Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh hải dương hiện n...

Tài liệu Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh hải dương hiện nay (word)

.DOCX
115
392
79

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở TỈNH HẢI DƯƠNG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở TỈNH HẢI DƯƠNG HIỆN NAY Chuyên ngành: Triết học Mã số : 60 22 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hàm Giá MỤC LỤC Chƣơng 1. TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY........9 1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông hiện nay................................................................................ 9 1.1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức...............................................................9 1.1.2. Vai trò của việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông hiện nay..................................................................................... 16 1.2. Về nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông hiện nay......................................................................26 1.2.1. Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông hiện nay............................................................................................... 26 1.2.2. Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông hiện nay............................................................................................... 38 Chƣơng 2. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY.........................................46 2.1. Thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay.................................................46 2.1.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay.........................46 2.1.2. Thực trạng đạo đức của học sinh trung học phổ thông tỉnh Hải Dương hiện nay................................................................................... 51 2.1.3. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay........................................................64 2.1.4. Nguyên nhân của những mặt hạn chế trong đạo đức và công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông tỉnh Hải Dương hiện nay 68 2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay.........................71 Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY...................................................................77 3.1. Nâng cao nhận thức đúng vị trí, vai trò quan trọng của đạo đức và giáo dục đạo đức trong nhà trường trung học phổ thông....................77 3.2. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình nhà trường và xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông...................................79 3.3. Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy của môn Giáo dục công dân, đa dạng hoá các hình thức giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông.............................................................................86 3.4. Xây dựng môi trường học đường lành mạnh........................................89 KẾT LUẬN............................................................................................................................. 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 95 PHỤ LỤC..............................................................................................................................100 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Công cuộc CNH, HĐH ở nước ta hiện nay đang đặt ra những yêu cầu to lớn về việc giáo dục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Đảng ta đã xác định phải coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu "phải tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước” [7, tr.29]. Đến Đại hội X của Đảng, Đảng ta tiếp tục chủ trương “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá” chất lượng nền giáo dục Việt Nam” [9, tr.95]. Sau hơn 20 năm đổi mới nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn và toàn diện. Cơ chế thị trường, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đang dần phát huy tác dụng tích cực, tạo nên sự phát triển năng động và thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng nền kinh tế ở nước ta. Song kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt hạn chế ảnh hưởng tới đời sống tinh thần, đạo đức của các giai tầng xã hội, theo đó dẫn đến sự thay đổi các bậc thang giá trị, thay đổi từ nhận thức, quan điểm đến nội dung và cách thức đánh giá đạo đức trong mỗi một con người, đặc biệt là học sinh. Nên việc định hướng những giá trị đạo đức, những lối sống lành mạnh, tốt đẹp cho học sinh ngày càng trở nên cấp bách và cần thiết. Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở bậc THPT đã có nhiều đổi mới từ hơn 10 năm nay. Nội dung, chương trình của các môn học được biên soạn lại cho phù hợp hơn, hình thức phương pháp tổ chức dạy học từng bước được cải tiến; một số môn học mới đã được bổ sung, hoàn thiện trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tuy nhiên, công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh chưa được chú trọng một cách đúng mức, chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo 1 đức cho học sinh chưa cao. Tình hình đó đòi hỏi công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cần phải được quan tâm nhiều hơn nữa. “Tuổi trẻ hôm nay, thế giới ngày mai”. Học sinh THPT là những người kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh chúng ta, là những người tiếp bước trên con đường xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Với hy vọng, mong muốn lớn lao ấy, chúng ta - những nhà giáo dục phải có trách nhiệm trực tiếp bồi dưỡng và đào tạo các em trở thành những người có ích cho xã hội, những con người có cả “đức” và “tài”, vừa “hồng” vừa “chuyên”. Do đó, giáo dục đạo đức không phải là trách nhiệm của riêng ai mà là trách nhiệm của toàn xã hội và trách nhiệm tự giác rèn luyện của mỗi cá nhân học sinh. Nhưng trong đó nhà trường giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Hồ chủ tịch đã dạy: Công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường giữ vai trò đặc biệt quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường XHCN. Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả đức lẫn tài. Đạo đức là cái gốc là nền tảng rất quan trọng. Học sinh THPT là lớp thanh niên đang ở tuổi trưởng thành (độ tuổi từ 16 đến 18 tuổi), đang trong giai đoạn bước ngoặt lớn về phát triển những thuộc tính căn bản của nhân cách; luôn có những lý tưởng, ước mơ, hoài bão lớn, nếu không có sự định hướng giáo dục tốt từ phía nhà trường, gia đình và xã hội sẽ không tránh khỏi sự ảnh hưởng của các tệ nạn xã hội và các tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường tạo ra. Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương 2 khoá VIII của Đảng (1997) đã gióng lên hồi chuông báo động cho toàn xã hội rằng tình trạng một bộ phận học sinh, sinh viên suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước là điều “đặc biệt đáng lo ngại” [11, tr.24]. Nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh THPT tại tỉnh Hải Dương được đặt ra trong khung cảnh và ý nghĩa xã hội đó. Hải Dương là tỉnh gần đây đang có sự phát triển nhanh về kinh tế xã hội. Bên cạnh hàng triệu thanh niên của tỉnh đang hăng say học tập, lao động để góp phần phát triển kinh tế xã hội của tỉnh thì vẫn còn một bộ phận nhỏ học sinh THPT lười học, sa sút về đạo đức như: vô lễ với thày cô giáo, trốn tiết, bỏ học, lập băng nhóm quậy phá, nói tục, gây gổ đánh nhau. Nạn quay cóp trong thi cử có nguy cơ trở thành “tệ nạn”. Nạn rượu chè, cờ bạc, ma tuý đã và đang xâm nhập vào môi trường học đường gây ảnh hưởng xấu tới một bộ phận học sinh THPT và dẫn đến hậu quả vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Có trường, học sinh không có tiền tiêu xài đã cướp giật, thậm chí trộm cắp ngay của cha mẹ mình, đã có hiện tượng học sinh nghiện chơi game bạo lực nên khi bị kích động về tinh thần đã giết ngay cha đẻ của mình một cách man rợ. Đó là nỗi nhức nhối đối với những người làm công tác giáo dục nói riêng và đối với toàn xã hội nói chung hiện nay. Vậy tại sao lại có sự sa sút về mặt phẩm chất đạo đức như vậy trong một bộ phận học sinh THPT? Làm thế nào để khắc phục tình trạng trên đây? Làm thế nào để có được những con người phát triển cao về trí tuệ, trong sáng về đạo đức, với một nhân cách phát triển toàn diện, làm động lực cho sự phát triển của đất nước hiện nay? Đó là những vấn đề lớn, hết sức bức thiết đã và đang đặt ra đòi hỏi thực tiễn công tác giáo dục, đào tạo ở nước ta nói chung và ở tỉnh Hải Dương nói riêng phải giải quyết. Đây chính là những lý do thôi thúc tôi chọn đề tài: “Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm 60, 70 của thế kỷ trước có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức của nhiều tác giả trong nước dưới góc độ tâm lý học, giáo dục học đã được công bố. Viện Khoa học giáo dục Việt Nam và Trường Đại học sư phạm I Hà Nội đã có những đóng góp rất quan trọng vào lĩnh vực nghiên cứu này với các tác giả Hà Thế Ngữ, Nguyễn Đức Minh, Phạm Hoàng Gia, Phạm Minh Hạc, Phạm Tất Dong và nhiều tác giả khác. Để đi đến các quan niệm và giải pháp về giáo dục đạo đức, các tác giả đã lựa chọn cho mình những cách tiếp cận khác nhau, tạo ra sự đa dạng, phong phú về nội dung và phương pháp nghiên cứu. Nguyễn Đức Minh nghiên cứu và trình bày cơ sở tâm lý - giáo dục học của giáo dục đạo đức. Hà Thế Ngữ chú trọng đến vấn đề tổ chức quá trình giáo dục đạo đức thông qua giảng dạy các môn khoa học, nhất là các môn khoa học xã hội nhân văn, rèn luyện phương pháp tư duy khoa học để trên cơ sở đó giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức, hướng dẫn thực hiện các hành vi đạo đức cho học sinh. Phạm Minh Hạc xuất phát từ đặc trưng tâm lý học để khảo sát hành vi và hoạt động, nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc của nhân cách, thực hiện quá trình giáo dục đạo đức trong quá trình phát triển nhân cách, xem đó như mục tiêu quan trọng nhất của việc thực hiện chất lượng giáo dục. Phạm Tất Dong đã đi sâu nghiên cứu cơ sở tâm lý của hoạt động giáo dục lao động, giáo dục hướng nghiệp, gắn kết hoạt động này với giáo dục đạo đức nhằm đạt mục tiêu giáo dục đạo đức nghề nghiệp và lý tưởng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ. Trong các công trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), cần kể đến một số đề tài như công trình mang mã số NN7 "Cải tiến công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống cho học sinh, sinh viên trong hệ thống giáo dục quốc dân" do Phạm Tất Dong làm chủ nhiệm. Đề tài NN7 đã có nhiều nội dung mới về giáo dục đạo đức, chính trị và tư tưởng trong các trường từ tiểu học đến đại học những năm đầu của thập kỷ 90. Gần đây, trong chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX 7. "Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội", có một số đề tài nghiên cứu các vến đề có liên quan đến đạo đức và nhân cách con người Việt Nam nói chung, học sinh, sinh viên nói riêng. Một số cuốn sách của một số giáo sư, các nhà nghiên cứu cũng đề cập đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay. Năm 1974, Giáo sư Vũ Khiêu chủ biên cuốn "Đạo đức mới". Trong tác phẩm này vấn đề đạo đức mới đã được làm sáng tỏ trên những nét cơ bản. Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc (2003) "Mấy vấn đề về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Chí Bảo (1998), "Sự biến đổi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường". Những thay đổi về văn hoá, xã hội trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở một số nước Châu Á, Nxb Khoa học xã hội , Hà Nội. Mai Văn Bình (1991), "Một số vấn đề thời đại và đạo đức", Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội. Phạm Khắc Chương (1995), "Một số vấn đề về giáo dục đạo đức và giảng dạy đạo đức ở trung học phổ thông", Vụ giáo viên. Trịnh Duy Huy (2009), "Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Huỳnh Khái Vinh (2001), "Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong một số tạp chí, có một số bài viết xung quanh vấn đề đạo đức như: "Đôi điều suy nghĩ về giá trị và biến đổi của các giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường" của Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí Triết học, số 1-1995); "Những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng suy thoái đạo đức ở nước ta hiện nay" của Nguyễn Thanh Hà (Tạp chí Triết học, số 32002); "Thực trạng và một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông" của Phạm Khắc Chương (Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 21997); "Văn hoá và sự phát triển nhân cách thanh niên" của Hoàng Chí Bảo (Nghiên cứu lý luận, số 1-1995); "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Triết học, số 6-1996); "Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường" của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học, số 51996). Gần đây nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chỉ thị số 2516/BGD&ĐT ngày 18/5/2007 về việc thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong nghành giáo dục. Đặc biệt ngày 18 và 19/7/2008, tại Đồng Nai, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội thảo Toàn quốc với chủ đề: "Giáo dục đạo đức học sinh, sinh viên ở nước ta: thực trạng và giải pháp", đã thu hút được đông đảo các nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục tham gia thảo luận. Tóm lại, những vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên đã được một số tác giả quan tâm, nghiên cứu. Song qua các tài liệu tìm được, chúng tôi thấy chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở tỉnh Hải Dương. Song những tư liệu trên là tài liệu quý giá để tác giả tham khảo trong quá trình viết luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Mục đích của luận văn là làm rõ vai trò và nội dung của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay trên cơ sở đó đánh giá tình hình giáo dục đạo đức trong các trường THPT ở tỉnh Hải Dương và nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh THPT tại tỉnh Hải Dương hiện nay. * Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: Phân tích vai trò, ý nghĩa của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT, những nhân tố tác động tới quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh THPT hiện nay. Đánh giá tình hình giáo dục đạo đức trong các trường THPT ở tỉnh Hải Dương. Đề xuất một số giải pháp cơ bản, khả thi nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông, đặc biệt là học sinh THPT phù hợp với hoàn cảnh và đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh Hải Dương trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trong trường THPT độ tuổi từ 16 đến 18. * Phạm vi nghiên cứu: Để giải quyết những vấn đề nêu trên, luận văn giới hạn vào các trường THPT trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong khoảng 5 năm gần đây. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm triết học và đạo đức học Mác-Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo đức, về thanh thiếu niên để làm sáng tỏ thực chất vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so sánh, tổng hợp cùng với phương pháp điều tra xã hội học. 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn làm sáng tỏ bản chất, nội dung và vai trò của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở khái quát tình hình giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở Hải Dương, luận văn nêu lên những giải pháp có tính khả thi nhằm đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THPT. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo dục đạo đức học sinh THPT hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương 8 tiết: Chƣơng 1: Tầm quan trọng và nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông hiện nay. Chƣơng 2: Tình hình giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay. Chƣơng 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay. Chƣơng 1 TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY 1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông hiện nay 1.1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức 1.1.1.1. Khái niệm đạo đức Là một bộ phận của tri thức triết học - những tư tưởng đạo đức đã xuất hiện cách đây hơn 2.600 năm trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hi Lạp cổ đại. Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề thói moralis nghĩa là có liên quan với lề thói, đạo nghĩa). Còn “luân lí” được xem như đồng nghĩa với “đạo đức” có gốc từ tiếng Hi Lạp là ethicos - lề thói, tập tục. Khi nói đến đạo đức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người trong giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này, người ta thường phân biệt 2 khái niệm: moral là đạo đức còn ethicos là Đạo đức học. Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại xuất hiện sớm, trong đó đạo có nghĩa là con đường, đường đi, về sau khái niệm này được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo còn có nghĩa là đường sống của con người trong xã hội. Khái niệm đức lần đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà Chu. Đức để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức tính là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc, luân lí. Như vậy, có thể nói đạo đức theo quan niệm của người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo. Quan điểm duy tâm tôn giáo coi đạo đức là những nguyên tắc, những chuẩn mực được rút ra từ trong đầu óc con người, do vậy thiếu cơ sở thực tiễn lịch sử. Chẳng hạn như: Thượng đế, từ ý niệm tuyệt đối, tự ý thức hoặc một bản tính trừu tượng nào đó… rồi từ đó đem áp đặt vào đời sống hiện thực của con người. Với thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, dựa trên sự kế thừa có chọn lọc những quan niệm về đạo đức trước đó, đồng thời đặt nền tảng khoa học cho một nền đạo đức mới - đạo đức cộng sản chủ nghĩa, quan điểm mác xít cho rằng: đạo đức là sản phẩm của điều kiện kinh tế xã hội, trong dó nhân tố quy định đạo đức là các quan hệ kinh tế, lợi ích là cái chi phối trực tiếp, là cơ sở khách quan của quan điểm đạo đức, lợi ích hiểu một cách đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức. Dưới góc độ nhận thức luận, đạo đức là một hiện tượng tinh thần, một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, là tính thứ hai so với tồn tại xã hội. Tính chất đặc biệt của đạo đức thể hiện trong quá trình hình thành các quy tắc đạo đức, đó là do sự thừa nhận của số đông trong xã hội hoặc sự thừa nhận của một giai cấp nhất định. Dưới góc độ chức năng, đạo đức điều chỉnh hành vi của con người bằng những chuẩn mực và quy tắc đạo đức theo yêu cầu của xã hội. Mục đích là nhằm đảm bảo lợi ích chung của xã hội hoặc lợi ích cơ bản của giai cấp đã đề ra chuẩn mực, quy tắc đạo đức ấy. Như vậy, “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [16, tr.8]. Do đó, đạo đức với tư cách là hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [29, tr.137]. Đạo đức cũng như các quan điểm triết học, chính trị, nghệ thuật, tôn giáo đều mang tính chất của kiến trúc thượng tầng. Chế độ kinh tế - xã hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức con người. Các quan điểm này thay đổi theo điều kiện kinh tế - xã hội, sự phát sinh và phát triển của đạo đức, xét đến cùng là một quá trình do sự phát triển của phương thức sản xuất quyết định. Đạo đức là phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi như phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức... Đối với đạo đức thì sự đánh giá hành vi con người theo khuôn phép chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành những khái niệm về thiện hoặc ác, vinh hoặc nhục, chính nghĩa hoặc phi nghĩa. Trong xã hội có giai cấp thì bao giờ đạo đức cũng biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định. Những khuôn phép (chuẩn mực) và quy tắc đạo đức là yêu cầu của cả xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho hành vi của mỗi cá nhân, bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội (Tổ quốc, nhà nước, giai cấp mình và giai cấp đối lập...) và đối với người khác. Những chuẩn mực và quy tắc đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay của một giai cấp, dân tộc thừa nhận. Hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn cấm, những khuyến khích, những chuẩn mực cho phù hợp với những đòi hỏi của xã hội. Do đó, sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện và xét về bản chất, đạo đức là sự tự do lựa chọn của con người. Có thể nói, lịch sử tư tưởng nhân loại cũng là lịch sử phát triển của đạo đức. Đạo đức xã hội nguyên thủy dựa trên những nguyên tắc về sự bình đẳng, hợp tác nhưng ở trình độ rất thấp. Thời kỳ này tuy những tư tưởng đạo đức còn mang tính sơ khai song nó có ý nghĩa là tiền đề cho sự hình thành và phát triển đạo đức sau này. Kế tiếp đạo đức xã hội nguyên thủy là các kiểu đạo đức của xã hội chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản và sau nó là đạo đức mới - đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Đây là những nấc thang phát triển về chất trong lịch sử đạo đức nhân loại. Sự phát triển của các nấc thang đạo đức đó gắn liền với quá trình phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao. 1.1.1.2. Giáo dục đạo đức, bản chất và vai trò * Khái niệm giáo dục đạo đức: Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng CNXH, đạo đức vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển xã hội. Để xây dựng xã hội mới, chúng ta rất cần có những con người mới, những con người xã hội chủ nghĩa. Những người phát triển toàn diện cả đức, cả tài, vừa “hồng” vừa “chuyên”. Xuất phát từ đánh giá vai trò, chức năng của đạo đức đối với sự phát triển của xã hội, vấn đề giáo dục đạo đức được đặt ra từ rất sớm trong lịch sử và luôn được mọi giai cấp, mọi xã hội, mọi thời đại quan tâm. Trong xã hội ta hiện nay, bên cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc đang trở thành một nguồn sức mạnh tinh thần của sự nghiệp đổi mới đất nước, có không ít vấn đề đang đặt ra đòi hỏi phải giải quyết. Đó là cuộc đấu tranh giữa hai lối sống: lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của chính mình, có ý thức bảo vệ thành quả lao động, chăm lo lợi ích của cộng đồng và lối sống thực dụng ích kỷ, dối trá ăn bám, chạy theo đồng tiền bất chính. Vì vậy, giáo dục đạo đức, đặc biệt là đạo đức mới, đạo đức cách mạng làm lành mạnh đời sống tinh thần xã hội là một nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới ở nước ta. Như vậy, giáo dục đạo đức là quá trình chuyển văn hoá đạo đức xã hội thành văn hoá đạo đức cá nhân. Đó là quá trình chuyển những tri thức, những kinh nghiệm, những chuẩn mực và lý tưởng đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, làm phát triển ý thức cũng như năng lực đánh giá và thực hiện hành vi đạo đức, năng lực tham gia vào các quan hệ đạo đức xã hội. Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng người xác định và là phương thức điều chỉnh hành vi của các cá nhân thuộc cộng đồng nhằm hình thành, phát triển, hoàn thiện tồn tại xã hội ấy. Đạo đức cá nhân là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ của cộng đồng, phản ánh và khẳng định tồn tại xã hội của các cá nhân ấy như là thể hiện riêng lẻ của tồn xã hội về lợi ích và hoạt động của các cá nhân. Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình, các cá nhân thu nhận đạo đức xã hội như là hệ thống kinh nghiệm xã hội, những lý tưởng những chuẩn mực, đánh giá đạo đức đã được hình thành trong lịch sử cộng đồng, biến kinh nghiệm xã hội thành kinh nghiệm bản thân. Đối với cá nhân, đạo đức xã hội tồn tại một cách khách quan mà trong cuộc sống của mình, cá nhân tất yếu phải nhận thức, tiếp thu, thực hiện. Từ quan niệm trên, chúng ta thấy giáo dục đạo đức trước hết là một quá trình lâu dài, không thể nóng vội và cũng không thể áp đặt. Nó được diễn ra trong cả quá trình hình thành và phát triển nhân cách của một con người, không có điểm dừng. Đây là quá trình tự rèn luyện của cá nhân, cũng là quá trình tác động của gia đình, nhà trường và xã hội. * Bản chất giáo dục đạo đức Quá trình giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển về mặt tinh thần và thể chất của con người, làm cho đối tượng được giáo dục dần hình thành và phát triển hai mặt: Một mặt, là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục. Mặt khác, thông qua sự tác động đó mà con người tự giáo dục ngay chính bản thân mình. Quá trình tồn tại và phát triển con người có nhiều giá trị, trong đó giá trị đạo đức được hình thành chủ yếu thông qua con đường giáo dục. Không có giáo dục thì không thể bảo tồn và phát triển được những giá trị chung của loài người như giá trị kinh tế, chính trị, tư tưởng, đạo đức, nhân văn... và do đó, không thể sáng tạo ra được những giá trị mới. Quá trình giáo dục đạo đức là quá trình tác động đến đối tượng giáo dục để hình thành trong họ những yếu tố tình cảm, niềm tin, lý tưởng và tất cả được thể hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Hoạt động đạo đức được điều chỉnh bởi ý thức đạo đức của chủ thể, hay nói cách khác, là sự thể hiện những năng lực, phẩm chất đạo đức của con người. Do đó, giáo dục đạo đức là quá trình chuyển những yêu cầu đạo đức của xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, thành sự hiểu biết, thành ý chí, niềm tin, thành nhu cầu, động cơ, năng lực bên trong của mỗi cá nhân và sau đó là sự tự nguyện, tự giác hành động. Giáo dục đạo đức làm cho các quy tắc, các chuẩn mực đạo đức được cá nhân nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ hơn, góp phần điều chỉnh hành vi của con người phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội. Một kiểu giáo dục đạo đức tiến bộ liên quan rất lớn tới môi trường đạo đức. Do đó mà yêu cầu phải lành mạnh hoá môi trường đạo đức. Ngoài ra, các yếu tố như: điều kiện kinh tế-xã hội, cách thức tổ chức giáo dục, mức độ tự giác của chủ thể, là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả giáo dục đạo đức. Một khi chủ thể có sự tự nhận thức, tự đánh giá đúng thông qua mục đích, yêu cầu, nội dung... của quá trình giáo dục, sẽ giúp cho cá nhân và cộng đồng có những hành vi đạo đức đúng đắn. Cho nên, giáo dục đạo đức luôn gắn liền với tiến bộ đạo đức, gắn liền với quá trình “nhân đạo hoá” các mối quan hệ. Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ khoa học, chuyên môn, kỹ thuật, nhằm không ngừng phát triển tài năng cho con người, đáp ứng yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Người xưa đã từng nói: “Tiên học lễ, hậu học văn”, “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Mỗi con người muốn trở thành những cá nhân tốt trong xã hội, thì trước hết cần phải trang bị tốt, phải am hiểu được những giá trị đạo đức, những chuẩn mực đạo đức. Và hơn hết phải chuyển hoá những hiểu biết đó thành những hành vi đạo đức của mình. Trong quá trình đó, một vấn đề được đặt ra là thực hành những quy tắc đạo đức cho vừa đảm bảo những nguyên tắc chung lại vừa thích ứng được với yêu cầu xã hội. Vì vậy, giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là yêu cầu thường xuyên, khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [39, tr.293]. Các Nghị quyết của Đảng, các tài liệu của ngành giáo dục-đào tạo đã đề cập đến vai trò quan trọng của vấn đề giáo dục đạo đức và là nhiệm vụ trọng tâm của ngành, nhằm thực hiện mục tiêu cao nhất là “dạy người”. Giáo dục đạo đức là phải hướng con người tới những giá trị đích thực của đời sống xã hội, làm cho họ nhận thức và thể hiện được những chuẩn mực đạo đức xã hội qua hành vi đạo đức của mình. * Vai trò của giáo dục đạo đức Vai trò chủ đạo của giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách thể hiện: + Giáo dục đạo đức góp phần to lớn trong việc chuyển các quan niệm từ tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, không ngừng nâng cao trình độ nhận thức các giá trị đạo đức cho mỗi người. Qua giáo dục đạo đức, nội dung các phạm trù, các quy tắc, các chuẩn mực đạo đức được nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn hơn, góp phần điều chỉnh hành vi của con người sao cho phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của xã hội đương thời. + Giáo dục đạo đức góp phần hình thành thái độ, niềm tin, tình cảm đạo đức cho mọi người, có tác dụng hướng dẫn hành vi con người đạt giá trị đạo đức cao nhất. Đây chính là sức mạnh tinh thần giúp con người vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ. + Giáo dục đạo đức góp phần tích cực trong việc truyền lại cho những thế hệ đang trưởng thành những giá trị đạo đức mà các thế hệ trước đã tạo ra. Trên cơ sở đó giúp họ nhận ra giá trị của các giá trị đạo đức, nhận thấy giá trị và ý nghĩa cuộc sống mang tính người, tính nhân văn sâu sắc. Giáo dục đạo đức có vai trò to lớn trong việc nhân đạo hoá con người và đời sống xã hội của con người trong việc hình thành củng cố những giá trị nhân cách tốt đẹp. + Giáo dục đạo đức còn góp phần tạo ra những giá trị đạo đức mới, xây dựng những quan điểm, phẩm chất đạo đức mới, quan niệm sống tích cực cho mỗi đối tượng giáo dục. Đồng thời, giáo dục đạo đức cũng góp phần tích cực vào việc khắc phục những quan điểm lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị đạo đức truyền thống, chống lại các hiện tượng phi đạo đức đang đầu độc bầu không khí xã hội, tạo ra cơ chế phòng ngừa các phản giá trị đạo đức, phản giá trị văn hoá trong mỗi nhân cách. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, tình trạng suy thoái nghiêm trọng của đạo đức đang được coi là nguy cơ, thì việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT càng trở nên hết sức quan trọng trong việc phát triển và hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân. 1.1.2. Vai trò của việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông hiện nay 1.1.2.1. Một số đặc điểm của học sinh trung học phổ thông hiện nay Học sinh THPT là thuật ngữ chỉ những người đang học tập ở các trường THPT (từ lớp 10 đến hết lớp 12 trong hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta hiện nay). Độ tuổi chủ yếu của các em trong khoảng 16 đến 18. Ở lứa tuổi này học sinh THPT là thời kỳ đầu của giai đoạn tuổi thanh niên. Khi nói đến thanh niên có rất nhiều cách xác định khác nhau tuỳ thuộc vào từng cách tiếp cận của vấn đề này. Hầu hết các nước trên thế giới đều có sự thống nhất tuổi thanh niên bắt đầu từ 14 hoặc 15; nhưng kết thúc ở tuổi nào thì có sự khác nhau. Có nước quy định là 25 tuổi, có nước quy định là 30 tuổi và cũng có nước quy định là 35 tuổi. Ở Việt Nam, có giai đoạn chúng ta quy định tuổi thanh niên từ 15 tuổi đến 28 tuổi. Ngày nay do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội phát triển, do tuổi thọ trung bình của người dân được nâng lên và thời gian học tập, đào tạo cơ bản của tuổi trẻ dài hơn nên tuổi thanh niên được xác định là từ 15 đến 30 tuổi. Như vậy, chúng ta có thể gọi học sinh THPT hay là thanh niên học sinh đều cùng nghĩa.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan