Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề nhận thức lại thực tại trong tiểu thuyết thời xa vắng của lê lựu...

Tài liệu Vấn đề nhận thức lại thực tại trong tiểu thuyết thời xa vắng của lê lựu

.PDF
116
38
139

Mô tả:

1 Lời cảm ơn Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Tôn Thảo Miên, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, nhà trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập. Xin chân thành gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã dành sự ủng hộ, chia sẻ, giúp đỡ quí báu để tôi hoàn thành luận văn này. Hà Nội, tháng 6 năm 2011 Tác giả Đào Thị Thùy Giang 2 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. 3 MỤC LỤC Trang Lời cảm ơn…………………………………………………………………1 Lời cam đoan………………………………………………………………2 Mục lục…………………………………………………………………….3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài…………………………………………………………5 2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………10 3. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………………10 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………….11 5. Phương pháp nghiên cứu…………………………...................................12 6. Đóng góp của luận văn…………………………………………………..12 NỘI DUNG Chương 1 Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy văn học thời kì đổi mới................13 1.1. Bức tranh văn học Việt Nam thời kì đổi mới………………………….13 1.2. Lê Lựu - sáng tác và quan niệm về nhận thức lại thực tại……………..17 1.2.1. Quá trình sáng tác của Lê Lựu……………………………………….17 1.2.2. Quan niệm về nhận thức lại thực tại…………………………………19 1.2.3. Nhận thức lại - cảm hứng chủ đạo trong Thời xa vắng ……………..21 1.2.4. Tiểu thuyết Lê Lựu và vấn đề nhận thức lại thực tại ………………..26 Chương 2 Nội dung nhận thức lại trong Thời xa vắng……………………………...31 2.1. Nhận thức lại vấn đề xã hội…………………………………………….31 2.1.1. Vấn đề chiến tranh……………………………………………………31 2.1.2. Vấn đề nông thôn……………………………………………………..43 2.1.2.1. Đời sống nông thôn………………………………………………....43 4 2.1.2.2. Bản chất người nông dân……………………………………………52 2.2. Vấn đề con người cá nhân………………………………………………58 2.2.1. Cá tính con người ………………………………………………... … 58 2.2.2. Hạnh phúc cá nhân……………………………………………............71 2.3. Nhận thức lại vấn đề văn học …………………………………………..74 2.3.1. Nhận thức lại quan niệm về hiện thực………………………………...75 2.3.2. Nhận thức lại quan niệm về con người……………………………......76 2.3.3. Nhận thức lại vai trò của văn học…………………………………... ..78 Chương 3 Cách tân nghệ thuật gắn với nhu cầu nhận thức lại thực tại……………81 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ……………………………………….....81 3.1.1. Đặt nhân vật trong tình huống xung đột………………………………83 3.1.2. Đặt nhân vật trong tương quan tính cách và số phận……………… 88 3.1.3. Khai thác quá trình tự ý thức của nhân vật …………………………...92 3.2. Ngôn ngữ……………………………………………………………… .94 3.2.1. Ngôn ngữ đời thường, cá tính hóa…………………………………….95 3.2.2. Ngôn ngữ đậm chất triết lí…………………………………………….99 3.3. Giọng điệu……………………………………………………………..101 3.3.1. Giọng chiêm nghiệm, triết lí ………………………………………..103 3.3.2. Giọng tiếc nuối, cảm thương………………………………………...105 3.3.3. Giọng mỉa mai, giễu nhại …………………………………………..106 KẾT LUẬN..................................................................................................109 THƯ MỤC THAM KHẢO……………………………………………….111 5 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Văn học là hoạt động nhận thức và sáng tạo thẩm mỹ theo qui luật của cái đẹp. Đối tượng nhận thức của nó là toàn bộ hiện thực. Những hiểu biết trong tác phẩm giúp văn học trở thành cuốn bách khoa toàn thư về đời sống xã hội. Nhờ khả năng đi sâu khám phá nhiều chiều kích khác nhau của đời sống và tâm hồn, văn học có khả năng nhận thức cuộc sống, khám phá thực tại và thức tỉnh ý thức con người. 1.2. Sau chiến thắng năm 1975, đất nước bước vào giai đoạn hòa bình. Đổi mới trở thành nhu cầu cấp thiết trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Văn học có sự thay đổi tư duy nghệ thuật dẫn đến đổi mới quan niệm về hiện thực, con người, sáng tạo nghệ thuật… đòi hỏi người viết phải có cái nhìn mới, thỏa đáng hơn cho những vấn đề đang tồn tại và nảy sinh trong cuộc sống. Người đọc có nhu cầu nhìn hiện thực toàn vẹn trên nhiều phương diện chứ không chỉ thiên về hiện thực của mơ ước như trong văn học trước 1975. 1.3. Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đáp ứng nhu cầu đổi mới toàn diện đất nước. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị, cuộc gặp gỡ của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987 thổi một luồng gió mới vào đời sống văn học nghệ thuật, mở ra thời kì đổi mới của văn học Việt Nam trên tinh thần đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật. Khuynh hướng Nhận thức lại thực tại với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản trở thành xu hướng mới của văn học. Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu được coi là tác phẩm khơi nguồn cho khuynh hướng này và trở thành sự kiện văn học nổi bật trong những năm 1986 - 1987. 1.4. Tác dụng nhận thức không phải là chức năng duy nhất của văn học. Nhưng trong thời đại mà “con người nhìn mọi vật xung quanh và số phận của mình hết sức tỉnh táo thì khả năng hiểu biết và khám phá này của văn 6 nghệ cần phải đề cao hơn bao giờ hết” [65, tr.85], Nhận thức lại thực tại để hướng tới tạo dựng cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn hơn cho con người trên những giá trị nhân bản. Thời xa vắng là tâm huyết của nhà văn Lê Lựu “Phải viết một cái gì về thân phận con người” [73, tr.95]. Nhà văn khám phá cuộc sống từ trải nghiệm của cá nhân để có góc nhìn mới về vấn đề vốn không mới. Thời xa vắng đã chạm đến tầng sâu thẳm trong tâm hồn con người bằng tinh thần tự “mổ xẻ” bản thân thẳng thắn và quyết liệt. Từ bi kịch cá nhân, nhà văn đi đến soi sáng vấn đề của thời đại mình. Tiếp cận Vấn đề nhận thức lại thực tại trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, người viết mong có được hiểu biết về một chiều hướng vận động của văn học Việt Nam thời kì đổi mới, bổ sung kiến thức cho bài giảng về văn học hiện đại ở trường phổ thông đồng thời học tập một cách nhìn cuộc sống trong diện mạo phức tạp nhưng đầy hấp dẫn của nó. Lê Lựu được coi là một trong những nhà văn tiên phong trong đổi mới văn học. Thời xa vắng là tác phẩm hấp dẫn bạn đọc ngay khi xuất hiện. Bởi vậy, đã có khá nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về nhà văn Lê Lựu và sự nghiệp sáng tác của ông. Trong đó, nhiều bài đã dành sự quan tâm đặc biệt cho tiểu thuyết Thời xa vắng. 1. Đánh giá chung về Lê Lựu và các sáng tác của ông Nhà thơ Trần Đăng Khoa có nhiều nhận xét độc đáo, tinh tường về Lê Lựu. Đánh giá chung về sáng tác của nhà văn, ông cho rằng: “Lê Lựu biết cuốn hút người đọc bằng một thứ văn đọc không nhạt. Ngay ở những chuyện xoàng xoàng, người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đó(...) nghĩa là đọc anh không bị lỗ trắng. cũng bởi Lê Lựu là nhà văn không chấp nhận sự nhạt nhẽo, tầm thường. Ở bất kì tác phẩm nào dù lớn hay nhỏ Lê Lựu cũng có vấn đề gì đấy gửi gắm” [73, tr.669]. Nhà phê bình Ngô Thảo nhận xét: “Lê Lựu là một người đang tìm tòi. Truyện nào của anh cũng tìm được những nét tính cách mới, những hướng 7 khai thác vấn đề mới. Anh có năng lực quan sát khá nhạy bén, sắc sảo và một bút lực đủ sức cắt rời những mảng đời bề bộn tươi nguyên vào trang sách, cái khả năng rất đáng quý ở một cây bút trẻ” [84]. Tác giả Lê Hồng Lâm trong bài viết: Nhà văn Lê Lựu “Đi đến tận cùng tính cách nhân vật” có nhận xét xác đáng “Quyết liệt - có thể gọi tên cái tính cách đó của nhà văn Lê Lựu trong cuộc sống đời thường cũng như khi ông thể hiện nó trên trang viết (…) Ông luôn viết hết mình như ông sống, yêu ghét rạch ròi và đặc biệt là đi đến tận cùng tính cách của nhân vật” [73, tr.703]. Trần Bảo Hưng cho rằng “Thô mộc hồn nhiên và đầy ắp chất sống ngay cả khi nghĩ ngợi triết lí cũng rất hồn nhiên, cũng là triết lí bật lên trực tiếp từ đời sống. Tất cả dường như đã trở thành phong cách, thành cá tính của Lê Lựu” [30]. Tác giả Đinh Quang Tốn nhận xét “Văn Lê Lựu có giọng riêng, có duyên riêng”, “ Không rành rẽ, không mạch lạc nhưng có một chất nhựa gì đấy ở bên trong”[73, tr.659]. Ông đưa ra nhận định về vị trí của nhà văn Lê Lựu “ Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu, thì Lê Lựu là một trong số sáu mươi nhà văn ấy” [73, tr.663]. Những ý kiến trên đều thống nhất đề cao tâm huyết của Lê Lựu trong sáng tạo nghệ thuật, khẳng định những trang văn của ông thể hiện phong cách độc đáo, đánh giá cao vị trí của Thời xa vắng trong văn học Việt Nam thời kì đổi mới. 2. Đánh giá về tiểu thuyết Thời xa vắng Ngay khi ra đời, Thời xa vắng đã thu nhận nhiều ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu. Tác giả Phong Lê cho rằng Thời xa vắng là “sự đón nhận trước yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật và nhận thức lại lịch sử được đề ra với Đại hội VI, cuối năm 1986” [40]. 8 Tác giả Nguyễn Hòa nhận thấy Thời xa vắng là sự “đi tìm lại những chân giá từng bị đánh mất, từng bị lãng quên”. “Viên đại bác Thời xa vắng khoan thủng các tấm màn vô hình che giấu nhiều điều lâu nay chúng ta không rõ tới. Quá khứ đâu chỉ là chiếc bánh ngọt ngào mà có cả vị đắng cay” [26]. Nguyễn Văn Long trong bài “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử Văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975” in trong Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy cho rằng “Vào nửa cuối những năm 80 và đầu những năm 90 đã phát triển mạnh xu hướng nhận thức lại thực tại với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản [41, tr.11]. Tác giả nói đến sự biến đổi theo xu hướng dân chủ hóa của văn học “Văn học thời kì này không hề từ bỏ vai trò vũ khí tinh thần - tư tưởng của nó, nhưng nó được nhấn mạnh trước hết ở sức mạnh khám phá thực tại và ý thức thức tỉnh về sự thật, ở vai trò dự báo, dự cảm” [41, tr.14] Theo tác giả, tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu được coi là tác phẩm khơi dòng cho khuynh hướng “Nhận thức lại”, “Nhìn thẳng vào sự thật” của văn học thời kì đổi mới. Tác giả Nguyễn Văn Lưu khẳng định tác phẩm “phản ánh sinh động và chân thực quá trình chuyển biến trong cách nhìn nhận đánh giá lại thực tại”; “Tác giả đã thể hiện những sự đổi mới cái nhìn vào hiện thực với nhu cầu cấp thiết phải nhận thức lại thực tại” [42]. Tác giả Kim Hồng trong bài viết in trên tạp chí văn học số 5 năm 1988 cũng có nhận xét “Thời xa vắng của Lê Lựu là một tác phẩm giàu năng lượng thật sự”; “Tác phẩm đã cảnh tỉnh con người tự nhận thức lại mình tự mình đi tìm lại những giá trị nhân bản đã từng bị lãng quên, bị làm mất. Và chỉ có như vậy, năng lượng tính người trong con người và cuộc sống xã hội mới được khởi động lại, mới phát huy tính tích cực xã hội của nó” [27]. Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn trong bài viết “Một đóng góp vào việc nhận dạng con người Việt Nam hôm nay” cho rằng “Lê Lựu chỉ nói riêng về con người, những mối quan hệ giữa người với người. Một vấn đề 9 muôn thủa mà cũng là vấn đề chúng ta nói đi nói lại rất nhiều (…) làm thế nào để giúp con người nhận thức về chính mình đầy đủ hơn từ đó tìm được cách sống hợp lí hơn, đấy là nhiệm vụ thiêng liêng mà mọi nền văn học chân chính xưa nay muốn đảm nhận” [71]. Trong cuốn Văn xuôi Việt Nam 1975 - 1995 những đổi mới cơ bản, tác giả Nguyễn Thị Bình nhận định Nhận thức lại là một khuynh hướng vận động của văn học sau 1975. “Khuynh hướng này thường lấy quá khứ làm đối tượng phân tích, không phải là toàn bộ quá khứ mà là những phần khuất lấp, những vấn đề chưa được văn học thời kì trước quan tâm đúng mức” [10, tr.201]. Mai Hải Oanh tác giả chuyên luận Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại giai đoạn 1986 - 2006 cũng cho rằng “Mỗi lần lịch sử sang trang, con người lại có nhu cầu nhận thức lại lịch sử và bản thân mình. Trong quá trình nhận thức ấy, họ nhìn ra giới hạn của thời đã qua, nhận thấy sự ấu trĩ của mình trong quá khứ” [77, tr.100]. Tác giả cũng phân chia các nhân vật trong văn học thời kì này thành nhân vật tự ý thức, nhân vật bi kịch, nhân vật tha hóa, nhân vật dị biệt. Trong đó, nhân vật tự ý thức gồm nhân vật giác ngộ ý thức cá nhân, nhân vật nhận thức lại lịch sử, nhân vật “tự thú” và “sám hối”. Như vậy, có thể thấy rằng Thời xa vắng là cuốn tiểu thuyết được đánh giá cao ở khả năng mang đến những nhận thức lại về thực tại trên quan điểm nhân văn. Mặc dù vẫn có những ý kiến trái chiều như nhận xét của tác giả Mai Ngữ trong bài “Cái tâm và cái tài của người viết” đánh giá “cuốn tiểu thuyết Thời xa vắng cũng là một thứ tâm lí chối bỏ quá khứ, một thứ quá khứ nặng nề và cay nghiệt” [70] . Một số ý kiến khác chỉ ra nhược điểm của Lê Lựu về kết cấu yếu, câu chữ rối, rậm…Nhìn chung các tác giả đều cho rằng Thời xa vắng là tác phẩm tiêu biểu cho văn học thời kì đổi mới. Có khá nhiều khóa luận và luận văn chọn tiểu thuyết của Lê Lựu làm đối tượng nghiên cứu. 10 Những công trình này phần lớn đều khai thác sâu sắc, công phu, có hệ thống tiểu thuyết Lê Lựu trên những phương diện khác nhau, đưa ra nhận định khái quát về tiểu thuyết Lê Lựu và đóng góp của nhà văn trên phương diện sáng tạo nghệ thuật. Một số công trình nghiên cứu về thế giới nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con người, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu… Vấn đề nhận thức thực tại được đề cập đến trong một số bài báo và công trình nghiên cứu. Các tác giả đều khẳng định Nhận thức lại thực tại là phương diện tạo nên giá trị đặc sắc cho tiểu thuyết Lê Lựu và là một khuynh hướng sáng tác của văn học thời kì đổi mới nhưng những tìm hiểu riêng về vấn đề này trong Thời xa vắng, một trong những cuốn tiểu thuyết tiên phong của văn học thời kì đổi mới, thì hầu như chưa có. Thời xa vắng không chỉ được đánh giá là tác phẩm mở đầu cho xu hướng sáng tác Nhận thức lại thực tại mà còn thể hiện khá đầy đủ các vấn đề thực tại mang ý nghĩa xã hội sâu sắc trong văn học thời kì đổi mới. Người viết muốn thông qua việc tìm hiểu về Vấn đề nhận thức lại hiện thực trong tiểu thuyết Thời xa vắng để khẳng định tính chất tiên phong trong quá trình đổi mới văn học của tác phẩm đồng thời tìm hiểu về đóng góp của nhà văn Lê Lựu trong tiến trình văn học dân tộc. 2. Mục đích nghiên cứu - Khẳng định vị trí của tác phẩm Thời xa vắng trong sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu nói riêng và trong văn học thời kì đổi mới nói chung. - Khái quát những vấn đề được nhận thức lại trong tiểu thuyết Thời xa vắng. - Tìm hiểu sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác phẩm. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn của chúng tôi tập trung giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu chính sau 11 3.1 Khái quát bức tranh văn học Việt Nam thời kì đổi mới văn học và vị trí của tiểu thuyết Thời xa vắng trong dòng chảy văn học thời kì này. 3.2 Phân tích các phương diện đời sống thực tại được nhận thức lại trong tác phẩm. 3.3 Làm rõ cách tân nghệ thuật gắn với vấn đề nhận thức lại thực tại trong tiểu thuyết Thời xa vắng. 3.4 Tìm hiểu ý nghĩa của vấn đề nhận thức lại thực tại trong văn học sau đổi mới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Phạm vi nghiên cứu * Đề tài chủ yếu khảo sát tiểu thuyết Thời xa vắng * So sánh với 5 tiểu thuyết khác của Lê Lựu - Đại tá không biết đùa - Chuyện làng Cuội - Sóng ở đáy sông - Hai nhà - Thời loạn 4.2. Đối tượng nghiên cứu Tiểu thuyết Thời xa vắng được khám phá trên các phương diện hệ thống nhân vật, thế giới nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con người…Người viết nhận thấy sức hấp dẫn của tiểu thuyết này thể hiện rõ khi các vấn đề khá gai góc của đời sống xã hội được nhận thức lại trên tinh thần dân chủ. Quan niệm mới khiến nhiều vấn đề quen thuộc, bình dị bộc lộ lớp ý nghĩa nhân bản lớn lao. Do vậy, người viết chọn tìm hiểu về Vấn đề nhận thức lại thực tại trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu để tìm hiểu một phương diện giá trị của tác phẩm đồng thời hiểu thêm một về một xu hướng của văn học thời kì đổi mới. 12 5. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp hệ thống, phân loại, phân tích. Trong đó, so sánh là phương pháp được chú trọng đặc biệt để làm nổi bật vấn đề được nhận thức trong tác phẩm. 6. Đóng góp của luận văn Từ việc hệ thống những khía cạnh khác nhau của vấn đề thực tại được nhận thức lại trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, người viết muốn khẳng định sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn và tìm hiểu vấn đề nhận thức lại thực tại như một nét đặc trưng của văn học thời kì đổi mới. 13 NỘI DUNG Chương 1 TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG DÒNG CHẢY VĂN HỌC THỜI KÌ ĐỔI MỚI 1.1. Bức tranh văn học Việt Nam thời kì đổi mới Sau năm 1975, chiến tranh kết thúc mở ra một trang mới cho lịch sử dân tộc. Cuộc sống dần trở lại quĩ đạo vốn có của thời bình nhưng văn học vẫn xuôi theo quán tính cũ. Khoảng mười năm sau chiến tranh, văn học Việt Nam bỗng rơi vào tình trạng mất dần độc giả. Giữa tác phẩm và bạn đọc có một “khoảng chân không” tạo nên sự lệch pha: “Trong khi các nhà văn chúng ta say sưa: Bây giờ hòa bình, vốn sống tích lũy bao nhiêu năm ăm ắp như “cá tức trứng” muốn đẻ lắm rồi, thì giờ thì thừa mứa ra đó, bom đạn căng thẳng hết rồi, vật chất cũng đỡ khốn đốn hơn nhiều, tha hồ mà viết, viết cho hết, cho đã…thì bỗng dưng cái mối quan hệ vốn rất thắm thiết máu thịt giữa văn học và công chúng, giữa sáng tác và người đọc đột nhiên lạnh nhạt hẳn đi, hẫng hụt hẳn đi. Người đọc mới hôm qua còn mặn mà thế mà bỗng dưng bây giờ quay lưng lại với anh. Họ không thèm đọc anh nữa. Sách anh viết ra, hăm hở dày cộm nằm mốc trên các quầy. Người ta bỏ anh. Người ta đi đọc sách Tây và đọc …Nguyễn Du” [69]. Sự lệch pha này ban đầu gây hoang mang cho người cầm bút nhưng rồi chính họ đã tìm ra câu trả lời đích đáng. Chiến tranh lùi xa, cuộc sống thay đổi rất nhiều nhưng văn học lại không khác trước kia là mấy. Nhịp sống đời thường không hề giản đơn, xuôi chiều, những mặt còn khuất lấp trong chiến tranh nay trở nên cấp thiết và đòi hỏi vị trí xứng đáng của nó. Vô vàn câu hỏi đặt ra cho con người trong dòng chảy xô bồ của cuộc sống đời thường đòi hỏi phải có câu trả lời thỏa đáng. Nhiều quan niệm mang tính chuẩn mực trước đây không còn giữ được sức thuyết phục. Người đọc tìm đến văn học với khao khát tìm hiểu sự thật, muốn khám phá cuộc sống 14 phong phú, phức tạp như diện mạo đích thực của nó. Họ muốn có được nhận thức chân xác về cuộc đời để tìm cho mình bài học nhân sinh thế sự. Các nhà văn đón nhận nhu cầu này như một thách thức trong quá trình sáng tạo. Không ít nhà văn trăn trở, tìm cách đổi mới tư duy nghệ thuật trong việc phản ánh hiện thực để đáp ứng nhu cầu đổi mới văn học. Nguyễn Minh Châu được coi là nhà văn tiên phong, người mở đầu tinh anh trong công cuộc đổi mới văn học. Ông kêu gọi “ Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh, các nhà văn phải tự “cởi trói” trong sáng tác” [14]. Nhà văn Nguyên Ngọc đề nghị “ Phát huy đầy đủ chức năng xã hội của văn học nghệ thuật” khắc phục tình trạng văn nghệ chỉ làm nhiệm vụ “minh họa chính trị”. [68] vì cuộc sống đâu phải phẳng lì, đơn điệu, nó phức tạp, xù xì, gai góc và đó mới là khuân mặt đích thực của nó. Nhiều nhà văn đánh giá lại sáng tác của chính mình trên quan điểm đổi mới. Nguyễn Khải gọi các sáng tác của mình trong giai đoạn 1945 - 1975 là “cái thời lãng mạn” còn nhà văn Lê Lựu cho rằng các sáng tác của ông trước Thời xa vắng là “văn học sự vụ”, văn học công việc” và tuyên bố: “Tôi tự bảo không thể viết như trước được nữa” [98]. Các cuộc hội thảo về mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, mối quan hệ giữa văn học và hiện thực thu hút sự tham gia đông đảo của các nhà văn, nhà phê bình. Nhờ đó, nhiều nhận thức xác đáng về các vấn đề có ý nghĩa định hướng cho văn học được khẳng định. Trong điều kiện lịch sử nhất định, văn học cần phục vụ mục tiêu trọng đại giải phóng dân tộc nhưng trong hoàn cảnh mới, văn học cần phát huy bản chất đặc thù của mình. Hiện thực mà văn học hướng đến cần được hiểu là hiện thực cuộc sống con người với tất cả sự phong phú, phức tạp của nó. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) là sự kiện lịch sử có tác động sâu sắc đến văn học nghệ thuật. Nó tạo bầu không khí dân chủ, khuyết khích nhà văn tích cực tìm tòi, thể nghiệm những sáng tạo mới mẻ. Tổng bí thư 15 Nguyễn Văn Linh kêu gọi “đổi mới tư duy”, “nhìn thẳng vào sự thật”. Nghệ sĩ cần được tự do trong sáng tác và bày tỏ nhận thức về cuộc sống bằng trải nghiệm của của mình. Nhận thức lại thực tại không còn là nhu cầu của cá nhân nghệ sĩ mà còn là nhu cầu của thời đại. Những quan niệm mới mẻ về văn hóa, văn nghệ của Đảng làm thay đổi quan điểm và nhận thức về văn học. Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa, trước hết là trong nhận thức về con người. Văn xuôi trước 1975 nhìn nhận con người và các giá trị của nó theo nguyên tắc của giai cấp xã hội. Theo đó, các nhân vật thuộc giai cấp công - nông - binh thường được lí tưởng hóa mang bản chất tốt đẹp của giai cấp mình; địa vị cao mang lại cho con người khả năng tiếp cận chân lí và hoàn thiện mình hơn; con người có sự phân định rành rọt tốt - xấu, phải - trái. Do đó, các đối tượng có thể được qui vào khuân mẫu nhất định. Sự phản ánh này không tránh khỏi sự phiến diện trong đánh giá về con người. Thời kì đổi mới, khuynh hướng dân chủ hóa giúp nhà văn nhìn nhận cuộc sống đa chiều và con người bình đẳng trong sự quan sát và phản ánh của nhà văn. Con người với tính cách và số phận cá nhân trở thành đối tượng khám phá đến tận cùng bản chất. Con người là sự tổng hòa, đan xen của nhiều mối quan hệ và phẩm chất, có sự cao thượng bên cạnh cái thấp hèn, lí tưởng đan xen với dục vọng, cái xấu xen lẫn vào cái đẹp. Bản chất đích thực của con người nhiều khi không trùng khít với giá trị và sự thể hiện bên ngoài của nhân vật. Xóa bỏ nguyên tắc cứng nhắc trong nhận thức về con người, văn xuôi sau đổi mới có được sự phong phú trong miêu tả, thể hiện và đi đến khám phá toàn vẹn về đối tượng này. Hiện thực trong văn học thời kì đổi mới được nới rộng phạm vi thể hiện. Không chỉ có hiện thực cách mạng, các biến cố trong đời sống cộng đồng mà còn có hiện thực của cuộc sống hàng ngày với các quan hệ thế sự phức tạp, đời sống cá nhân riêng tư với hạnh phúc, khát vọng, bi kịch của riêng nó. Nhiều mảng hiện thực mới được bổ sung khiến văn học có khả năng 16 đi sâu, thâm nhập vào những ngóc ngách của đời sống xã hội và tâm hồn con người. Dường như không còn có những vùng đất cấm kị với văn xuôi. Những vùng hiện thực một thời phải né tránh nay lại có sức thu hút mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Những quan niệm ấu trĩ, sai lầm trong quá khứ được lật xới trên tinh thần nhận thức lại. Những tiêu cực, bất cập trong đời sống được phanh phui, mổ xẻ với thái độ thẳng thắn, nghiêm khắc nhằm mang lại nhận thức sâu sắc hơn về thực tại. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên cơ sở tinh thần nhân bản là nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo bao trùm văn học sau 1975. Văn học mở rộng đề tài, chủ đề và ngày càng đi tới quan niệm toàn vẹn, sâu sắc hơn về con người. Con người là điểm xuất phát, đối tượng khám phá và đích đến cuối cùng của văn học. Đồng thời, con người cũng là điểm qui chiếu và thước đo của mọi vấn đề xã hội. Nhưng con người lại là một thực thể đa dạng của ý thức và vô thức, con người tư tưởng và bản năng, khát vọng và dục vọng…cho nên văn học cũng cần đi đến nhận thức toàn diện trên cơ sở nhiều bình diện khác nhau của đời sống. Trong thời kì chiến tranh và cách mạng, văn học nhìn con người chủ yếu ở tư cách công dân, giai cấp mà bỏ qua các bình diện khác. Nếu có đề cập đến thì các khía cạnh khác luôn được qui chiếu bằng các giá trị có tính chất cộng đồng chứ không phải con người như một cá thể, thực thể sống. Nhân vật có thể qui vào chính diện hay phản diện, tích cực hay tiêu cực và được phân chia theo các tầng lớp xã hội, giai cấp nông dân, công nhân, người lính, bà mẹ, phụ nữ…Văn xuôi thời kì đổi mới rất khó có thể có một bảng liệt kê bao quát được hết các loại nhân vật vì sự phong phú trong thể hiện con người. Con người với trăm ngàn mảnh đời khác nhau “đầy vết dập xóa trên thân thể và trong tâm hồn”. Các tác giả không chỉ đi sâu vào thân phận con người mà còn đề cập đến khát vọng sống, hạnh phúc cá nhân, tình yêu đôi lứa. 17 Vào nửa cuối những năm 80 đầu những năm 90, khuynh hướng Nhận thức lại thực tại với cảm hứng phê phán trên tinh thần nhân bản phát triển mạnh mẽ. Tiểu thuyết Thời xa vắng được coi là tác phẩm khơi dòng cho khuynh hướng này. Vấn đề chiến tranh, nông thôn, con người và các giá trị sống được coi là tâm điểm của sự nhận thức lại. Bức tranh hiện thực nhiều mảng tối trước đây bị khuất lấp nay đã hiện trên trang sách xót xa, nhức nhối về nhận thức lầm lạc của một đời người, của cả thế hệ. Nhiệt tình xã hội, khát vọng dân chủ và tinh thần nhìn thẳng vào sự thật là động lực cho văn học thời kì đổi mới phát triển mạnh mẽ. Tư duy văn học mới đã hình thành làm thay đổi các quan niệm về con người, vai trò, chức năng của văn học đồng thời, sự đổi mới tư duy nghệ thuật cũng thúc đẩy mạnh mẽ sự tìm kiếm, thể nghiệm các thủ pháp, bút pháp nghệ thuật, phát huy cá tính và phong cách cá nhân của nhà văn. Xu thế hội nhập, giao lưu với văn hóa thế giới khiến văn học ngày càng gia tăng tính hiện đại. Từ giữa những năm 90 (thế kỉ XX) đến nay, văn học về cơ bản vẫn đi theo xu hướng đổi mới đã hình thành từ giữa những năm 80. Nếu như trước đó, động lực thúc đẩy đổi mới văn học là tinh thần trong sáng tạo thì văn học gần đây quan tâm nhiều hơn đến sự đổi mới chính nó. Hình thức nghệ thuật, phương thức biểu hiện mới mẻ là thử nghiệm trong sáng tác của nhiều nhà văn. Văn xuôi có nhiều đổi mới về nghệ thuật tự sự, nghệ thuật xây dựng nhân vật. Các kĩ thuật như dòng ý thức, lắp ghép, hiện thực huyền ảo…không còn xa lạ với bạn đọc. Tuy vậy, độc giả vẫn đang chờ đợi những tác phẩm có giá trị. Sáng tạo vì một nền văn học xứng với tầm vóc dân tộc vẫn là mục tiêu phấn đấu của các nhà văn. 1.2. Lê Lựu - sáng tác và quan niệm về nhận thức lại thực tại 1.2.1 Quá trình sáng tác của Lê Lựu Lê Lựu sinh ngày 12 - 12 - 1942 trong gia đình nhà nho nghèo tại thôn Mẫn Hòa, xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Hiện nay, ông 18 sinh sống ở Hà Nội, vẫn cần mẫn sáng tác và còn kiêm thêm chức danh giám đốc doanh nhân văn hóa. Chặng đường sáng tác của nhà văn khá thăng trầm và nhiều thử thách nhưng ông vẫn kiên định trên con đường nghệ thuật đã chọn. Lê Lựu viết với tâm niệm: “sống thế nào viết thế ấy”, “ tốt nhất là không mượn ai cả”. Hành trình sáng tác của ông có thể tạm chia làm hai thời kì trước và sau thời kì đổi mới văn học. Thời kì trước đổi mới, Lê Lựu làm báo trong quân đội. Năm 1963, truyện ngắn đầu tay của ông ra đời có tên là Tết làng Mụa. Sau đó là một loạt truyện ngắn Trong làng nhỏ, Người cầm súng, Phía mặt trời, Truyện kể từ đêm trước…Song, tiểu thuyết mới là thể loại làm nên dấu ấn đặc sắc của nhà văn. Khi Lê Lựu viết Người về đồng cói, người đọc đã cảm được chất tiểu thuyết trong truyện ngắn này. Đây cũng là tác phẩm mang lại cho nhà văn giải nhất trong cuộc thi sáng tác do Bộ lao động Thương binh Xã hội, Tổng cục Chính trị và Bộ Văn hóa tổ chức. Sau này, tác phẩm được chuyển thể thành kịch bản phim. Năm 1972, Lê Lựu đi Trường Sơn và cho ra đời cuốn tiểu thuyết Mở rừng. Tác phẩm này tiêu biểu cho đề tài chiến tranh và người lính cách mạng. Ngay sau khi miền nam hoàn toàn giải phóng, Lê Lựu vào Sài Gòn và cho ra đời tiểu thuyết Ranh giới. Tác phẩm viết về cuộc truy bắt lực lượng phản động đang tìm mọi cách chống phá cách mạng trong thời kì đất nước mới giải phóng. Thời kì đổi mới, Lê Lựu bắt đầu ấp ủ và viết về những điều tâm huyết nhất, đau đớn nhất với mong muốn “lấp đầy chỗ khiếm khuyết” mà trong chiến tranh, vì mục tiêu giải phóng dân tộc nên văn học chỉ viết về hạnh phúc mà không nói đến bi kịch, đau khổ. Tác phẩm Thời xa vắng đánh dấu sự chuyển hướng trong sáng tác của nhà văn. Sau thành công bước đầu, Lê Lựu viết một loạt tiểu thuyết theo xu hướng này Đại tá không biết đùa (1989), Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1995), Hai nhà (2000), Thời loạn (2009). Hai tiểu thuyết của nhà văn được chuyển thể thành phim là Thời xa 19 vắng và Sóng ở đáy sông. Lê Lựu nhận được một số giải thưởng cho tác phẩm của mình. Giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn Báo Văn nghệ (1967 - 1968) với truyện ngắn Người cầm súng; giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1986) với tiểu thuyết Thời xa vắng. Gần đây nhất, tiểu thuyết Thời loạn ra đời cũng trên tinh thần nhận thức lại thực tại. Đó là dấu hiệu cho thấy bản lĩnh và những trăn trở tìm tòi không ngừng của nhà văn trên con đường nhận thức sâu sắc giá trị sống đích thực của con người. 1.2.2. Quan niệm về nhận thức lại thực tại Nhận thức thuộc về bản chất của hoạt động ý thức. Hoạt động này giúp con người hiểu rõ các đối tượng cần biết đến từ tên gọi, khái niệm đến nghĩa và ý nghĩa; từ hiện tượng đến bản chất; từ hình thức đến nội dung… “Nhận thức thông thường tạo cơ sở cho nhận thức thẩm mỹ - một loại nhận thức sự đặc thù nhằm khám phá mọi hiện tượng dưới ánh sáng của lí tưởng thẩm mỹ và cái đẹp(…) Thực chất đó là sự phát hiện các giá trị tinh thần để nâng cao phẩm cách con người” [65, tr.218]. Nói đến chức năng nhận thức là nói đến khả năng của văn học trong việc cung cấp tri thức, mang đến sự hiểu biết, giúp con người khám phá thế giới hiện thực, phản ánh cuộc sống trong toàn bộ tính tổng hợp toàn vẹn của nó. Văn học trước hết là cái kho chứa khổng lồ những tri thức về đời sống xã hội vì cuộc sống con người là đối tượng nhận thức trung tâm của nó. Văn học nhận thức cái khái quát qua cái cụ thể, cái mới lạ trong cái cụ thể và quen thuộc, khiến con người nâng cao khả năng tự nhận thức. Với người đọc, quá trình nhận thức hiện thực đời sống trong tác phẩm đồng nghĩa với quá trình nếm trải, sống lại từ đầu một biến cố, một tâm trạng, một tình huống hay số phận để giác ngộ, hiểu ra vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội của con người. Bằng hình tượng nghệ thuật, văn học giúp con người nhận thức các giá trị tinh thần kết tinh trong thế giới đối tượng, khơi gợi khả năng biến quá trình nhận thức thế giới khách quan thành quá trình tự nhận thức về bản thân. 20 Nhận thức này được kết tinh trong tính cách nhân vật. Tính cách cũng là nội dung cơ bản của nhân vật văn học. Tính cách kết tinh các quan hệ xã hội của con người. Khám phá các số phận, tính cách khác nhau mang lại cho con người hiểu biết sâu sắc về đời sống. Nhận thức thẩm mỹ của văn học phụ thuộc vào trình độ chung của đời sống và những yêu cầu xã hội đặt ra cho từng thời cho nên có biểu hiện khác nhau giữa các thời kì văn học. Theo tác giả Nguyễn Văn Lưu, trong Thời xa vắng “Nhận thức lại thực tại ở đây không phải là phủ nhận, gạt bỏ những thành quả trí tuệ mà chúng ta đã được. Nhận thức lại thực tại ở đây là yêu cầu ở nhà văn sự khám phá sâu hơn vào những vùng hiện thực mà trước đây do nhu cầu của lịch sử hoặc do sự vận động của thực tại đời sống nên chưa được chú ý đúng mức. Những vùng hiện thực đó đến nay trở nên sôi động và cấp thiết đòi hỏi được nhận thức và phản ánh sâu sắc” [42]. Nhận thức lại được coi là trong những khuynh hướng vận động của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. “ khuynh hướng này thường lấy quá khứ làm đối tượng phân tích, không phải toàn bộ quá khứ mà là những phần khuất lấp, những vấn đề chưa được văn học thời trước quan tâm đúng mức” [10, tr.201]. Tác phẩm viết theo xu hướng này vẫn lấy các sự kiện lịch sử làm nền cho câu chuyện nhưng trung tâm soi ngắm của tác giả là số phận con người. Văn học không dùng con người làm phương tiện biểu đạt lịch sử như trước mà qua thăng trầm của lịch sử mà khắc họa số phận con người. Lịch sử được đánh giá từ cái nhìn nhân bản do đó có nhiều vấn đề được đặt vào “trường” nhận thức lại. Tuy nhiên, Nhận thức lại thực tại không phải là lối “minh họa ngược”, nhìn lại quá khứ bằng định kiến lệch lạc, mặc cảm cá nhân, làm cho hiện thực mất đi tính khách quan, chân thật. Nhu cầu được nói thật đã khơi nên dòng văn học chống tiêu cực phát triển ồ ạt từ giữa những năm tám mươi. Mặt tiêu cực, mặt trái của xã hội và cái xấu, cái ác được phanh phui đến tận cùng. Nhưng “sự thật” hay tính “hiện thực” không phải là
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất