Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em việt nam làm con nuôi theo tư pháp quốc tế v...

Tài liệu Vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em việt nam làm con nuôi theo tư pháp quốc tế việt nam

.DOCX
9
104
147

Mô tả:

MỤC LỤC A, ĐẶT VẤN ĐỀ B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I, Khái quát chung về vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi 1, Khái niệm 2, Căn cứ pháp lý về vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi II, Nội dung pháp luật tư pháp quốc tế Việt nam về vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi 1, Nguyên tắc giải quyết 2, Điều kiện người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi 3, Thủ tục để người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi 4, Hệ quả pháp lý của việc nhận nuôi con nuôi 5, Chấm dứt nuôi con nuôi III, Thực trạng việc thực thi pháp luật về người nước ngoài nhận trẻ em Việt nam làm con nuôi và giải pháp hoàn thiện 1, Thực trạng việc thực thi pháp luật về người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi 2, Giải pháp hoàn thiện pháp luật về người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi C, KẾT THÚC VẤN ĐỀ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 0 A, ĐẶT VẤN ĐỀ Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng giao lưu về mọi mặt giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài thì quan hệ hôn nhân và gia đình trong đó có quan hệ về nuôi con nuôi (NCN) đã và đang là hiện tượng thu hút sự quan tâm của nhiều người trong và ngoài nước. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trở thành vấn đề hợp tác chặt chẽ với cộng đồng quốc tế bảo vệ trẻ em đặc biệt là trẻ em Việt Nam sau khi làm con nuôi người nước ngoài. Sau đây, nhóm chúng em xin chọn đề tài “Vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi theo Tư pháp quốc tế Việt Nam” cho bài tiểu luận của mình. B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I, Khái quát chung về vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi 1, Khái niệm Khoản 5 Điều 3 Luật NCN 2010 xác định “Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài lầ việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài”. Vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi là một khía cạnh của quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Trong đó, người nhận nuôi là người nước ngoài không có quốc tịch Việt Nam và người được nhận nuôi là trẻ em có quốc tịch Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, rất nhiều trẻ em rơi vào hoàn cảnh bất hạnh như: trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật hoặc bố mẹ không có đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng… Trong khi đó, lại có những cặp vợ chồng hiếm muộn hoặc có lòng hảo tâm muốn đón nhận những đứa trẻ ấy để xây dựng cho chúng một mái ấm gia đình. Do vậy, việc nhận nuôi con nuôi nói chung và việc người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi nói riêng từ lâu đã không còn là một hiện tượng xa lạ trong xã hội. Mục đích cơ bản của việc nuôi con nuôi chính là bảo đảm cho người con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục… Điều này không chỉ giúp cho trẻ em có một mái nhà, có đủ điều kiện phát triển mà còn góp phần làm ổn định xã hội, thúc đẩy quan hệ hợp tác của Việt Nam với các quốc gia khác. 2, Căn cứ pháp lý về vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi Quan hệ người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi hiện nay được điều chỉnh bởi hai nguồn: pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Đối với nguồn pháp luật quốc tế, Việt Nam đã ký kết với nhiều quốc gia các Hiệp định tương trợ tư pháp. Tuy nhiên các Hiệp định này chỉ dừng lại ở mức độ quy định về vấn đề áp dụng pháp luật và thẩm quyền giải quyết quan hệ nuôi con nuôi quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng ký kết nhiều Hiệp định về hợp tác nuôi con nuôi quốc tế với các quốc gia nước ngoài với Pháp, Đan Mạch, Italia, Tây Ban Nha… Năm 2011, việc Việt Nam chính thức gia nhập Công ước Lahaye 1993 về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Đối với nguồn quốc gia, Việt Nam đã có một đạo luật riêng để điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nôi có yếu tố nước ngoài nói riêng là Luật NCN 2010 . Cùng với đó là Nghị định số 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn việc thi hành Luật NCN 2010, từ đó đã cụ thể hóa phần nào cơ chế cho việc giải quyết quan hệ người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi cũng như cơ chế xử lý sai phạm trong lĩnh vực này. 1 II, Nội dung pháp luật tư pháp quốc tế Việt nam về vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi 1, Nguyên tắc giải quyết Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 4 Luật NCN 2010 thể hiện quan điểm chủ đạo, xuyên suốt trong quá trình giải quyết vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Theo đó, việc người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải tuân thủ theo ba nguyên tắc: - Thứ nhất, khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc. - Thứ hai, việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. - Thứ ba, chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước. 2, Điều kiện người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi a, Đối với người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi Điều kiện đầu tiên khi người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi quy định tại Khoản 1 Điều 28 Luật NCN 2010. Theo đó, chỉ người nước ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam mới được nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Trường hợp người nước ngoài không thường trú tại Việt nam cũng như nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam chỉ được nhận nuôi con nuôi Việt Nam trong trường hợp nhận nuôi con nuôi đích danh (Khoản 2 Điều 28 Luật NCN 2010). Tại Khoản 1 Điều 29 Luật NCN 2010 quy định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật này”. Như vậy, để được nhận con nuôi tại Việt Nam, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài phải đáp ứng hai điều kiện đó là: điều kiện để nhận nuôi con nuôi của pháp luật quốc gia nơi họ thường trú và điều kiện theo pháp luật Việt Nam tại Điều 14 Luật NCN 2010. Còn đối với người nước ngoài thường trú ở Việt Nam, phải tuân thủ quy định theo Điều 41 Luật NCN. Theo đó, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam phải tuân thủ các điều kiện nhận nuôi con nuôi quy định tại Điều 14 Luật NCN. Đây là những quy định hết sức cần thiết nhằm khẳng định tư cách đạo đức, ý thức pháp luật, điều kiện về thời gian, về kinh tế của người nuôi con nuôi, đảm bảo cho con nuôi được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt nhất, được lớn lên trong môi trường gia đình lành mạnh. Pháp luật Việt Nam đã kết hợp giữa nguyên tắc luật nơi thường trú và luật Việt Nam để điều chỉnh điều kiện của người nhận nuôi. b, Đối với trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi Pháp luật Việt Nam đã quy định chung về điều kiện đối tượng được nhận làm con nuôi, không phân biệt nuôi con nuôi trong nước hay nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Điều 8 Luật NCN quy định độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi như sau: - Trẻ em dưới 16 tuổi - Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu được cha dượng, mẹ kế, cô, dì, chú, bác ruột nhận nuôi. 2 - Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai vợ người là vợ chồng c, Về ý chí của hai bên Người nhận nuôi con nuôi phải thể hiện ý chí của mình về việc mong muốn nhận nuôi đứa trẻ bằng cách làm đơn xin nhận nuôi con nuôi và gửi đến cơ quan có thẩm quyền. Điều 21 Luật NCN 2010 quy định việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ người được nhận làm con nuôi; nếu cha hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên làm con nuôi thì phải được sự đồng ý của trẻ em đó. Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác (Khoản 3 Điều 21). Bên cạnh đó, theo Khoản 4 Điều 21 Luật NCN thì cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày. Quy định này hoàn toàn phù hợp với quy định của Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế. 3, Thủ tục để người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi a, Người nước ngoài thường trú tại nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi Theo quy định của các Hiệp định tương trợ tư pháp, Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi và Luật NCN 2010, cá nhân có nhu cầu nhận con nuôi thì đăng ký nhu cầu nhận con nuôi tại cơ quan có thẩm quyền và lập hồ sơ nhận con nuôi theo quy định của pháp luật Việt Nam theo Điều 31 Luật NCN. Các giấy tờ, tài liệu của hồ sơ do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú lập, cấp hoặc xác nhận. Hồ sơ của người nhận con nuôi được lập thành 2 bộ và nộp cho Bộ Tư pháp thông qua cơ quan trung ương về nuôi con nuôi của nước nơi người nhận con nuôi thường trú; trường hợp nhận con nuôi đích danh thì người nhận con nuôi có thể trực tiếp nộp hồ sơ cho Bộ Tư pháp. Về phía bên được nhận làm con nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ lập hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi sống tại gia đình; cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi sống tại cơ sở nuôi dưỡng. Hồ sơ nói trên được lập thành 3 bộ và nộp cho Sở Tư pháp nơi người được giới thiệu làm con nuôi thường trú. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ của người nhận con nuôi, Sở Tư pháp xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi và báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở Tư pháp trình, Uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh thông báo cho Sở Tư pháp để làm thủ tục chuyển hồ sơ cho Bộ Tư Pháp. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả giới thiệu trẻ em làm con nuôi, Bộ Tư Pháp kiểm tra việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, nếu hợp lệ thì lập bản đánh giá trẻ em Việt Nam đủ điều kiện làm con nuôi nước ngoài và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú. Khi nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú thông báo về sự đồng ý của người nhận con nuôi đối với trẻ em được giới thiệu, xác nhận trẻ em sẽ được nhập cảnh và thường trú tại nước mà trẻ em được nhận làm con nuôi, Bộ Tư Pháp thông báo cho Sở Tư Pháp. Sau đó, Sở Tư Pháp trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài để Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài trong thời hạn 15 ngày. Ngay sau khi có quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước 3 ngoài của Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Tư Pháp thông báo cho người nhận con nuôi đến Việt Nam để nhận con nuôi. Người nhận con nuôi phải có mặt ở Việt nam để trực tiệp nhận con nuôi trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Sở Tư Pháp. b, Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi Cá nhân có nhu cầu nhận con nuôi thì đăng ký nhu cầu nhận con nuôi tại cơ quan có thẩm quyền và lập hồ sơ nhận con nuôi theo quy định của Luật NCN 2010. Hồ sơ của người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi được nộp cho Sở Tư Pháp nới người được giới thiệu làm con nuôi thường trú. Sở Tư Pháp có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, lấy ý kiến của những người có lien quan. Khi xét thấy người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi có đủ điều kiện theo quy định của Luật nuôi con nuôi thì Sở Tư Pháp trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở Tư Pháp trình, Uỷ ban nhân dân quyết định cho người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi. Ngay sau khi có quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư Pháp đăng ký việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch, tổ chức lễ giao nhận con nuôi tại trụ sở Sở Tư Pháp và gửi quyết định cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người nhận con nuôi. Việc giao nhận con nuôi phải được lập thành biên bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên và đại diện Sở Tư Pháp. c, Nuôi con nuôi ở khu vực biên giới Thủ tục giải quyết người nước ngoài cư trú ở khu vực biên giới nước làng giềng nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi được quy định tại Điều 21 Nghị định 19/2011/NĐ-CP. Theo đó hồ sơ phải có đơn kèm theo các giấy tờ cần thiết có liên quan do cơ quan có thẩm quyền của nước làng giềng cấp theo Khoản 1 Điều 21 Nghị định 19/2011/NĐ-CP. Người nhận con nuôi phải nộp 2 bộ hồ sơ của mình (đã dịch sang Tiếng Việt) kèm theo 2 bộ hồ sơ của trẻ em được nhận làm con nuôi cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của trẻ em được nhận làm con nuôi; mỗi bộ hồ sơ của trẻ em gồm các giấy tờ quy định tại Điều 18 của Luật NCN. Khi nộp hồ sơ, người nhận con nuôi phải xuất trình Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế để kiểm tra và nộp lệ phí đăng ký nuôi con nuôi tại Uỷ ban nhân dân cấp xã theo quy định tại Khoản 1 Điều 40 của Nghị định này. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét, thực hiện các trình tự, thủ tục cần thiết trong thời hạn nhất định để tiến hành nhận nuôi con nuôi cho người cư trú ở khu vực biên giới nước làng giềng theo Khoản 3, 4, 5 Điều 21 Nghị định 19/2011/NĐ-CP. 4, Hệ quả pháp lý của việc nhận nuôi con nuôi a, Đối với nhân thân của con nuôi Khoản 2 Điều 24 Luật NCN quy định về vấn đề họ tên “Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 9 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó”. Tuy nhiên, về vấn đề quốc tịch của trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi người nước ngoài thì Khoản 1 Điều 37 Luật quốc tịch Việt Nam 2008 quy định “Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi thì vẫn giữa quốc tịch Việt Nam ”. Đồng thời, Khoản 4 Điều 37 Luật quốc tịch còn quy định “Sự thay đổi quốc tịch của con nuôi từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được sự đồng ý bằng văn bản của người đó”. Đủ 18 tuổi, con nuôi có quyền lựa chọn quốc tịch hoặc quốc tịch của cha mẹ nuôi hoặc quốc tịch quốc gia nào đó. Đây là điểm khác biệt giữa Luật quốc tịch Việt Nam với quy định của Công ước Lahaye năm 1993 về quốc tịch trẻ em khi làm con nuôi người nước ngoài. 4 b, Đối với việc xác định pháp luật điều chỉnh các quyền, nghĩa vụ giữa hai bên  Người nước ngoài thường trú tại Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi Khi phát sinh tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của 2 bên trong quan hệ nuôi con nuôi thì áp dụng theo pháp luật Việt Nam để điều chỉnh. Vì khi người nước ngoài thường trú tại Việt Nam sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam trong các quan hệ pháp luật.  Người nước ngoài thường trú tại một trong các nước là thành viên của Công ước Lahaye Khi người nước ngoài thường trú hoặc có quốc tịch thuộc một trong các nước là thành viên của Công ước Lahaye nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi thì được công nhận và có giá trị pháp lý tại tất cả các quốc gia là thành viên của Công ước Lahaye, trong trường hợp việc nuôi con nuôi đó trái ngược rõ ràng với chính sách công ở quốc gia là thành viên của Công ước Lahaye thì quốc gia đó có thể từ chối việc công nhận. Khi nảy sinh các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ có liên quan đến quan hệ nuôi con nuôi thì áp dụng quy định của Công ước Lahaye. Trong trường hợp Công ước Lahaye không có điều khoản điều chỉnh tranh chấp phát sinh thì giải quyết theo quy định của các Hiệp định song phương giữa Việt Nam với nước ngoài về vấn đề nuôi con nuôi, theo đó, các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của 2 bên sẽ được điều chỉnh theo pháp luật của nước ký kết mà người nuôi con nuôi mang quốc tịch; trong trường hợp cha mẹ nuôi dưỡng không cùng quốc tịch thì sẽ áp dụng pháp luật hiện hành của 2 nước ký kết.  Người nước ngoài không thường trú tại một trong các nước là thành viên Công ước Lahaye và cũng không thường trú tại Việt Nam Khi người nước ngoài thường trú tại một trong các nước không phải là thành viên của Công ước Lahaye nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi thì nếu phát sinh tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của 2 bên thì sẽ được điều chỉnh theo điều ước quốc tế giữa Việt Nam và nước người nhận con nuôi mang quốc tịch chưa có thỏa thuận về vấn đề nuôi con nuôi thì nếu việc nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam thì áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật NCN để điều chỉnh và áp dụng pháp luật nước ngoài trong trường hợp việc nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại nước ngoài. 5, Chấm dứt nuôi con nuôi Thứ nhất, nếu việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi khi chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo Luật NCN. Pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề chấm dứt việc nuôi con nuôi theo những căn cứ quy định tại Điều 25 Luật NCN 2010. Ngoài ra, Điều 26 Luật NCN còn quy định về những người có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi bao gồm: cha mẹ nuôi, con nuôi đã thành niên, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi, cơ quan, tổ chức sau đây có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi khi có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 25 của Luật NCN: cơ quan Lao động - Thương binh – Xã hội; Hội liên hiệp phụ nữ. Việc chấm dứt nuôi con nuôi sẽ phát sinh những hậu quả pháp lý được quy định tại Điều 27 Luật NCN 2010. Theo đó, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Con nuôi được giao cho cha mẹ đẻ trong trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đã chấm dứt theo quy định tại Khoản 4 Điều 24 của Luật NCN được khôi phục. Thêm vào đó, con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi. 5 Thứ hai, nếu việc chấm dứt nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện ở nước ngoài thì việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú của con nuôi. Thứ ba, việc giải quyết xung đột pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn được đề cập trong các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với nước ngoài. Theo các hiệp định này thì việc hủy bỏ nuôi con nuôi được giải quyết theo pháp luật của nước ký kết mà người nhận nuôi mang quốc tịch; nếu cha mẹ nuôi không cùng quốc tịch thì việc hủy bỏ nuôi con nuôi phải áp dụng pháp luật hiện hành của 2 nước đã ký kết. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc hủy bỏ nuôi con nuôi là cơ quan của nước ký kết mà người xin hủy bỏ nuôi con nuôi là công dân. Trong trường hợp cha mẹ nuôi khác quốc tịch thì thẩm quyền thuộc cơ quan nhà nước ký kết nơi vợ chồng hiện có hoặc đã có thường trú hoặc tạm trú chung. III, Thực trạng việc thực thi pháp luật về người nước ngoài nhận trẻ em Việt nam làm con nuôi và giải pháp hoàn thiện 1, Thực trạng việc thực thi pháp luật về người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi a, Thành tựu Luật NCN 2010 ra đời đã cải thiện được những quy định cũ bất cập về người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi như: quy trình thủ tục giải quyết yêu cầu cho và nhận con nuôi được cải thiện theo hướng minh bạch hơn, thời gian giải quyết yêu cầu cho – nhận con nuôi được rút ngắn, các giấy tờ được thiết kế theo mẫu nên dễ dàng thực hiện,… Ngoài ra, Luật NCN cũng tạo ra khuôn khổ pháp lý để minh bạch hóa các khoản hỗ trợ nhân đạo và các khoản phí, lệ phí cho việc cho – nhận con nuôi. Đồng thời trình tự, thủ tục, giải quyết trẻ em làm con nuôi nước ngoài được cải tiến, khắc phục được nhiều tồn tại trước đó, từ đó hạn chế được nhiều bất cập như làm giả hồ sơ, việc trẻ em nhận làm con nuôi nước ngoài nhưng không được cấp visa do cơ quan có thẩm quyền không đồng ý… Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền được tăng cường một cách có hiệu quả. Hoạt động quốc tế được mở rộng trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói chung và người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi nói riêng. Việt Nam đã tham gia Công ước Lahaye 1993 nên việc hợp tác quốc tế không còn hạn chế trong những nước ký hiệp định mà sẽ được mở rộng ra các nước thành viên của Lahaye, điều này tạo ra một hành lang vững chắc cho việc người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Việc mở rộng, ký kết thực hiện các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi và công tác hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Thời gian qua, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với các cơ quan, tổ chức nước ngoài được cải thiện đáng kể. Cục nuôi con nuôi quốc tế thường xuyên trao đổi thông tin và phối hợp hoạt động với Cơ quan trung ương về nuôi con nuôi quốc tế của các nước ký kết, kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc khi triển khai thực hiện các quy định của Hiệp định và xử lý các vụ việc liên quan đến nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trong đó có vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. b, Bất cập Một là, thiếu tính thống nhất trong các quy định pháp luật hiện hành của Tư pháp quốc tế Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi. Việc lựa chọn áp dụng luật theo quy định của Luật ncn 2010 có sự khác biệt với các quy định trong Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt nam ký kết. Hầu hết 6 các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết đều quy định áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của người nước ngoài và người con nuôi. Nguyên tắc khi có sự khác biệt giữa điều ước quốc tế và luật quốc gia thì sẽ ưu tiên áp dụng các quy định của điều ước quốc tế. Tuy nhiên vấn đề này chưa được quy định rõ trong Luật NCN 2010. Hai là, một số các quy định của Luật NCN 2010 về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài vẫn chưa được hợp lý. Thẩm quyền của cơ quan trung ương về nuôi con nuôi quốc tế còn thấp, vẫn thiếu các quy định về thẩm quyền ghép hồ sơ của người xin con nuôi và trẻ em được cho làm con nuôi, chức năng giám sát, kiểm tra của cơ quan trung ương về nuôi con nuôi quốc tế trên thực tế cũng chỉ là hình thức, khó khả thi, chủ yếu vẫn dựa trên báo cao địa phương. Chính điều này khiến cho vai trò của cơ quant rung ương về nuôi con nuôi quốc tế trở nên rất mờ nhạt. Các vi phạm trong việc cho nuôi con nuôi có yếu nước ngoài như việc những lợi ích cho trẻ em vẫn diễn ra nhưng việc xử lý vẫn còn rất hạn chế. Luật NCN cũng chưa có quy định về việc tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ và nhân đạo của tổ chức, cá nhân nước ngoài, cơ quan nào tiếp nhận, quản lý cũng như sử dụng các khoản hỗ trợ này có trách nhiệm thì chưa có văn bản nào quy định. 2, Giải pháp hoàn thiện pháp luật về người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi Cần có những quy định thống nhất giữa các quy định của pháp luật Việt Nam với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Trong việc lựa chọn áp dung luật để giải quyết vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, cần có những quy định cụ thể rõ rang để thống nhất áp dung. Ví dụ như trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết hệ quả pháp lý của việc người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, pháp luật cần sửa đổi theo hướng: đối với người nước ngoài thường trú ở Việt Nam, hệ quả pháp lý được xác định theo Luật NCN 2010. Đối với người nước ngoài thường trú ở nước là thành viên của Công ước Lahaye, áp dụng giải quyết vấn đề này theo Điều 26, 27 của Công ước. Đối với người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam và các nước là thành viên Công ước Lahaye cần phải có quy phạm xung đột quy định rõ pháp luật được áp dụng để điều chỉnh vấn đề hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi. Mặc dù Luật NCN 2010 ra đời đã tạo một cơ sở pháp lý cụ thể, rõ ràng hơn trong vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Nhưng, các quy định của nó vẫn tồn tại những kẽ hở cần thiết được hoàn thiện, sửa đổi. Ví dụ, cần tăng cường thẩm quyền cho Cục con nuôi là cơ quan trung ương về vấn đề này trên cơ sở phối hợp thông tin chặt chẽ từ các cơ quan địa phương. Điều đó tạo nên cơ chế giải quyết tập trung, thống nhất cho vấn đề nuôi con nuôi trong thời gian tới. Các quy trình giải quyết hồ sơ, giấy tờ cần được quy định nhanh chóng, rút ngắn các khâu các bước tạo điều kiện cho quá trình cho – nhận con nuôi trở nên nhanh chóng hơn, giảm chi phí, tốn kém thời gian, công sức cũng như tiền bạc. Có như vậy, việc hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài giữa Việt Nam với các quốc gia khác mới đạt được hiệu quả mạnh mẽ. C, KẾT THÚC VẤN ĐỀ Trong thời gian qua, pháp luật Việt Nam về vấn đề người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi đã được quy định cụ thể và ngày càng hoàn thiện hơn. Song bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số khó khăn và bất cập cần sớm được tháo gỡ để đẩy mạnh hợp tác chặt chẽ với cộng đồng quốc tế bảo vệ trẻ em đặc biệt là trẻ em Việt Nam sau khi làm con nuôi người nước ngoài 7 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1, Giáo trình Tư pháp quốc tế, trường Đại học Luật Hà Nội, nxb CAND, 2010 2, Hướng dẫn học và ôn tập môn Tư pháp quốc tế, TS.GVC Nguyễn Hồng Bắc, nxb Tư pháp Hà Nội, 2012 3, Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, TS. Nguyễn Công Hanh 4, Luật nuôi con nuôi 2010 5, Nghị định số 19/2011/NĐ-CP 6, http://luanvan.net.vn/luan-van/nuoi-con-nuoi-co-yeu-to-nuoc-ngoai-theo-phap-luat- viet-nam-va-cong-uoc-la-hay-1993-ve-bao-ve-tre-em-va-hop-tac-trong-6122/ 7, http://khotailieu.com/tai-lieu/luat/luat-dan-su/nguoi-nuoc-ngoai-nhan-tre-em-viet- nam-lam-con-nuoi-theo-quy-dinh-cua-phap-luat-viet-nam.html 8
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan