Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu trong điều...

Tài liệu Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

.DOC
16
39
79

Mô tả:

LUẬT TÀI CHÍNH 2011 LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ thương mại với 160 nước và vùng lãnh thổ, tham gia 86 hiệp định thương mại, 46 hiệp định hợp tác đầu tư và 40 hiệp định chống đánh thuế 2 lần, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của trên 70 nước, chính thức là thành viên thứ 150 của WTO năm 2006. Đối với mỗi quốc gia, thuế quan có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ nền sản xuất trong nước; đóng góp nguồn thu cho ngân sách và điều tiết hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của mỗi quốc gia. Khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, việc bảo hộ sản xuất trong nước bằng con đường thuế quan không còn phù hợp. Vậy làm thế nào để thuế quan góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính vì vậy, có thể thấy vai trò của pháp luật thuế nhằm tạo điều kiện cho sự hòa nhập của Việt Nam đối với nền kinh tế thế giới là rất quan trọng, tuy nhiên nó cũng phải đảm bảo nguồn thu đối với ngân sách nhà nước, cũng như đảm bảo những mục tiêu phát triển của nền kinh tế. Do đó, có thể thấy tầm ảnh hưởng của pháp luật thuế là rất lớn. Chính vì lý do đó, sau đây em xin được đi tìm hiểu vấn đề: “Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” với mong muốn được hiểu biết rõ hơn về các vai trò của hệ thống pháp luật thuế trong điều kiện của nước ta hiện nay. 1 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 BÀI LÀM I. Lý luận chung về thuế và pháp luật thuế 1. Khái quát chung về thuế trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Thuế là hiện tượng tất yếu, xuất hiện và tồn tại cùng với các hiện tượng kinh tế xã hội khác. Sự xuất hiện, phát triển của thuế gắn với mỗi giai đoạn, lợi ích mà nhà nước sử dụng nó làm công cụ điều tiết nguồn thu của nền kinh tế xã hội ấy. Có thể nói, thuế là phạm trù lịch sử, là một tất yếu khách quan xuất hiện từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước. Thuế được Nhà nước sử dụng như một công cụ kinh tế quan trọng nhằm huy động nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, góp phần điều chỉnh kinh tế và điều hòa thu nhập. Có nhiều cách hiểu khác nhau về thuế nhưng có thể hiểu một cách chung nhất đó là: Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Như vậy, có thể thấy, bản chất của thuế là loại quan hệ phân phối gắn với Nhà nước, loại quan hệ giữa Nhà nước với người nộp thuế. Bản chất này không thay đổi trong những xã hội có chế độ kinh tế chính trị khác nhau. Bất kể xã hội nào cũng thể hiện quan hệ thu và nộp như nhau. Đặc điểm chung của thuế: - Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách. - Thứ hai, thuế gắn với yếu tố quyền lực. Chỉ gắn với yếu tố quyền lực, thuế mới đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho Nhà nước. - Thứ ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp. Số tiền thuế mà các cá nhân và tổ chức kinh tế phải nộp không phụ thuộc vào mức độ thụ hưởng các dịch vụ công cộng do Nhà nước cung cấp tức là lợi ích riêng mà tuỳ theo khả năng thu thuế. - Thứ tư, thuế đảm bảo việc chi tiêu cho lợi ích công cộng. Phân loại thuế: 2 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 Căn cứ vào mục đích điều tiết, thuế có hai loại cơ bản là thuế trực thu và thuế gián thu. Thuế trực thu bao gồm các loại thuế như thuế thu nhập, thuế đánh vào của cái, thuế đánh vào đối tượng thường trú. Chúng được gọi là thuế trực thu vì người có nghĩa vụ nộp thuế thường là người gánh chịu thuế. Nói cách khác, người nộp thuế không thể chuyển nghĩa vụ thuế sang cho các đối tượng khác. Thuế trực thu có ưu điểm đảm bảo sự công bằng trong việc điều tiết thu nhập thặng dư của người nộp thuế nhưng thường gây ra sự phản ứng về thuế của người nộp thuế do không có sự chuyển dịch về thuế và có một sự đảm bảo chắc chắn rằng phải thực hiện một nghĩa vụ nộp tiền. Thuế gián thu bao gồm các loại thuế như thuế xuất nhập khẩu, thuế gắn với sản xuất và bán hàng hóa. Gọi chung là thuế gián thu vì người gánh chịu thuế là khách hàng, nhưng người nộp thuế lại là người bán hàng, nhà nhập khẩu. Nói khác đi, đã có sự chuyển dịch nghĩa vụ thuế từ khách hàng sang người kinh doanh. Thuế gián thu có ưu điểm thường hạn chế sự phản ứng thuế từ người gánh chịu thuế nhưng lại không tạo ra sự bình đẳng về điều tiết thu nhập của những đối tượng có thu nhập chênh lệch. Nếu căn cứ vào đối tượng tính thuế, có thuế đánh vào tài sản, thuế đánh vào thu nhập và thuế tiêu dùng. Thuế tài sản là thuế đánh vào bản thân tài sản chứ không phải đánh vào phần thu nhập phát sinh từ tài sản đó. Các loại thuế như thuế nhà đất, thuế vốn, thuế chuyển nhượng tài sản, chuyển nhượng vốn là loại thuế tài sản. Thuế đánh vào thu nhập chỉ thực hiện đối với những đối tượng có giá trị thặng dư phát sinh từ tài sản của họ. Các loại thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân có đối tượng tính thuế là những phần thu nhập phát sinh trong quá trình sử dụng tài sản của mình hay do kết quả của lao động… 3 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 Thuế tiêu dùng, phần lớn là loại thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt 2. Khái quát chung về pháp luật thuế. Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách Nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước. Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ, qua đó lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đạt được hiệu quả điều chỉnh cao. Như vậy, pháp luật thuế chính là quan hệ thu, nộp thuế giữa Nhà nước và cư dân dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định. Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ, qua đó, lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp nhằm đạt được hiệu quả điều chỉnh cao. II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay. Pháp luật thuế không chỉ quy định nội dung các thứ thuế mà còn xác lập các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp bảo đảm thực hiện thu, nộp thuế. Chính vì vậy, pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của nước ta. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, thuế cũng như pháp luật thuế đang có một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng. 1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Pháp luật thuế bao gồm các quy phạm pháp luật xác định quyền thu thuế của Nhà nước, nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể khi có đủ các điều kiện. Điều này có nghĩa nguồn thu từ thuế chỉ có thể có được khi các bên thực hiện đúng quy định pháp luật thuế. 4 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước. Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách, đáp ứng được các nhu cầu chi tiêu thiết yếu của nhà nước. Do đó, sự thay đổi của các quy định pháp luật thuế đều ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước. Như vậy, nguồn thu từ thuế có vị trí quyết định đến cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước. Trong xã hội hiện đại, ngân sách nhà nước có ý nghĩa sống còn đối với bất kì quốc gia nào. Đối với nước ta, xuất phát từ vai trò của nhà nước trong sự ngiệp phát triển kinh tế, xã hội nên hoạt động thu ngân sách nhà nước càng trở nên quan trọng và cần thiết. Chính điều này đã một lần nữa gián tiếp khẳng định tầm quan trọng của pháp luật thuế. Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất của sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu – nộp thuế là nhằm tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước. Hầu hết các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách Nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước, từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng. Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay, nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển thành có vay có trả. 5 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài. 2. Pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lý, điều tiết tới mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, Nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông qua đó thực hiện công bằng xã hội. Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước như trình bày ở trên, pháp luật thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Điều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hóa và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội. Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều chỉnh thu nhập trong những trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội, ở mỗi quốc gia có những định hướng khác nhau thùy theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng đối với hàng hóa, dịch vụ chưa phù hợp với giai đoạn hiện tại. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu…đối với việc sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó. Trong khi đó lại khuyến khích, tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội. Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. 6 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 Không những vậy, thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến cung – cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung – cầu của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung – cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu. Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp. Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu qủa các nguồn lực cuả đất nước trong việc điều chỉnh cung – cầu và cơ cấu kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật thuế góp phần phát huy cao độ các nguồn nội lực, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng sức sản xuất, khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – dịch vụ, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. 7 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 Ở Việt Nam, bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội, pháp luật thuế còn được Nhà nước sử dụng như một công cụ thể hiện chính sách xã hội Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Đối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp. Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực của đất nước trong việc điều chỉnh cung – cầu và cơ cấu kinh tế. 3. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ để kiểm tra gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh. Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lý thuế cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy đinh gắn với chế độ chứng từ, hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thái kinh doanh, cơ cấu tổ chức… Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, Nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh tế; trên cơ sở đó, có hệ thống pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung phù hợp với định hướng trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong quá trình hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung. 4. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội. 8 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân. Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng. Vai trò điều thiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội. Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế suất. Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. 5. Pháp luật thuế quản lý các hoạt động thu, nộp thuế Từ phương diện quản lý Nhà nước, pháp luật thuế được xem như một công cụ hữu hiệu trong việc quản lý các hoạt động thu, nộp thuế nhằm khai thác vai trò tích cực và hạn chế những tiêu cực của hoạt động này. Quan hệ thuế về bản chất là một quan hệ phân phối của cải dưới hình thức giá trị nên tự bản thân nó đã là một mảnh đất màu mỡ làm nảy sinh các hoạt động xã hội tiêu cực, làm phương hại đến lợi ích chung của cộng đồng. Bởi vậy, bằng pháp luật thuế, Nhà nước đã đưa ra các giới hạn “hành lang”, thiết lập các “hàng rào pháp lý” để các chủ thể có được sự tự do trong khuôn khổ. Vượt ra ngoài khuôn khổ đó, đương nhiên họ sẽ phải chịu các chế tài nghiêm khắc. Tóm lại, pháp luật thuế ra đời do yêu cầu của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực thuế. Nói cách khác, pháp luật thuế ra đời là do đòi hỏi của cuộc sống các quan hệ thuế. Đến lượt mình, pháp luật thuế tác động trở lại làm cho các quan hệ thuế phát sinh, phát triển theo chiều hướng mà Nhà nước mong muốn. 9 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng trong việc kiến tạo một môi trường chính trị, kinh tế - xã hội ổn định, tiến bộ, làm nền tảng, cơ sở vững chắc cho công cuộc hội nhập và phát triển thành công. III. Thực trạng việc áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam – Giải pháp nhằm phát huy vai trò pháp luật thuế trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. 1. Thực trạng áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam. 1.1. Năng lực thuế thấp: Nguồn thu thuế ở nước ta chiếm tỷ trọng còn hạn chế trong tổng thu Ngân sách Nhà nước với khoảng 60% trong khi đó các nước phát triển trên 90% trong đó thì: Thuế nhập khẩu đóng góp tới 1/3 tổng thu ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, khoản thu này đang giảm đi do các hiệp định tự do hóa thương mại mà Việt Nam đang tham gia. Thu từ thuế gián thu chiểm tỷ trong lớn trong đóng góp ngân sách Nhà nước, 45% trong giai đoạn 2001 – 2005. Các loại thuế gián thu ở Việt Nam bao gồm thuế xuất khẩu – thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, phí xăng, dầu. Kể từ khi gia nhập WTO, thu thuế về xuất nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt và VAT hàng nhập khẩu bị giảm sút do cam kết hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Việc cắt giảm thuế quan theo các hiệp định đã ký kết dẫn đến tổng thu nhập nhập khẩu giảm theo. 1.2. Thất thu thuế lớn Mặc dù ngành thuế ngày càng có nhiều nỗ lực, nhưng các biện pháp chống thất thu thuế xem ra chưa hữu hiệu, dường như người ta mới tận thu được với các đơn vị và công dân gương mẫu trong nghĩa vụ thuế, còn những người cố tình trốn thuế thì không bị chế tài. Tình trạng này không những thể hiện trong thuế thu nhập cá nhân mà thể hiện rất dễ thấy trong thuế giá trị gia tăng. Rất nhiều doanh nghiệp, 10 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 khách sạn, cửa hàng… không làm hóa đơn cho khách hàng, còn khách hàng thì rất nhiều người cũng không có nhu cầu lấy hóa đơn. Phần lớn khoản doanh thu không nhỏ đó Nhà nước không thu được thuế, cả thuế giá trị gia tăng lẫn thuế thu nhập doanh nghiệp. Tình trạng đó không những gây tổn hại cho lợi ích của đất nước mà còn tạo ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế của công dân, vô hình chung tạo thêm sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Ngoài hai thực trạng đã nêu trên, trong bài viết “Áp dụng pháp luật trong lĩnh vực thuế”, Ths. Trần Vũ Hải – giảng viên trường đại học Luật Hà Nội cũng chỉ ra một số hạn chế tiêu biểu trong việc áp dụng pháp luật thuế. Đó là: - Thụ động trong việc ra quyết định, còn trông chờ hướng dẫn của cấp trên. Theo đọc công văn trả lời của Tổng cục thuế thì sẽ thấy ngay rằng đại đa số các trường hợp thắc mắc đều đã được giải thích hết sức rõ ràng qua Thông tư hướng dẫn thi hành. Điều đó chứng tỏ, việc nắm vững và vận dụng pháp luật thuế của các Cục thuế địa phương còn rất nhiều hạn chế. - Chậm trễ trong việc thực hiện các ưu đãi thuế. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp, những hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế hoặc hoàn thuế bị cơ quan thuế xử lý một cách chậm trễ. Đôi khi, công chức quản lý thuế còn đòi hỏi những điều kiện về giấy tờ, hồ sơ, sổ sách vượt ra ngoài những yêu cầu của pháp luật. Không kể dến mục đích gây khó khăn để thực hiện hành vi tham nhũng, thì những yêu cầu quá mực này đã cản trở chủ thể nộp thuế thực hiện quyền của mình một cách hợp pháp, làm giảm hiệu ứng tốt của chính sách ưu đãi thuế. - Còn nhiều tranh chấp về thuế dẫn đến khiếu nại tố cáo không được giải quyết thỏa đáng. Với thực trang đã phân tích ở trên, thì hiện tượng khiếu nại, tố cáo chắc chắn sẽ xuất hiện. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng, việc khiếu nại, tố cáo là quyền của cá nhân, tổ chức và việc có khiếu nại, tố cáo không đồng nghĩa với việc công chức quản lý thuế hay cơ quan quản lý thuế đã vi phạm pháp luật. Bên cạnh những trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo thỏa đáng, đúng pháp luật, cũng vẫn 11 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 còn xảy ra tình trạng khiếu nại, tố cáo không được giải quyết đúng thời hạn, dây dưa, vòng vo dẫn đến những phản ứng tiêu cực tiếp theo của cá nhân, tổ chức khiếu nại, tố cáo. Bên cạnh đó, hiện tượng bao biện, không nhận trách nhiệm và không xử lý đúng pháp luật công chức quản lý thuế, cơ quan quản lý thuế mắc sai phạm cũng làm cho sự việc càng trở nên phức tạp hơn. 2. Giải pháp nhằm phát huy vai trò pháp luật thuế trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hoàn thiện pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng là quá trình hoạt động thực tiễn mang tính đặc thù của các nhà lập pháp. Hoạt động này vừa đòi hỏi các chủ thể thực hiện phải tuân thủ một số nguyên lý nhất định mang tính lý thuyết, vừa đòi hỏi phải tính đến khía cạnh thực tiễn của quá trình phát triển khách quan của pháp luật. 2.1. Hoàn thiện pháp luật thuế. - Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu, có nghĩa là phải huy động mọi nguồn thu, tăng thu trên cơ sở mở rộng diện thu với mức thuế suất vừa phải và đơn giản (thuế suất cao và thấp quá sẽ mất tác dụng của thuế). - Xác định và lựa chọn đúng mục tiêu của thuế: Mục tiêu của thuế chủ yếu là kích thích, điều tiết kinh tế và tăng thu cho ngân sách Nhà nước, không nên đặt ra cho thuế phải thực hiện một lúc nhiều mục tiêu liên quan đến chính sách xã hội. - Thực hiện chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, chống tình trạng trùng lặp trong thuế, chống thuế chồng lên thuế. - Đơn giản hóa chính sách thuế, đơn giản cả về mặt thuế suất, thủ tục, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ được đông đảo người nộp thuế chấp nhận. - Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong phân phối thu nhập, điều tiết thu nhập hợp lý, tạo công bằng xã hội. - Chính sách thuế phải bảo đảm ổn định trong một thời gian dài, tránh tình trạng thay đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. - Chính sách thuế phải tạo ra điều kiện cho khả năng kiểm soát được: kiểm soát của người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thu thuế. - Thu hẹp phạm vi diện miễn giảm thuế, tập trung vào các yêu cầu cơ bản của chính sách kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. 12 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 - Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả của chính sách thuế. Áp dụng nghiêm minh hình thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các khoản thu thuế không hiệu quả, do chi phí để thu thuế lớn hơn cả số tiền thu thuế được. 2.2. Chống thất thu, nâng cao trình độ nghiệp vụ và nhận thức của mỗi cán bộ thu thuế, mặc khác cũng tăng cường thanh tra kiểm tra để phát hiện và xử lý ngay sai phạm. Tăng cường công tác phân tích, dự báo những tác động bất lợi từ việc suy giảm kinh tế, những tác động bất thường của giá cả, thị trường tín dụng trên thế giới và trong nước tác động đến tình hình thu nộp ngân sách Nhà nước của khối Doanh nghiệp để có những đề xuất, kiến nghị giải pháp kinh tế vĩ mô ngăn chặn đà suy giảm nguồn thu Ngân sách Nhà nước. Ngành thuế tiếp tục theo dõi, phát hiện để có ý kiến đề nghị với các ngành, các cấp có thẩm quyền tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về vốn, thị trường, giá cả, xử lý kịp thời các cơ chế chính sách gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, công tác thanh tra, kiểm tra sẽ được ngành Thuế đẩy mạnh và làm quyết liệt trong thời gian tới. Theo đó, ngành thuế sẽ đẩy mạnh việc kiểm soát, xử lý triệt để các khoản nợ đọng thuế, trình cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý vướng mắc về nợ thuế, tập trung lực lượng triển khai các biên pháp thu hồi nợ thuế, triển khai cá biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng. Cơ quan thuế các cấp sẽ thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá phân tích, dự báo những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn, làm rõ những khoản còn thất thoát, các nguồn thu còn tiềm năng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế để lựa chọn những đối tượng có dấu hiệu gian lận thuế, bổ sung vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra, đặc biệt tập trung vào nhóm doanh nghiệp lớn, các Tập đoàn, tổng công ty, các địa bàn trọng điểm có số thu lớn, các ngành hàng, các lĩnh vực, các loại hình tổ chức có dấu hiệu thất thu lớn. Tập trung tổng hợp, rà soát các kết quả sau thanh tra để có biện pháp xử lý đôn đốc, thu hồi kịp thời các khoản mà thanh tra đã kết luận vào ngân sách Nhà nước. 2.3. Tăng cường công tác bồi dưỡng đội ngũ công chức thuế và phát triển cơ sở hạ tầng ngành thuế. Như trên đã phân tích, sự phát triển ngày càng phức tạp của nền kinh tế đòi hỏi hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng phải phát triển tương xứng. Bên cạnh đó, những cải cách trong hoạt động quản lý Nhà nước và ứng dụng công nghệ thông tin đòi hỏi đội ngũ công chức quản lý thuế phải được bồi dưỡng nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu công tác. Cơ sở hạ tầng ngành thuế cũng cần 13 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 phải tiếp tục được hoàn thiện nhằm gia tăng tính hiệu quả của công việc, giảm thiểu thời gian và chi phí cho chủ thể nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ thuế. 2.4. Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, thường xuyên trong mọi tổ chức và dân cư. Tạo điều kiện cho dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, đây là một sức mạnh to lớn để thực hiện chính sách trốn thuế, lậu thuế… Qua đó, giúp họ hiểu về các luật thuế và các văn bản dưới luật để họ hiểu rõ, nhận thức trách nhiệm, nghĩa vụ của người nộp thuế và tổ chức thực hiện tốt. 14 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 KẾT LUẬN Qua bài phân tích, em đã đưa ra một số khái quát về thuế và pháp luật thuế, cũng như thực trạng của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay. Từ đó, em cũng chỉ ra một số giải pháp nhằm cải thiện, khắc phục những hạn chế đó. Trong bài viết còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài làm hoàn thiện hơn. 15 LUẬT TÀI CHÍNH 2011 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật quản lý thuế năm 2006. 2. Luật ngân sách nhà nước 2002. 3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb Công an, Hà Nội, 2008. (Chương I, Những vấn đề cơ bản về pháp luật thuế). 4. Phạm Thị Giang Thu, “Những yêu cầu và mục tiêu cơ bản của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế ở Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 3, tháng 3/2008. 5. Ths Trần Vũ Hải – Đại học Luật Hà Nội, “Áp dụng pháp luật trong lĩnh vực thuế”, luattaichinh.wordpress.com 6. http://www.wattpad.com/143117-tctt21-vai-tro-thue?p=3 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan