Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Vai trò của quán ngữ trong việc kiến tạo phát ngôn...

Tài liệu Vai trò của quán ngữ trong việc kiến tạo phát ngôn

.PDF
194
50
95

Mô tả:

m 1 s — n r-T -T T -r g ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XẢ HỘI VÀ NHÂN VĂN • • • ■ ........ ÌS k III JễZ .......... NGÔ HỮU HOÀNG VAI TRÒ CỦA QUÁN NGỮ TRONG VIỆC KIẾN TẠO PHÁT NGÔN (TRÊN CỨ LIỆU TIẾNG ANH VÀ TIÊNG VIỆT) Chuyên ngành : LÝ LUẬN NGÔN NGỮ M ã số : 5.04.08 LUẬN ÁN TIẾN S ĩ NGỮ VẢN Người hướng dẫn : GS. TSKH. NGUYỄN LAI HÀ NỘI, 2002 f t - ......... ... ........... ! ■= = = ......... ã LỜI CAM ĐOAN \Tôixin C â m đoan dây là công trình nghiên cứu của riênq tổi. ĩấ t cả những vân đê được trình bày và giải quyết, những kết luận tro ty luận ấn đều chi tá dược công bô trong bâ t kỳ công trình nào khác. Tác giã luận án QĨịịô ICũtt 71(h )ỉm tf BẢN VIẾT TẮT, KÝ HIỆU VÀ QUI ƯỚC TRÍCH DAN A. Viết tát và ký hiên FĨA : Hành động đe dọa thể diện (Face threatening act) FSA : Hành động gill giữ thể diện (Face saving act) H : Người nghe, người nhận phát ngôn (hearer) p : Mệnh đề/Định để thông tin (proposition) PN : Phát ngôn (utterance/speech) QN : Quán ngữ (discourse devices/ gambits) QNTA: Quán ngữ tiếng Anh QNTV: Quán ngữ tiếng Việt s : Người nói/ Chủ thể phát ngôn (speaker) TN : Thành ngữ (idion) K : Câu sai —►, c=í> : Tiếp đến, hướng đến, chỉ ra B. Qui đinh cách ghi n&uon trích dẫn và xuất xứ các ví du Trong phẩn ‘Tài liệu tham khảo và xuất xứ các ví dụ” từ trang 172 đến trang 186, chúng tôi đánh số liên tục từ phần A (tài liệu tham khảo) đến phần B (xuất xứ các ví dụ) gồm từ số thứ tự (1) đến (246). Trong quá trình trích dẫn tài liệu tham khảo và các ví dụ, chúng tôi báo cáo nguồn bằng những số thứ tự sau đó trong ngoặc đơn. Một số ví dụ chúng tôi tự thiết kế nên phía sau không được ghi chú nguồn xuất xứ và một số ví dụ chúng tôi ghi chú nguồn trực tiếp phía sau vì xuất xứ của chúng không có trong danh mục ‘Tài liệu tham kháo và xuất xứ các ví dụ”. M Ụ C LỤ C Trang 1 iyO đẩu 1. Tên luận án 1 2. Lý dơ chọn đê tài 1 3. Phạm vi đề tài luận án 5 4. Nhiệm vụ và đóng góp của luận án 7 5. ° hương pháp 8 6. Nguyên tắc nghiên cửu 10 7. 3Ố cục của luận án 11 CHƯƠNG Ị : NHẬN DIỆN CHUNG QUÁN NGỮ VIỆT - ANH 13 1.1 Giới thiệu chung 13 1.2. Vài nét về lịch sử nglìiẻn cứu quán ngữ 13 1.3. Quán ngữ là gì ? (QN) 18 ỉ.3.1. Vài vấn đề về thuật ngữ “QN ” 18 1.3.2. Định nghĩa vê QNTV 20 1.4. QN tiếng Anh 27 ỉ.4.1. Giới thiệu chung 27 1.4.2. Ximg quanh vấn đề Khái niệm “QNTA ” 28 Í.5. Nguyên tắc chung đê nhận diện QN 40 .5.1. Nguyên tắc hình thành QN 40 .5.1.1. Nguyên tắc nhược hoá 40 .5.1.2. Một số hướng tiếp cận khác dể nhận diện QN 45 J.6. Vấn đề về cấu trúc QN 47 i<5.7. Các hình thức hiện thực 48 16.1.1. Nhóm từ tổ ị đoản ngữ) 48 16.1.2. Nhóm từ ghép hư 50 16.1.3. Nhóm mệnh ăề 52 16.1.4. QN là một từ đơn 56 17. Tiểu kết chương I 63 CHƯƠNG I I : VÂN ĐÊ n g ữ n g h ĩ a v à CỈIỨC NẢNG DỤNG HỌC CỦA 65 QUÁN NGỮTRONÍỈ PHÁT NÍÌÔN 11.1. Giới thiệu vấn đề 65 11.2. Vai trò tổ chức ngữ nghĩa PN và QN trong giao tiếp lời nói 66 11.2.1. Vê giao tiếp liên nhân 66 11.2.2. Mối quan hệ giữa QN và giao tiếp liên nhân 68 11.3. Chức năng điều hành PN (discourse managing functions) 70 11.5.1. QN như những dấu hiệu “mở thoại ” “hoạt thoại ” và “kết thoại ” 70 11.5.2. QN như những dấu hiệu đệm ngữ lưu (fluency devices) 74 11.4. QN với chức năng tạo nghĩa cho toàn PN 77 11.4.ỉ . Nhóm làm thay đổi hay tạo ảnh hưởng nghĩa của p theo sau 77 11.4 2. Nhóm có chức năng phản ánh tình thải 79 11.4.2.1. Các loại ỷ nghĩa tình thái chủ yếu của QN 80 IJ.4.2.2. Một sô' vấn đê cần chú ỷ về hình thức của QN tình thái của tiếng Việt 86 11.5. Chức năng thiết kẽ vãn bản (Textual function) 87 11.5.1. Những đặc điêrn cơ bản 87 11.5.2. Một số cách phân chia khác của các nhà nghiên cứu 90 11.6. Chức năng kép của QN 92 11.6.1. Một số quan điểm về “Kết từ” nói chung và QN liên kết nói riêng trong mối quan hệ với Vnghĩa tình thái 92 11.6.2. Phân tích các ví dụ để chứng minh QN có chức năng kép 93 11.7. Một sô kiến giải ngữ dụng học về cách dùng của QN trong thực tế giao tiếp 97 11.7.1. Vai trồ của nhân tố “nội nhân ” (intrapersond factors) đối với quá trình sử dụng QN 98 11.7.2. QN trong mối quan hệ với các phương châm hội thoại 101 (conversational maxims) và phép lịch sự 11.7.2.1. QN và phép lịch sự 102 11.7.2.1.1. Về lý thuyết lịch sự 102 11.7.2.1.2.Những cách tiếp cận lịch sự trong ngôn ngữ của một s ố tác 103 7.7.2.2. <2/V như một phương tiện “đền bù ”các vi phạm chiến lược >à phương châm lịch sự 107 .1.7.2.2.1. QN như những phương tiện “đền bù "FTA 108 Ả.7.2.2.2. QN như những phương tiện “dền bù ”đối với phương châm LCikoff và Leech 1 10 il.7.2.2.3. Chiến lược đền bù các vi pliạm phương châm hội thoại của Grice 112 II.8. Tiểu kết chương II 116 CH Ư Ơ N G m ; KẾT QUẢ ĐlỂU TRA 1 H ự c TIÊN VÀ CÁC ĐỂ XUẤT 1 18 GIẢNG DẠY VÀ DỊCH THUẬT QUÁN NGỮ III.A. Phân tích dữ liệu 118 lil.A .l. Giới thiệu chung 118 III.A.2. Phân tích và thảo luận các kết quả khảo sát I 119 ỉlỉ.A.2.1. Vài chi tiết về quá trình khảo sát ì 119 IỈỈ.A.2.1.1. Mục đích khảo sát 119 ỉỉl.A.2.1.2. Số lượng và thành phần cộng tác viên 119 III.A.2.Ỉ .3. Phương pháp làm việc 120 ỈII.A.2.2. Phân tích và bình luận kết quả khảo sát 121 IIỈ.A.3. Phân tích và thảo luận các kết quả khảo sát 2 125 ỉll.A.3.1. Vê công việc điều tra khảo sát 126 IU.A.3.1.1. Mục đích 126 111.A.3.1.2. Cách thực hiện khảo sát 126 III.A.3.1.3. Vài ỷ kiến vê quá trình kháo sát và ngữ liệu 128 IỈI.A.3.2. Phân tích và bình luận kết quả khảo sát 129 IU.A.3.2.1. Tuổi tác 129 III.A.3.2.2. Về giới tính 132 III .A.3.2.3. Nghê nghiệp 135 III.A.3.2.4. Đê tài 140 III.A.3.2.5. Địa phương 143 III.B. Các đề xuất dạy và dịch QN Việt Anh 149 ỉlỉ.B. I . Một số vấn đề chung 149 lỉl.B.l A . Dạy QN là dạy các dặc tính của hư từ nhưng phải phân biệt chúng với hư từ bình thường khác 149 III. BA .2. Cần làm rõ thế nào lù cân thiếu chủ ngữ, câu tỉnh lược chã ngữ và câu có QN 150 ỈỈỈ.B.l .3. Dạy QN là dạy các phương tiện liên kết văn ban 15 1 III.B.1.4. Dạy QN so sánh với clụy các loại ngữ cố định khác 151 III.B. Ị .5. Dạy QN là dạy dơn vị tạo nên ngôn ngữ chức năng 153 (language in functions) 11I.B.1.6. Dạy QN là dạy các dặc trưng văn hoá giao tiếp của một cộng đồng bản ngữ 154 ỊII.B.2. Các thủ pháp và tiến trình dạy QN 155 III.B.3. Một số ý kiến đề xuất về việc dịch QN 158 III.B.3.1. Những thuận lợi và khó khăn khi dịch QN 158 III.B.3.1.1. Thuận lợi 158 III.B3 .1 2 . Khó khăn 159 IỈỈ.B3.2. Nhữrìg trường hợp khó dịch 159 IIỈ.B.3.3. Những trường hợp bất khả dịch 162 I1Ỉ.B.4. Các yêu cầu khi dịch QN 164 III.B.4.1. Yêu cầu về sự nắm vững hình thái và chức năng của QN 164 UỈ.B.4.2. Yêu cầu về nguyên tắc “nhập gia tuỳ tục ” 165 PHẦN KẾT LUẬN 167 TÀ I LIỆU THAM KHẢO VÀ XUAT XỨCÁC v í dụ 172 CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN đ ể t à i l u ậ n á n 187 1 MỞ ĐẦU 1. Tên luận án V A I m ò CỦA IU J m Q U ÁK M TẠ O ì ử T R O M Ỉ V IỆ C P H Á T M ÌÔ N (TRÊN CỨ LIỆU TlỂNG a n h VẦ TIENG VIỆT) 2. Lý do chọn để tài 2.1. Trong giao tiếp thường ngày, người ta không chỉ đơn thuần sáng tạo và chấp nhận những cách nói đúng ngữ pháp theo quan điểm tạo câu truyền thống. Để biến câu thành một đơn vị thông báo hoàn chính, một ngôn phẩm giao tiếp thực tế (discourse product) hay còn gọi là một phát ngôn (PN), người nói (S) không thổ không dùng đến những yếu lổ “phu gia” xung quanh thành phần nòng cốt của nổ. Ví dụ câu X là một sinh viên chỉ là một mệnh đề thông tin (proposition) (P) có chức năng miêu tả và bản thân nó có khả năng phối hợp với hàng loạt tham tố có tiềm năng dụng học để trơ thành PN vổi nhiều hành vỉ tai lời khác nhau (HVTL). Ví dụ: (ỉ ) Theo tôi (thìì + (2) Có ngờ dâu (là) + X là sinh viên. X là sình viên Những tham tố “Theo tôi thì” (1), “Có ngờ đâu” (2) cùng đi với p (Xlà một sinh viên) tạo thành hai PN có hai tinh thần thông báo rất khác nhau. “Theo tôi” của PN (1) báo hiệu hành vi phán đoán p ỉrong khi đó “Có ngờ 2 đâu” của PN (2) chỉ ra một phái hiện, một ngạc nhiên về p mà trước đó, s không thể ngờ tới. Thay hai tham tố trên bằng những tham tố khác như Thảo nào, Của dáng tội, Nói thật tình, v.v. chúng ta sẽ có được rất nhiều PN lkphái sinh”, chứa đựng các ý nghĩa giao tiếp hoàn toàn khác nhau. Qua đó, có thể thấy rằng với tư cách như “một mẩu trao đáp” thực tê giữa người nói/viết và ngươi nghe/đọc, PN dường như luôn luôn tồn tại trong một cơ chế hoạt động của giao tiếp liên nhân. Trong cơ chế này, người ta phải tính đến các yếu tố ngôn từ không thuộc nòng cốt câu nhưng lại đảm nhận khá nhiều chức năng quan trọng, thậm chí quyết định ý nghĩa giao tiếp của PN. Chúng là những dấu hiệu tình thái (modal/attititude markers) như Tôi thấy là, Cỏ thể nói là', Có lẽ là, v.v. những dấu hiệu lịch sự, những cách nói “đưa đẩy”, “che chắn” (hedges) thuộc về phép xã giao trong xã hội, thông thường mang đậm nét văn hoá xã hội của cộng động ngôn ngữ sử dụng chúng như Làm ơn, Hỏi khí không phải, Hói anh dửng giận, Nói thật nhé, Đ ể chị nói em nghe nè, v.v. dấu hiệu liên kết như Nói tóm lại, Tuy vậy, T h ế cho nên là, Vậy là, Thảo nào mà, Quả nhiên là, v.v. Và, tất nhiên các đơn vị ấy cũng có thể cùng một lúc thực hiện nhiều chức năng, đậm nhạt khác nhau, tuỳ theo tình huống mà trong đó chúng được sản sinh. 2.2. Vấn đề đang dược bàn luận cũng có tính phổ quát (universal) trong giao tiếp lòi nói trên toàn thế giới. Lấy tiếng Anh làm ví dụ, các yếu tố ngôn ngữ chuyên dụng mở đầu PN nói trên cũng rất phổ biến. Xét mẩu đối thoại sau đây: (3) A: I think She's not coming tonight. 3 Tôi nghĩ rằng tối nay cô ta sẽ không đến đâu. B: Well, in that case, 17/ have to cancel my flight. Chà, thế thì tôi phải huỷ bỏ chuyến bay mất. (195) “I think” của A là cách nói đưa đẩy, che chắn (hedges) để mở đầu PN và trong trường hợp này cũng có chức năng mở đầu hội thoại. “Well” và “In that case” ở lượt lời B là những yếu tố ngôn ngữ kết nối nội dung hai thông điệp, vừa báo hiệu “sư sán lònR tham gia giao tiếp” của của B (Đặc biệt là tham tố “Well”). Ngoài ra, tiếng Anh cũng có rất nhiều cách nói nghi thức, được công thức hoá rất cao thông qua một số lượng đáng kể các biểu thức cố định như Could you, Would you, I would like, please, I ’m afraid that, Sorry but, v.v...chủ yếu để phục vụ cho phép lịch sự (politeness) của cộng đồng, được coi như là cách được nói (the how) nhưng đôi khi còn quan trọng hơn cả cái được nói (the what). 2.3. Như vậy, có thể khẳng định rằng cả tiếng Anh và tiếng Việl đều có một lớp ‘Vigôn từ chuyên dụng” đóng một vai trò hết sức quan trọng khi đi kèm với p, rất đa dạng về cả hình thức lần chức năng. Đứng về mặt từ vựng học (lexicology), chúng là những yếu tố ngôn ngữ có đặc trưng “lưỡng phân” giữa ngữ “tự do” và “cố định” nên không thể được coi là thành ngữ (TN) và càng không phải là các loại ngữ cố định khác có nghĩa định danh. Từ đó, việc nghiên cứu có khả năng bị hạn chế nếu xét dưới quan điểm coi chúng đơn thuần thuộc về hệ thống ngữ cố định, v ề từ pháp và cú pháp, lớp từ này mang đặc tính của cả hai từ loại liên từ và phó từ (trạng ngữ/phụ ngữ) có vai trò như những mắt xích trong hệ thống tổ chức PN. Từ đó, nếu dừng lại ở lý thuyết ngữ pháp ngang câu và quan điểm về thành phần câu truyền 4 thống, người ta hầu như không thể lý giải sự có mặt của lớp từ này trong PN một cách thoả đáng. Cũng từ dó, người nói tiếng Anh khi học tiếng Việt, và người Việt khi học tiếng Anh có khả năng đối đầu với ít nhất hai khả năng: 1) Người học không biết những đơn vị đó biểu đạt cái gì, có tầm ảnh hưởng đến đâu trong PN; (2) Vì vậy, các đưn vị ngôn ngữ này sẽ làm người nghe có phần lúng túng khi vừa phải nắm bắt p vừa phải nắm bắt cái ý nghĩa kèm theo thiên về chức năng dụng học hơn là từ vựng hoặc cú pháp học. Tuy nhiên, trong thực tế, việc nghiên cứu lớp từ này vẫn chưa được quan tâm nhiều, đặc biệt là ở tiếng Việt, so với qui mô hành chức của chúng. Thông thường, người ta hay làm ngơ đi các yếu tố này và cũng chính vì thế mà một lượng ý nghĩa giao tiếp khá lớn bị ‘thất thoát” trong khi giải mã PN. Tương tự, trong khi tạo cho PN trở nên lưu loát, bản ngữ hoá, người học cũng thấy khó khăn khi muốn áp dụng những kiểu nói rất cần thiết và phổ biến nhưng lại không đơn giản này. Gán đây, một số nhà từ vựng học tiếng Việt đã nhận thức được tầm quan trọng của chúng trong việc kiến tạo PN và nhận xét chúng là một loại cụm từ/ngữ bán ổn dinh nên đặt vào hệ thống cụm từ/ngữ cố định và gọi là quán Iiiỉữ (QN), thuât ngữ mà chúng tỏi xin lấy làm tên goi chính thức cho đối tương nghiên cứu của luân án. Thế nhưng, trong số hàng chục đầu sách ngữ nghĩa học từ vựng và sách tham khảo có liên quan đến từ vựng học, chúng tôi cũng chỉ tìm thấy vài định nghĩa qua loa của các nhà nghiên cứu có quan tâm. Hầu như tất cả chỉ dừng lại ở tên gọi. Việc nghiên cứu vế QN cho đến nay có thể nói là còn khá mỏng và rời rạc mạc dù gần đây, bắt đầu có những công trình nhận điện QN một cách “trực diện” 5 như QN tiếng Việt của Nguyễn Thị Thìn (94), Ngô Hữu Hoàng (42; 43; 45); luận văn cấp thạc sĩ của Đoàn Thị Thu Hà (31), Lê Thị Hiền (37). Các công trình này đã đóng góp một phần không nhỏ cho hướng đi của luận án mặc dầu cách nhìn đối tượng vẫn còn mang tính phiến diện và một số quan niệm cần phải được bàn luận thêm. Bên cạnh đó, những luận văn cấp thạc sĩ, tiến sĩ (cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh) cũng có dề cập đến những vấn đề về QN với tư cách như là đối tượng có liên quan. Như vậy, việc tiếp tục nhận diện, kiến giải sự xuất hiện của QN dưới góc nhìn đầy đủ của ba bình diện ngliĩa học (semantics), kết học (syntax) và dăc biêt là dung hoc (pragmatics) chắc chắn sẽ giúp chúng ta rất nhiều để đạt đến một năng lực giao tiếp hoàn chỉnh trong học tập, nghiên cứu và sử dụng tiếng mẹ đẻ cũng như tiếng nước ngoài. Tất cả các quan sát trên đã thôi thúc chúng tôi thực hiện luận án này. 3. Pham vi đề tài luân án t • 3.1. Như đã nói, ngay từ những quan sát đầu tiên, chúng tôi đã nhận íhức rằng QN không giống như các “ngữ” khác trong hệ thống ngữ cố định (mặc dầu chúng tạm thời được xếp vào đó). Vì vậy, mặc dù được lấy tên chung là QN, đối tượng được khảo sát của luận án không phải với tư cách là loại đơn vị ngôn ngữ trong hình thức và ngữ nghĩa hệ thống (trạng thái tĩnh) mà là dưới góc nhìn như là những đơn vị dang làm chức năng kiến tao PN cùng với thế mở của hoat dông ngôn ngữ. Như vậy, nếu hiểu PN là môi trường hành chức đích thực của QN như trên thì, từ đó, trong thực tế khảo 6 sát, luận án khống thể khống hướng tới SƯ hành chức của QN trong giao tiếp lời nói; vì rằng, trong tín hiệu thực của nó, “giao tiếp lời nói” chính là sự thể hiện trực tiếp và sinh động nhất của ngôn ngữ. Đây là phạm vi khảo sát mà phạm vi luận án không thể không chú ý. Do đó, chính sự nghiên cứu trong “môi trường sinh động” của ngôn ngữ, luận án không những có dịp củng cố thêm cách nhìn truyền thống đối với QN mà còn có điều kiện gơi mơ và làm sáng tỏ thêm cách nhìn dong vẻ những phẩm chất mới thông qua sư hành chức năng dông có thể có của QN, gắn với cơ chế mơ giữa hai pham trù chức năng (function) và hình thái (form) theo nguyên tác dai cương mốt chức năng có thể dươc thể hiên lỉiỏng Cịua nhiéu hình thái và mốt hình thái có thể thể hiên nhiều chức năng.Thỉết nghĩ có như vậy, quá trình nhận diện QN mới thoát khỏi sự bó hẹp, tạo rnột hành lang nghiên cứu rông và thực tiễn hơn. 3.2. QN có khả năng xuất hiện ở nhiều vị trí trong PN, ở mỗi vị trí như vậy, vai trò tổ chức ngữ nghĩa của chúng là khác nhau. Vì vậy, để tập trung hơn cho việc nghiên cứu, luận án chỉ đi sâu vào lớp QN thưởng xuyên dứng dầu PN. Ví dụ: (4) Phải nói là sự xúc động này tỏi không thể nào nói hết được (238). (5) O f course, he spoke to me when he saw me. (144) Dĩ nhiên là anh ta nói chuyện với tôi khi anh ta gặp tôi. 3.3. Đối tượng được đặt trong mối quan hệ với PN hoàn chính (utterance/speech), khổnu phái là mốt câu (sentence). Nếu ngữ liệu được đưa ra có hình thức một câu thì đó chỉ là một sự gặp nhau về ranh giới PN và câu. Những thuật ngữ như PN, diễn ngôn (discourse) và văn bản (text) trong luận 7 án đều dùng chung cho các ngôn phẩm dưới dạng thức cả viết lẫn nói với văn phong chủ yếu là bình thường (neutral). 3.4. Yếu tố ngôn điệu (prosody) thường có quan hệ chặt chẽ với đối tượng đề tài nhưng đó là một vấn đề lớn, cần một công trình nghiên cứu chuyên biệt khác nên luận án không đi sâu vào vấn đề này mà chỉ nói qua khi cần thiết. 3.5. Cuối cùng, khi đề cập đến vai trò của QN trong việc kiến tạo PN trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt, chúng tôi xác định: a) Luận án không lấy sự so sánh QN giữa tiếng Anh và tiếng Việt trên cơ sở loại hình học (typology) làm mục tiêu, mà sự so sánh ở đây chỉ được coi như là phương tiện để làm rõ thêm quan niệm và cách nhìn nhận phổ quát nhất về QN trong tính ứng dụng của nó giữa hai cộng đổng bản ngữ Việt-Anh. b) Bên cạnh đó, để đảm bảo tính ứng dụng thực tiễn của minh, về mặt sư phạm, trên cơ sở tương đồng và dị biệt giữa hai ngôn ngữ, luận án cũng có nhiệm vụ dề xuất một số vấn đề cụ thể về giảng dạy và dịch thuật QN. 4. Nhiệm vụ và đóng góp của luận án Vì đây là công trình đầu tiên của chuyên ngành ngôn ngữ học viết về một đề tài với lịch sử nghiên cứu còn tương đối rời rạc, chưa có hệ thống và thậm chí chưa được rõ ràng về khái niệm, cách nhận diện nên, trước tiên, chúng tôi mong muốn tìm ra một khung lý thuyết theo các cấp độ ngôn ngữ 8 học để trả lời câu hỏi mang tính hệ thống là QN là fjì và chúng thưc hiên các chức năng' của chúng ra sao tronỉi PN? Từ đó đóng góp của luận án là 4.1. Về lý thuyết, góp phần giải quyết về các vấn đề: a) Ranh giới giữa QN và các khái niệm tương cận trên cơ sở các tiêu chí nhất định; b) Làm rõ các đặc điểm cú pháp nội tại cũng như quan sát quá trình hình thành QN; c) Làm rõ chức năng của QN trong việc kiến tạo PN. 4.2. Về thực tiễn, luận án sẽ: a) Góp phần vào nhiệm vụ làm sáng tó về lớp từ này trong quá trình tham gia kiến tạo P N ; b) Phát hiện một số đặc điểm sử dụng thực tế QN trong các thành tô văn hoá xã hội; c) Góp phần nào việc ứng dụng cách nói năng, giảng dạy và dịch thuật QN đ ể đạt hiệu quả giao tiếp. Đặc biệt trong dạy và học tiếng Anh, mảng khái niệm giao tiếp giao văn hoá được nhấn mạnh. 5. Phương pháp Chúng tôi thực hiện luận án dựa trên cư sở kết hợp các phương pháp lớn là: 5.1. Phương pháp diễn dịch (deduction) 9 Cách tiếp cận cho phương pháp này là thừa kế và vận dụng các thành tựu đã đạt được, các kết luận có tính tiền đề cho dối tượng nghiên cứu của đề tài luận án. Nghĩa là, đối tượng nghiên cứu được đặt vào cái chung đã được đúc kết trong các binh diện ngôn ngữ học Iruyền thống cũng như hiện đại như ngữ pháp, từ vựng học, phân tích văn bản (discourse analysis), phân tích hội thoại (conversational analysis), ngữ dụng học (pragmatics), cũng như các quan điểm của các nhà nghiên cứu có uy tín trong và ngoài nước như là nén táng lâp luân. Tuy nhiên, cũng từ đây, những cái mới có thể xuất hiện nhờ các qui luật và nguyên tắc của lôgíc học mà trong số đó, đáng kể nhất là quá trình diễn dịch: Nếu lấy luận điểm A suy ra luận điểm B mà luận điểm A là đúng thì B là đúng. 5.2. Phương pháp Qui nạp (induction) Chúng tôi thực hiện phương pháp này như một bổ trợ tích cực cho phương pháp diễn dịch, nói cách khác là để chứng minh cấp độ đúng đắn của các luận điểm từ “sự diễn dịch”, bổ xung cái mới cho các tiền dề lý thuyết đã cổ sấn bằng các kết quả Ihưc tiễn diều tra dươc. Những hướng tiếp cận và thao tác như là: + Định lượng: Thu thập số liệu từ nguồn ngữ liệu cụ thể từ tiểu thuyết, từ các phát ngôn “bán thực tế” thu từ các lời thoại phim truyện, kịch, đặc biệt từ các cuộc hội ihoại “sống”, từ phiếu kết quả trả lời các câu hỏi khảo sát của các cộng tác viên (informants), từ báo chí, tiểu thuyết, phiếu câu hỏi khảo sát. + Với các dữ liệu đó, chúng tôi thực hiện các phân chia, phân tích, thống kê và tổng hợp, để tìm ra kết quả. 10 5.3. Ngoài ra, chún g tòi không thể không sử dung phương pháp miêu tá để làm nổi bât các dặc tính của dổi tương nghiên cứu. Các thao tác của phương pháp này là cải biên, thay thế, so sánh, lập mô hình ngôn ngữ học (biểu đồ, bảng, hình vẽ) v.v. 6. Nguyên tắc nghiên cứu 6.7. Để có được thuận tiện trong Irình bày, chúng tối khổng coi trong trât tư xuất phát hoăc thiên lêch vé mốt Ihứ tiếng nào. Trong một số trường hợp, vấn đề đang bàn luận có đặc tính chung, hay ít nhất, cũng là sự trùng hợp giữa hai ngôn ngữ nên việc khắc hoạ đặc trưng cho mỗi thứ tiếng thiết nghĩ không phải là yêu cầu bức thiết (vì như dã trình bày ở phần 3.6.a, và bản thân tên đề tài vốn cũng chỉ rõ rằng tiếng Việt và tiếng Anh chỉ là cứ liệu). 6.2. Chúng tôi cũng cố gắng tránh áp đặt khiên cưỡng các đặc thù của hai thứ tiếng lên nhau. Tuy nhiên, do những dặc trưng ngôn ngữ của đối tượng nghiên cứu mang tính phổ quát rất cao nên chúng tôi có khuynh hướng tranh thủ lân dung những lý luân của tiếna Anh trong những trường hơp cỏ thể ứng dụng dươc cho tiếng Viêt vốn chưa cổ truyền thống nghiên cứu sâu và rống vé dé tài này. 6.3. Tôn trong và tân dung những lý thuyết, dinh dẻ dã có sẩn dù truyền thổnR hay hiên dai nhưng không dừng lai ơ những cái cũ mà cố gang phát hiên thêm cái mới cổ lâp luân dưa nên cơ sơ đinh lương dể tiến đến muc đích cuối cùng là tìm ra dươc các giá tri dung hoc của dổi tương đang nghiên cứu. Nói cách khác là chức năng kiến thiết PN trong ngôn cảnh (context) của QN được nghiên cứu chứ không phải bản chất cố hữu có tính 11 đó, tên gọi QN của đối tượng của luận án cũng chí là mốt nhãn hiẽu vay ni ươn từ bỏ môn ngữ lUihia hoc từ vưng. về thực tế, những đối tượng này vượt ra cách nhìn về mặt truyền thống vì chúng chí dươc xét trong bối cảnh hành chức trong mốt PN cu the dưới moi hình thái mà chức năng của chúng có thể “ẩn mình” trong đó. 7. Bố cục của luận án Luận án được chia thành ba phần: 1) Mở đầu: Giới thiệu luận án 2) Nội dung chính: Có ba chưưng như sau: Chương 1: Nhận Diện Chung QN Việt-Anh Nhiệm vụ chính của chư - Xem thêm -

Tài liệu liên quan