn tại của tác phẩm văn học. Từ đây, lịch sử văn học theo Mĩ học tiếp nhận, không đơn giản chỉ là lịch sử của những tác phẩm và tác giả, mà còn là lịch sử tiếp nhận 9 của người đọc. Với công trình “Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học”[33] H. R Jauss đã xây dựng một lý thuyết tường giải học mới. Theo quan điểm của ông, sự tồn tại của tác phẩm không thể hình dung được nếu thiếu sự tham gia của người đọc. Từ phương diện tiếp cận tác phẩm văn học văn học này, về sau Derrida cũng cho rằng: "Văn bản văn học không khép kín, nghĩa của nó không bị trói buộc bằng sự giúp đỡ của tác giả hay là sự liên quan với hiện thực; văn bản văn học luôn mở, nó cần được bổ sung và tạo khả năng bổ sung" [14,tr7]. Như vậy, Mĩ học tiếp nhận đã bác bỏ tính chất khép kín của văn bản văn học mà mĩ học sáng tạo trước đây vẫn bảo vệ, thay vào đó là tính chất mở và dấu ấn cá nhân. Ý nghĩa của văn bản ngày càng phong phú đa dạng nhờ người đọc. Đây là hướng nghiên cứu mới về tác phẩm văn học của tư duy lí luận văn học hiện đại. Thành tựu của lí luận văn học hiện đại trên đây, ít nhiều liên quan đến vấn đề tiếp nhận tác phẩm văn học nói chung và vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, là đề tài mà chúng tôi đang nghiên cứu nói riêng. Cùng với thế giới tình hình nghiên cứu lí luận ở việt Nam cũng ảnh hưởng theo xu hướng trên. Từ khoảng những năm 70 của thế kỷ XX, rải rác trên các báo, các tạp chí đã xuất hiện những bài báo nghiên cứu về tiếp nhận văn học. Đó là các tác giả Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Phan Anh. Những năm 80, có các bài viết của Hoàng Trinh, Văn học so sánh và vấn đề tiếp nhận văn học[63]; Giao tiếp văn học [64] và của Nguyễn Văn Dân: Nghiên cứu sự tiếp nhận văn học trên quan điểm liên ngành[6]. Nhìn chung, những bài viết của hai nhà nghiên cứu này đều nhấn mạnh sự tác động của người đọc đối với văn học và thừa nhận vấn đề tiếp nhận văn học là một vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu, nhất là ở nền lý luận văn học nước ta hiện nay. 10 Vấn đề tiếp nhận văn học thực sự được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn ở thập niên 90. Đó là bài viết của các tác giả Nguyễn Lai: Tiếp nhận văn học – một số vấn đề thời sự [35]; Nguyễn Thanh Hùng: Trao đổi thêm về tiếp nhận văn học[31]. Năm 1991 Nguyễn Văn Dân đã biên soạn và giới thiệu cuốn sách “Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận”[7]. Tác giả đã đưa ra vấn đề về chủ thể tiếp nhận theo quan điểm của H.R.Jauss. Đây là một công trình tương đối có hệ thống trong việc giới thiệu lý thuyết tiếp nhận trong thời điểm này. Năm 1992 trên Tạp chí văn học số 1, Nguyễn Thị Thanh Thủy đề cập đến vấn đề: Tiếp nhận văn bản văn chương trên phương diện các phạm trù ý. [60]. Năm 1995 bà tiếp tục phân tích vai trò của kinh nghiệm thẩm mỹ trong việc tiếp nhận tác phẩm văn chương[61]. Năm 1993, Đỗ Đức Hiểu cũng bàn đến sự đọc của chủ thể tiếp nhận trong bài “Đổi mới và phê bình văn học” [28]. Nói chung từ thập niên 90 của thế kỷ 20 các nhà nghiên cứu, các giáo sư, giảng viên đã quan tâm đến lý thuyết tiếp nhận trong nghiên cứu và giảng dạy. Điều đó được thể hiện trong những giáo trình văn học từ năm 1997 trở lại đây. Các nhà nghiên cứu Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương, Từ Sơn… đều có những bài viết về tiếp nhận tiếp nhận văn học. Năm 1998, trong công trình viết chung với Nguyễn Văn Hạnh, nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương đã nhấn mạnh đến lập trường và sự lý giải của người đọc. Riêng nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề tiếp nhận như: Mấy vấn đề tiếp nhận văn học, Lý luận tiếp nhận và phê bình văn học, Ngôn ngữ với việc lĩnh hội tác phẩm thơ…đã lý giải những vấn đề cơ bản nhất của lý thuyết tiếp nhận giúp chúng tôi có cái nhìn cụ thể hơn về lý thuyết tiếp nhận, để có thể vận dụng tốt vào đề tài đang nghiên cứu. 11 Năm 1997, nhà nghiên cứu Phương Lựu đã viết "Giáo trình tiếp nhận văn học"[36]. Trong công trình này, ông chỉ ra cả ưu và nhược điểm của Mĩ học tiếp nhận thế kỷ XX, từ đó hoạt động tiếp nhận văn học được ông xem xét trên hai bình diện vĩ mô và vi mô. Lý thuyết tiếp nhận còn được ông giới thiệu trong một số công trình khác như giáo trình Lí luận văn học, Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, Mười trường phái phê bình văn học phương Tây.... Có thể nói, những công trình có bàn về vấn đề tiếp nhận, được trình bày ngắn gọn, súc tích mang tính chất định hướng, giúp chúng tôi có cái nhìn tổng thể về sự phát triển của lý thuyết tiếp nhận. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Trịnh Bá Đĩnh thì “người có thành tích nhất trong việc giới thiệu lý thuyết này ở nước ta là Trương Đăng Dung”. Thực ra vấn đề này đã có nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến nhưng đến những năm cuối của thập niên 90 mới được Trương Đăng Dung nghiên cứu một cách khoa học và hệ thống. Trong công trình “Từ văn bản đến tác phẩm văn học” [11], tác giả đặt ra vấn đề: tính chất mở của tác phẩm là điều kiện của sự thưởng thức thẩm mĩ. Nhưng ấn tượng thẩm mĩ xuất hiện từ đâu? Theo ông giữa các cực của tính chủ ý và không chủ ý, ấn tượng thẩm mĩ xuất hiện trong sự di động này. Ông còn cho rằng mỗi lần đọc là một lần người đọc “vấp ngã” vào văn bản. Ở tạp chí Văn học nước ngoài số 4 - 2003, trong bài viết “Phương thức tồn tại của tác phẩm văn học”[13] ông nhấn mạnh đến vai trò của chủ thể tiếp nhận, đó là: “Tác phẩm văn học phụ thuộc vào những hoạt động cụ thể hoá (đọc) có chủ ý của người đọc, và bản thân tác phẩm cũng hiện ra đúng với diện mạo của nó nếu gặp được sự cụ thể hoá lí tưởng. Sự cụ thể hoá này mỗi người một vẻ, không giống ai. Như vậy tác phẩm văn học là vật hai lần có ý thức”[13, tr164) ). Đây là một ý kiến mới so với các công trình trước đó. Điều này cho thấy chính tính đa nghĩa và độ mở của văn bản khiến cho những cách lí giải về nó đều có cơ hội tồn tại và trên thực tế không 12 thể có kết luận cuối cùng về giá trị tác phẩm. Đây là cái nhìn thể hiện cảm quan hậu hiện đại khi nói về đời sống tác phẩm trong tương quan với chủ thể tiếp nhận. Vẫn ở bài viết này, Trương Đăng Dung nhấn mạnh quan điểm: "Tác phẩm văn học tồn tại thông qua việc người ta đọc nó và sự tác động của nó đến người đọc"[13,tr164) và nêu lên hướng tiếp cận phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, trên hai bình diện: một là tính chất ngôn ngữ, cái quyết định đặc trưng văn học của văn bản; hai là khả năng tạo lập đời sống cụ thể của văn bản văn học qua người đọc. Đây là những đóng góp đáng quý của ông vào ý thức đổi mới và hiện đại nền lý luận văn học nước nhà. Ngoài ra ở tạp chí Nghiên cứu văn học số 3- 2004 Trương Đăng Dung có bài viết :“Văn bản văn học và sự bất ổn của nghĩa”[15] nhấn mạnh đến sự đọc. Cùng thời gian trên, nhà nghiên cứu này còn cho xuất bản chuyên luận Tác phẩm văn học như là quá trình[17]. Việc tiếp cận bản chất của tác phẩm văn học từ đặc trưng của văn bản và sự tạo nghĩa thông qua người đọc đã cho thấy, tác phẩm văn học không tĩnh mà động, không phải là sản phẩm cố định mà là quá trình. Đây là vấn đề quan trọng khi nghiên cứu tác phẩm văn học. Có thể thấy, những công trình về lý thuyết tiếp nhận trên đã đưa ra những lý thuyết vừa khái quát vừa cụ thể về tiếp nhận văn học. Qua đây chúng tôi có thể lí giải được vì sao tác phẩm văn học lại có nhiều cách hiểu khác nhau. Đồng thời các công trình nghiên cứu về tiếp nhận văn học cho thấy lý thuyết tiếp nhận tồn tại như một ngành nghiên cứu riêng trong khoa học văn học. Chúng tôi trân trọng các công trình nghiên cứu đó như những gợi ý hết sức quý báu có tính chất định hướng trong quá trình thực hiện đề tài "Vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp". Trở lại các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh các bài viết được tác giả Phạm Xuân Nguyên biên soạn trong cuốn “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp”[41], truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn trở thành 13 nguồn đề tài hấp dẫn cho nhiều báo cáo khoa học, khoá luận tốt nghiệp, luận văn của các sinh viên, học viên. Các công trình này đã khai thác được nhiều những cách tân mới mẻ, độc đáo, từ cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, tới ngôn từ, giọng điệu... Các công trình trên, dù nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ở góc độ nào, dù ít hay nhiều, người viết cũng đã bàn đến những ý kiến khác nhau của người đọc khi tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, từ đó có lí giải, nông hoặc sâu những biểu hiện của lí thuyết tiếp nhận. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, hầu hết các bài viết, công trình nghiên cứu đó mới chỉ đề cập đến một vài phương diện biểu hiện của lí thuyết tiếp nhận, chưa có công trình nào tập trung một cách đầy đủ, hệ thống, khoa học và dựa trên những thành tựu của tư duy lí luận văn học thế kỷ XX để lí giải về vấn đề tiếp nhận trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Các ý kiến bàn về lí thuyết tiếp nhận nói chung và vấn đề tiếp nhận trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nói riêng sẽ có tính chất định hướng cho chúng tôi thực hiện đề tài này một cách toàn diện hơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Luận văn khảo sát các ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, từ đó thấy được các cách tiếp nhận truyện ngắn của ông. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước, trong luận văn này, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp một cách toàn diện và hệ thống. Từ đó giúp bạn đọc có cái nhìn khách quan nhất về hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp. 3.2. Qua vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi còn trả lời cho những câu hỏi quan trọng của lí luận văn học về tác phẩm văn học, đó là: phương thức tồn tại của tác phẩm văn học là gì? ý nghĩa của tác phẩm văn học có phải là nhất thành bất biến? 14 3.3. Với đề tài này, chúng tôi cũng muốn xác định những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp cho nền văn học nước nhà và chứng minh cho sự phát triển, đổi mới về tư duy nghệ thuật trong văn học Việt Nam hiện đại. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Trong đề tài này, chúng tôi tìm hiểu về lí thuyết tiếp nhận văn học trong sự vận động của tư duy lí luận văn học. Trên cơ sở lý luận đó, chúng tôi đi vào thực tế sáng tác văn học sau 1975 ở Việt Nam và lựa chọn hiện tượng văn học Nguyễn Huy Thiệp và tìm hiểu vấn đề tiếp nhận từ truyện ngắn của ông. Từ đó, thấy được sự phong phú về ý nghĩa của, các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp qua mỗi người đọc, ở những thời điểm khác nhau, và làm sáng rõ một hiện tượng văn học trong thời kỳ đổi mới. 4.2. Các ý kiến, quan điểm tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất phong phú và đa dạng. Tuy vậy, ở luận văn này, chúng tôi chủ yếu khảo sát những ý kiến đánh giá, qua các bài viết trong cuốn “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp”[41]. Thực hiện luận văn này, chúng tôi lựa chọn cuốn Nguyễn Huy Thiệp truyện ngắn của Nxb hội nhà văn, tái bản năm 2005. 5. Phương pháp nghiên cứu _ Phương pháp khảo sát, thống kê _ Phương pháp phân loại _ Phương pháp so sánh, đối chiếu _ Phương pháp phân tích, tổng hợp... 6. Đóng góp của luận văn 6.1. Đây là luận văn thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu về vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Trên cơ sở những thành tựu của lí luận văn học hiện đại và hậu hiện đại, luận văn nghiên cứu diễn trình tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nhằm khẳng định: phương thức tồn tại của tác phẩm văn học qua sự xác lập đời sống cụ thể của văn chương thông qua người đọc. 15 6.2. Qua diễn trình tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy thiệp, luận văn khẳng định: lịch sử văn học không chỉ đơn giản là con số cộng của các tác giả và tác phẩm mà còn được hiểu là các tác phẩm và người tiếp nhận trong những biến chuyển lịch sử của nó. Tác phẩm văn học không phải là sản phẩm cố định mà là quá trình tạo nghĩa không ngừng thông qua người đọc. 6.3. Luận văn cũng nêu lên những đóng góp của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp trong quá trình đổi mới văn học nước nhà. 16 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I VAI TRÒ CỦA LÍ THUYẾT TIẾP NHẬN ĐỐI VỚI VIỆC NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ VĂN HỌC Thế kỷ XX là cái mốc quan trọng đối với sự vận động của tư duy lí luận văn học. Nhìn lại quá trình phát triển của tư duy lí luận văn học từ truyền thống đến hiện đại, các nhà nghiên cứu đã có nhiều cách nhìn nhận và lí giải khác nhau về vấn đề tác phẩm văn học. Nếu tư duy lí luận văn học tiền hiện đại chú ý đến vai trò của hiện thực, tác giả thì tư duy lí luận văn học hiện đại và hậu hiện đại đã thấy được sự khác biệt giữa văn bản và tác phẩm văn học, thấy được vai trò của người đọc trong quá trình hình thành các giá trị văn học. 1. Từ mỹ học sáng tạo đến mỹ học tiếp nhận Nếu cuối thế kỷ XIX, lí luận văn học phát hiện ra vai trò của tác giả, đầu thế kỷ XX phát hiện ra yếu tố văn bản thì giữa thế kỷ XX lí luận văn học phát hiện ra người đọc. Cuối thế kỷ XIX với Mỹ học sáng tạo, tác giả là người đóng vai trò trung tâm của tác phẩm, bạn đọc nhìn vào tác phẩm chỉ thấy tác giả đầy quyền uy đang ngự trị. Đến với tác phẩm, bạn đọc đi tìm nghĩa chủ ý của tác giả, tức ý đồ của tác giả trước và trong khi sáng tác. Những khái niệm như nhân vật, kết cấu, cốt truyện, chủ đề, tư tưởng… là những khái niệm của Mĩ học sáng tạo được áp dụng để đánh giá, thẩm định giá trị của tác phẩm văn học. Người đọc khám phá tác phẩm theo ý đồ tác giả. Tác phẩm kết thúc cũng là lúc nghĩa và ý nghĩa của nó dừng lại. Bạn đọc không phải băn khoăn, day dứt hay bị ám ảnh bởi chi tiết này hay nhân vật nọ vì mọi cái đã quá rõ ràng, tác giả đã cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết để độc giả cứ thế lĩnh hội tác phẩm. Đương nhiên, một hệ quả tất yếu diễn ra, là sản phẩm mà độc giả 17 lĩnh hội được từ tác phẩm đều giống nhau, tác phẩm chỉ có thể hiện ra với một diện mạo duy nhất, đó là chủ ý của tác giả. Thế kỷ XX đã chứng kiến những phát hiện mới trong tư duy lí luận văn học. Một trong những phát kiến đó là đề xuất vai trò của người đọc. Sự chuyển đổi từ mỹ học sáng tạo qua mỹ học tiếp nhận là bước ngoặt quan trọng của tư duy lí luận văn học. Giữa thế kỷ XX, với việc nhận ra sự khác biệt giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học, lí luận văn học hiện đại đã vượt lên tư duy lí luận văn học tiền hiện đại. Nếu lí luận văn học tiền hiện đại( nhất là khoa học văn học thực chứng trước thế kỷ XX) chỉ nhấn mạnh đến mối quan hệ nhân quả, đề cao yếu tố môi trường, tác giả…thì lí luận văn học hiện đại đã nhận ra những yếu tố đặc thù của văn bản văn học và phương thức tồn tại của tác phẩm văn học thông qua người đọc. Lí luận hiện đại đã phát hiện ra vai trò của văn bản, nhưng văn bản đó phải tạo ra được đời sống cho mình thông qua người đọc để trở thành tác phẩm văn học. Từ chỗ lấy mỹ học sáng tạo làm cơ sở, tư duy lí luận văn học hậu hiện đại đã từng bước khẳng định vai trò quan trọng của mỹ học tiếp nhận. Sẽ không sai nếu nói rằng tư duy lí luận văn học hậu hiện đại đã đưa vấn đề đọc lên tầm triết học. Theo nhà ngiên cứu văn học Trương Đăng Dung, những thành tựu của tư duy lí luận văn học hiện đại đã thể hiện những bước tiến quan trọng trong việc khám phá văn bản văn học như là cấu trúc ngôn từ động. Nhưng rồi tư duy lí luận văn học hậu hiện đại lại có những khám phá mới hơn về đặc trưng bản thể của văn bản văn học trong quan hệ với những yếu tố khác, với người tiếp nhận. Các lí thuyết hậu hiện đại cho rằng nghĩa của văn bản không ổn định, nó mang tính quan hệ và được tạo nên do một quá trình. Tiếp theo khái niệm nghĩa đang tồn tại của lí luận văn học hiện đại là khái niệm nghĩa được thiết lập của văn học hậu hiện đại. Câu hỏi phương thức tồn tại của tác phẩm 18 là gì? đã nêu lên hai vấn đề phải đề cập đến: Một là tính chất ngôn ngữ, cái quyết định đặc trưng văn học của văn bản; hai là khả năng tạo lập một đời sống của văn bản nghệ thuật. Cả hai đều liên quan đến quá trình xâm nhập đời sống của văn bản văn học, nói chính xác hơn, đó là quá trình tự tạo ra đời sống của văn bản. “Như vậy là sau khi lí luận văn học hiện đại xác định được vai trò trung tâm tạo nghĩa của văn bản văn học độc lập với tác giả và môi trường ra đời của nó, lý luận hậu hiện đại đã khám phá ra quá trình tạo lập đời sống của văn bản văn học trong quan hệ với sự tiếp nhận của người đọc. Đây là cơ sở để lí luận văn học hậu hiện đại thể hiện tham vọng lấy mỹ học tiếp nhận thay cho mỹ học sáng tạo” [18,tr165]. Thật ra, chỗ dựa lớn nhất của tư duy lí luận văn học hiện đại và hậu hiện đại là những tư tưởng triết học. Vì thế Roman Ingarden, một triết gia theo trường phái Hiện tượng học nhưng ông muốn đưa triết học vào lí luận văn học và ông cho ra đời cuốn sách “Tác phẩm văn học”. Theo R. Ingarden tác phẩm văn học như là khách thể mang tính chủ ý. Và như là khách thể mang tính chủ ý thì đời sống của tác phẩm văn học cũng “phụ thuộc vào những hoạt động cụ thể hoá (đọc) văn bản có chủ ý của người đọc hướng tới nó” [18,tr166]. Một mặt, tồn tại một văn bản văn học như là sản phẩm sơ lược với nhữnh chỗ trống và những sự việc chưa xác định giống như một bộ xương. Mặt khác, thông qua sự cụ thể hoá (đọc) như là hoạt động của ý thức hướng về nó mà bộ xương được đắp thêm da thịt và tác phẩm văn học hình thành. Tính chất của sự cụ thể hoá phụ thuộc vào người đọc, bởi vì nhà nhà văn khi viết đã có ý tạo ra sự vô tình. Từ những chi tiết, hình ảnh được miêu tả dường như không chính xác, mỗi người đọc sẽ cấp cho chi tiết, hình ảnh là của riêng mình mà nhà văn không kiểm soát được. Bản thân tác phẩm sẽ hiện ra đúng với diện mạo của nó nếu gặp được sự cụ thể hoá(đọc) lí tưởng. Sự cụ thể hoá văn bản của người đọc mà R. Ingarden nói ở đây chính là hoạt động 19 có chủ ý hướng tới đối tượng. Văn học khác với nghệ thuật khác ở chỗ, nó có khả năng mời gọi người đọc cụ thể hoá những tình huống không chính xác trong tác phẩm. Đó là sức hấp dẫn của tác phẩm văn học. Nhà văn như người “tạo việc làm” cho người đọc. Khi ta đọc văn bản là ta đọc “sai”, vì ý nghĩ của ta không trùng khít với tác giả. Văn bản văn học có tính chất mơ hồ không chính xác, nên người đọc phải là người đồng sáng tạo, bằng cách cụ thể hoá văn bản để lấp đầy những sự mơ hồ và không chính xác đó. Bản thân văn bản văn học, theo quan điểm của Ingarden, là hai lần có ý thức, lần một là ý thức của tác giả, lần hai là ý thức của độc giả. Không lần nào phủ nhận lần nào, chỉ có thể là lần một diễn ra sẽ có lần hai. Tác phẩm sau khi xuất bản sẽ trôi nổi, nó chỉ sống khi có ý thức của độc giả hướng tới. Với sự xuất hiện của Mĩ học tiếp nhận, lí luận văn học quan tâm nhiều đến độc giả- người cụ thể hoá cho văn bản. Từ đây văn bản văn học mang thông điệp đối thoại có được vị thế mới: làm đối tác đối thoại. Đây là một đóng góp có ý nghĩa lí luận của Mĩ học tiếp nhận nói chung và lí luận văn học hậu hiện đại nói riêng. Trong thực tế, trường phái mỹ học tiếp nhận Konstanz(Đức) đã tập hợp được nhiều nhà khoa học xuất sắc trong đó có Wolfgang Iser và Hans Robert Jauss. Hai nhà khoa học này, bên cạnh những quan điểm tương đồng cũng có những quan điểm khác nhau về lý thuyết tiếp nhận. Theo quan điểm của W. Iser, khi ta tiếp cận với một văn bản luôn có một thứ người đọc tiềm ẩn trong văn bản. Ông không cho rằng tác giả đã “chết” mà vẫn như vô hình định hướng cho người ta hiểu tác phẩm, đó là người đọc tiềm ẩn mách nước cho ta đi theo hướng nào đó để khám phá tác phẩm. Còn H . R. Jauss, trong công trình “Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học”[33], cho rằng, tác phẩm văn học như là quá trình chứ không phải sản phẩm cố định. Nghĩa là, dòng sông ngữ nghĩa vẫn luôn trôi, nghĩa của tác phẩm không phụ thuộc vào chủ ý của tác giả, ý nghĩa 20 của tác phẩm văn học có được trong tinh thần tiếp nhận của người đọc, vì thế nó vẫn là quá trình. Jauss cũng nhấn mạnh khái niệm “tầm đón đợi”, rằng mỗi người đọc có một tầm đón đợi khác nhau trước tác phẩm. Công trình này của ông được coi như là tuyên ngôn của trường phái mỹ học tiếp nhận Đức. Với những thành tựu của tư duy lí luận hiện đại và hậu hiện đại, Mĩ học tiếp nhận đã bác bỏ tính chất khép kín của văn bản văn học mà mĩ học sáng tạo trước đây vẫn bảo vệ, thay vào đó là tính chất mở và dấu ấn cá nhân. Mĩ học tiếp nhận nêu lên những giá trị dễ thay đổi, trực tiếp gắn liền với cá nhân người đọc thông qua quá trình cụ thể hoá văn bản. Vì vậy tiếp nhận văn bản không phải là quá trình đi tìm chủ ý của tác giả. Văn bản văn học cần đến người đọc lí tưởng để thiết lập đời sống cho tác phẩm văn học. Người tiếp nhận đối thoại và tái tạo tác phẩm và tác phẩm tái tạo người đọc. "Từ đây lịch sử văn học không chỉ đơn giản là con số cộng các tác giả tác phẩm mà còn được hiểu là các tác phẩm và người tiếp nhận trong những biến chuyển lịch sử của nó"[18,tr167]. Như vậy, sự chuyển đổi hệ hình tư duy của lí luận văn học trước những thành tựu của lý thuyết tiếp nhận là một lẽ tất yếu. Nếu lí luận truyền thống nghiêng về chủ thể sáng tạo, lí luận hiện đại nghiêng về văn bản thì lí luận hậu hiện đại quan tâm đến người đọc. Quá trình vận động từ mỹ học sáng tạo đến mỹ học tiếp nhận cho ta thấy lí luận văn học hậu hiện đại đã có cơ sở để thể hiện tham vọng lấy mỹ học tiếp nhận thay cho mỹ học sáng tạo. 2. Mối quan hệ giữa văn bản và tác giả Theo quan niệm của tư duy lí luận truyền thống(thuật ngữ truyền thống ở đây được hiểu là những quan niệm văn học trở nên quen thuộc, ăn sâu vào ý thức văn học, từng chi phối văn học qua nhiều thế hệ – tính từ thời cổ đại đến hết thế kỷ XIX), tác phẩm văn học là nơi để chuyển tải tư tưởng, kí thác tâm sự của tác giả, sự ý thức về mối quan hệ tác giả và tác phẩm dù chưa hiện diện
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất