Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát hu...

Tài liệu Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập

.DOC
17
111
118

Mô tả:

MỤC LỤC TRANG A. MỞ BÀI…………………………………………………………………… ….2 B. NỘI DUNG…………………………………………………………..…… …..2 I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT THUẾ……………………..…………2 1. Khái niệm pháp luật thuế…………………………………………………..… .2 1.1 Khái niệm pháp luật thuế………………………………………………….2 1.2 Đối tượng điều chỉnh của Luật thuế…………………………….…………3 1.3 Nguồn của pháp luật thuế………………………………………………….4 2. Quan hệ pháp luật thuế………………………………………………….………5 3. Mô hình cấu trúc tổng quát của hệ thống pháp luật thuế….……………………6 II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT THUẾ……………………………..…………..7 III. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THUẾ VIỆT NAM………….……………….10 VI. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT THUẾ TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ. ……………………………………….……….………………13 C. KẾT LUẬN………………………………………….….……………………..16 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………….17 1 BÀI LÀM A. MỞ BÀI Thuế vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử. Sự ra đời của thuế là một tất yếu khách quan gắn liền với sự ra đời của nhà nước, việc phát triển của thuế gắn với mỗi giai đoạn, lợi ích mà nhà nước sử dụng nó làm công cụ điều tiết nguồn thu của nền kinh tế xã hội ấy. Mặt khác thuế có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia vì vậy việc có một hệ thống pháp luật thuế để điều chỉnh là rất quan trọng. Hơn nữa để duy trì tồn tại và thực hiện tốt các chức năng của thuế thì cần phải có một hệ thống pháp luật thuế ổn định và hợp lý nên chúng ta cần đưa ra các giải pháp để hoàn thiện hơn về pháp luật thuế của nước ta hiện nay. Và để làm rõ tầm quan trọng của hệ thống pháp luật thuế nên em xin chọn đề tài “Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” làm bài tập lớn của em. B. NỘI DUNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT THUẾ 1. Khái niệm pháp luật thuế. 1.1Khái niệm pháp luật thuế. Quan hệ thu, nộp thuế giữa nhà nước và dân cư phải được thực hiện dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật thuế. Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước. Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ, qua đó lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đạt được hiểu quả điều chỉnh cao. Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của luật thuế ở Việt Nam cho thấy pháp luật thuế ra đời rất sớm. Nhà nước với tư cách là chủ thẻ quyền lực, sử dụng công cụ riêng là pháp luật để tập trung bộ phận của cải xã hội mà không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng nắm giữ của cải đó. Điều này cũng giúp cho việc phân biệt giữa luật thuế với luật ngân sách nhà nước mặc dù giữa luật thuế và luật ngân sách nhà nước có mối liên hệ nội tại. 2 1.2Đối tượng điều chỉnh của Luật thuế. Trong giai đoạn hiện nay, khi còn nhiều quan điểm khác nhau về ngành luật, việc đưa ra đối tượng điều chỉnh của Luật thuế chỉ có ý nghĩa xác định rõ ràng những loại chủ thể với những đặc tính nhất định sẽ là đối tượng hướng tới hoặc cần được bảo vệ bởi các văn bản pháp luật trong nước cũng như văn bản pháp luật quốc tế về thuế. Xác định đối tượng điều chỉnh của luật thuế không có nghĩa xác định đây là một ngành độc lập hay một lĩnh vực khoa học luật riêng biệt mà chỉ nhằm xác định rõ nội dung nghiên cứu, đề cập trong một lĩnh vực pháp luật cụ thể, một môn học luật. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động và nội dung hoạt động của các chủ thẻ, đối tượng điều chỉnh của pháp luật thues bao gồm các nhóm quan hệ sau: - Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý thuế . Quản lý thuế là một trong những nội dung quan trọng, không thể tách rời hoạt động quản lý nhà nước. Hoạt động quản lý thuế gồm nhiều nội dung cụ thể khác nhau, tuy vậy bao giờ cũng gắn liền với sự tham gia của nhà nước (nhân danh chính mình hoặc thông qua các cơ quan chức năng). Hoạt động quản lý thuế của các cơ quan có thẩm quyền bao gồm những nhóm hành vi cơ bản được tiến hàng trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc quản lý hành chính và thể hiện thông qua một loạt loại hành vi: + Chấp hành những quy định về thuế của các cơ quan có thẩm quyền, chống hiện tượng chiếm dụng và trốn lậu thuế; nguyên + Xác định phạm vi người nộp thuế và các tắc đóng thuế; + Xác định đúng đối tượng đánh thuế và các căn cứ tính thuế; + Xác định cách thức tính thuế, quyết định việc miễn giảm thuế trên cơ sở quy định của pháp luật; + Tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm chống thất thu thuế; + Thanh tra kiểm tra quá trình nộp, thu thuế; - Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế. Các tổ chức, cá nhân dù trực tiếp hay gián tiếp đều phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Để đảm bảo việc nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, pháp luật thuế điều chỉnh những loại hành vi cơ bản sau đây của những đối tượng này: +Thực hiện đăng ký, kê khai thuế. 3 + Thực hiện nọp thuế theo trình tự, tức là thực hiện theo một trật tự phải tuân thủ trong suốt quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế. + Đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét đúng, chính xác số thuế phải nộp trong những trường hợp cần thiết. - Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình xử lí vi phạm và khiếu nại về thuế. + Hoạt động xử lý vi phạm về thuế liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật thuế như thiếu nợ thuế, sót thuế, trốn thuế, chống thuế nhưng chưa đến mức cấu thành tội phạm hình sự; + Giải quyết khiếu nại những quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền khi ra các quyết định có căn cứ, không công bằng, không đúng pháp luật…. Xét đối tượng điều chỉnh cảu pháp luật thuế, có thể nhận thấy: - Nhà nước với tư cách là chủ thể quyền lực, luôn là một bên tham gia quan hệ thuế và trực tiếp chi phối các quan hệ đó. - Các quan hệ đều nhằm hướng tới việc chuyển giao bắt buộc một nguồn tài chính vào nhà nước. Nguồn tài chính đó nhằm phục vụ lợi ích công cộng, điều chỉnh xã hội ở tầm vĩ mô. Đặc điểm về chủ thể của nội dung của các nhóm quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật thuế cho thấy các quan hệ do pháp luật thuế điều chỉnh luôn mang tính chấp hành và điều hành, là nội dung quàn trọng của tài chính công. Điều này cũng chi phối trực tireeos việc sử dụng phương pháp điều chỉnh quan hệ thuế. 1.3 Nguồn của pháp luật thuế. Nguồn của pháp luật thuế là các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế và các văn bản pháp luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện quyền thu thuế mà Việt Nam đã ký kết hoặc cam kết thực hiện. Nguồn của văn bản pháp luật thuế do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam ban hành bao gồm các văn bản luật và văn bản dưới luật. Luật do Quốc hội ban hành, sửa đổi, bổ sung như Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế xuất nhập khẩu, Thuế thu nhập doanh nghiệp… Một điểm khá đặc thù trong hệ thống luật điều chỉnh hoạt động thu thuế do Nhà nước Việt Nam ban hành là quy định về thuế có thể được ghi nhận ở một văn bản pháp luật 4 đơn hành mà không hoàn toàn ghi nhận tại các luật thuế nói chúng. Chẳng hạn, Luật dầu khí điều chỉnh quan hệ thuế tài nguyên của các tổ chức kinh tế có khai thác dầu, khí trên lãnh thổ Việt Nam. Các văn bản dưới luật do chính phủ, Thủ tướng chính phủ, bộ trưởng các bộ quản lý ngành ban hành quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh thuế. Các văn bản pháp luật quốc tế là nguồn pháp luật thuế bao gồm các điều ước quốc tế song phương và đa phương. Các điều ước quốc tế đa phương mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc cam kết thực hiện như OECD- 1997 về “Hiệp định mẫu về tránh thuế hai lần đối với các loại thuế đánh vào tài sản và thu nhập” hay UN-1980 của Liên hợp quốc về “Hiệp định mẫu của Liên hợp quốc vê tránh thuế hai lần giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển”; GATT 1994; Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT).. Các hiệp định song phương mà Việt Nam đã ký kết như Hiệp định tránh thuế hai lần giữa Việt Nam với các nước ký kết; Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ…. 2. Quan hệ pháp luật thuế. Các quan hệ xã hội xuất hiện do những yêu cầu liên hệ vật chất giữa nhà nước với dân chúng và chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, song quyết định nhất vẫn là yếu tố nhà nước. Để phục vụ lợi ích của mình và tạo ra trật tự chung cho xã hội, nhà nước dùng quy phạm pháp luật như một quy tắc xử sự chung nhằm tập trung nguồn thu từ thuế vào ngân sách nhà nước. Quan hệ thu, nộp thuế trên cơ sở các quy phạm pháp luật đã trở thành quan hệ pháp luật thuế. Quan hệ pháp luật thuế mang một số đặc điểm sau: Thứ nhất, quan hệ pháp luật thuế mang nặng tính quyền uy. Hệ quả của quan hệ pháp luật thuế là sự chuyển giao một khối lượng tài sản (có thể dưới hình thức giá trị hoặc dưới hình thức hiện vật, tùy thuộc vào từng thời kỳ), từ người nộp thuế cho nhà nước, vì vậy việc nộp thuế không phải là sự lựa chọn của đối tượng nộp thuế mà do yêu cầu của nhà nước. quyền và nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ pháp luật thuế được đảm bảo thực hiện thông qua các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Thứ hai, quan hệ pháp luật thuế thường quy định cụ thể những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ. Tuy vậy, cho dù cụ thể đến đâu, các quy 5 định này vẫn chỉ là “quy tắc xử sự” mà không thể quy định tất cả điều kiện mà quan hệ pháp luật thuế sẽ diễn ra. Vì vậy, các xử sự thực tế sẽ làm rõ ràng hơn, chi tiết hơn các quy định pháp luật nhưng không được làm trái pháp luật cụ thể. Thứ ba, một bên tham gia quan hệ pháp luật thuế bao giờ cũng là cơ quan quản lý thuế. 3. Mô hình cấu trúc tổng quát của hệ thống pháp luật thuế Thực tế cho thấy rằng luôn tồn tại sự khác nhau giữa các quốc gia trong việc thiết kế mô hình hệ thống pháp luật thuế. Có những nước quy định tất cả các sắc thuế trong một Bộ luật chung về thuế, gọi là Bộ luật thuế vụ. Trong bộ luật này, nhà làm luật vừa quy định về nội dung cụ thể của các loại thuế trong hệ thống thuế, vừa quy định về trình tự, thủ tục hành thu và cơ chế quản lý thuế cũng như xử lý vi phạm và giải quyết các tranh chấp về thuế. Ngược lại, có những nước lựa chọn giải pháp thiết kế mỗi loại thuế được ban hành bằng một đạo luật riêng, độc lập với nhau nhưng vẫn đảm bảo tính tương thích với nhau và đồng thời tách bạch các quy định về quản lý thuế bằng một đạo luật riêng biệt so với các đạo luật thuế. Theo kinh nghiệm điều chỉnh bằng pháp luật đối với lĩnh vực thuế của nhiều nước trên thế giới, việc đa dạng hóa các sắc thuế dựa trên kết quả phân loại thuế của các nhà khoa học, chính là một trong những giải pháp tốt nhất để tạo ra một hệ thống pháp luật thuế hoàn hảo. Đảm bảo tính đa dạng của các sắc thuế có nghĩa là đảm bảo sự cân đối hài hòa giữa thuế trực thu và thuế gián thu, giữa thuế nội địa và thuế xuất nhập khẩu, giữa thuế đánh vào thu nhập với thuế đánh vào tài sản và thuế đánh vào hoạt động tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Ngoài ra, xét về khía cạnh kỹ thuật đánh thuế, cũng cần tính đến sự hài hòa giữa thuế tỷ lệ với thuế lũy tiến và thuế tuyệt đối. Việc đa dạng hóa các loại thuế sẽ cho phép khỏa lấp những “lỗ hổng” hay khuyết tật vốn là điều khó tránh của hệ thống thuế cũng như hệ thống pháp luật thuế, bởi vì trên thực tế những nhược điểm của loại thuế này đôi khi lại được xem là ưu điểm của loại thuế kia và ngược lại. Ví dụ, thuế trực thu có ưu điểm là đảm bảo tính công bằng nhưng lại khó thu, còn thuế gián thu tuy có ưu điểm là dễ thu hơn nhưng lại không thật sự công bằng. Trong bối cảnh thế giới đương đại, xu hướng chung của các nước là tìm cách ban hành những đạo luật riêng về từng loại thuế và cố gắng tách bạch các quy định về hành chính thuế ra khỏi các đạo luật về thuế, bằng cách ban hành một đạo luật riêng, gọi là 6 Luật về quản lý thuế. Giải pháp này được đánh giá là thích hợp hơn với điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu, vì nó cho phép nhà làm luật có thể sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh các quy định trong các đạo luật thuế một cách dễ dàng hơn, so với việc đưa tất cả các quy định về thuế trong một Bộ luật chung về thuế. Như vậy, xét về cấu trúc tổng quát, hệ thống pháp luật thuế nói chung của các nước đều được cấu thành bởi hai bộ phận chính, bao gồm các quy định về nội dung của các sắc thuế trong hệ thống thuế; các quy định về hình thức tổ chức và đảm bảo thực hiện (quy trình hành thu) hệ thống thuế. II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT THUẾ Thuế và nhà nước là hai phạm trù lịch sử luôn đi cùng với nhau, chi phối và phụ thuộc vào nhau. Vì vậy, thuế vừa được hiểu là công cụ kinh tế hỗ trợ cho sự tồn tại cảu nhà nước và bộ máy nhà nước; mặt khác, thuế lại được nhà nước sử dụng như là loại công cụ để thực hiện những nhiệm vụ mục tiêu nhất định. Mặc dù bất kỳ nhà nước có chủ quyền nào cũng được quyền đánh thuế nhưng để nguồn thu từ thuế trợ thành hiện thực, nhà nước pahi sử dụng pháp luật như là công cụ hữu hiệu và đặc thù nhất của mình để giải quyết các mục tiêu định trước. Có thể chỉ ra hệ thống pháp luật có vai trò cơ bản sau đây. Thứ nhất, pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước. Pháp luật thuế bao gồm các quy phạm pháp luật xác định quyền thu thuế của nhà nước, nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể có điều kiện. Điều này có nghĩa nguồn thu từ thuế chỉ có thể có được khi các bên thực hiện đúng quy định pháp luật thuế. Vấn đề đặt ra, pháp luật thuế có vai trò đến đâu và cần phải tồn tại ở mức độ thế nào để đáp ứng về nguồn thu ngân sách nhà nước. Trước hết, cần khẳng định nguồn thu từ thuế có vị trí quyết định đến cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước. Theo quyết định đến kết quả nghiên cứu về lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kỳ, ở các quốc gia cho thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam, từ những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu ngân sách nhà nước. Các luật thuế được ban hành đều xác nhận “động viên một phần thu nhập vào ngân sách nhà nước” như một lý do cơ bản. Khoản thu từ thuế chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách nhà nước, phải đảm bảo cho hàng loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước, cho 7 cộng đồng xã hội. Điều này lý giải cơ cấu cân đối ngân sách mà nhà nước được pháp luật ghi nhận. Điều 8 Luật ngân sách nhà nước quy định rõ “ Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào đầu tư phát triển..” Với những lý do đó, bất kỳ các quốc gia nào cũng cần phải có và mong muốn được hệ thống pháp luật thuế đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lý vững chắc để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế, nội dung từng luật thuế đều ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả thu ngân sách nhà nước từ thuế. Vì vậy, có thể khẳng định vai trò cảu pháp luật thuế trong việc tạo căn cứ pháp lý hình thành nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Thứ hai, pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết kinh tế, thực hiện đường lối trong một thời kỳ nhất định của nhà nước. Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lý, điều tiết tới mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông quá đó thực hiện công bằng xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức, cá nhân có thể tồn tại vận động theo nhu cầu và lợi ích của chính họ, điều này có thể tổn thương đến trật tự xã hội cũng như định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn, ở mõi quốc gia. Giải quyết vấn đề này, pháp luật thuế có thể làm thay đổi hoặc can thiệp gián tiếp vào hoạt động, vào quyết định đầu tư của các chủ thể nhằm đạt tới mục tiêu nhất định của nhà nước. Thông qua hệ thống pháp luật thuế, nhà nước có thể thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngành kinh tế mà không cần can thiệp hành chính. Để thực hiện cơ cấu đầu tư định trước, pháp luật thuế có những quy định cụ thể khác nhau giữa nghĩa vụ thuế của đối tượng ưu tiên và đối tượng bị hạn chế. Chính điều này sẽ làm ảnh hưởng tới cớ hội tìm kiếm thu nhập của đối tượng đầu tư, qua đó có thể làm thay đổi luồng chu chuyển vốn từ khu vực đầu tư này sang khu vực đầu tư khác. Pháp luật thuế các quốc gia, trong đó có Việt Nam đều phản ánh rõ vai trò nêu trên. Chẳng hạn, việc quy định đánh thuế hay không đánh thuế, mức thuế suất khác nhau đối với từng ngành nghề , các mặt hàng hay các loại thu nhập đều có thể tác động đến các ngành, nghề quá đó đảm bảo sự phát triển cân đối ngành nghề trong nền kinh tế. 8 Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều chỉnh thu nhập trong những trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội ở mỗi quốc gia có những định hướng khác nhau tùy theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng với hàng hóa, dịch vụ chưa thực sự phù hợp với giai đoạn hiện tại; trong khi đó lại khuyến khích, tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội, pháp luật thuế còn được Nhà nước sử dụng như một công cụ thể hiện chính sách xã hội. Thứ ba, nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh. Để thực hiện đúng yêu cầu và nghĩa vụ thuế, cơ quan quản lý thuế cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy định gắn với chế độ chứng từ hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thức kinh doanhm cơ cấu tổ chức…Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh tế; trên cơ sở đó có hệ thống pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung phù hợp với định hwownhs trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như tìm biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đồi tượng nộp thuế ở tầm vĩ mô. Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lí kịp thời những hành vi vi phạm trong quá trình hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung. Thứ tư, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thông qua pháp luật thuế Nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nề sản xuất còn yếu kém về nhiều mặt nhằm tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời, pháp luật thuế hiện nay còn được coi là một trong những ũ khí cạnh tranh sắc bén của mỗi nước trong việc thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Hầu hết ở các nước đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á đều đang ra sức sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật thuế của mình cho hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Thứ năm, pháp luật thuế giúp Nhà nước thực hiện các chính sách xã hội của mình. 9 Ở Việt Nam, bên cạnh những vai trò chung với nền kinh tế xã hội, pháp luật thuế còn được Nhà nước sử dụng như một công cụ thể hiện chính sách xã hội. Nhà nước điều tiết thu nhập, hạn chế khoảng cách giàu nghèo, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Bằng việc quy định của pháp luật thuế, Nhà nước phát huy trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp của mỗi cá thể đối với cộng đồng xã hôi… Thứ sáu, từ phương diện quản lý nhà nước, pháp luật thuế được xem như một công cụ hữu hiệu trong việc quản lý các hoạt động thu, nộp thuế nhằm khai thác vai trò tích cực và hạn chế những tiêu cực của hoạt động này. Quan hệ thuế, về bản chất là một quan hệ phân phối của cải dưới hình thức giá trị nên tự thân nó là mảnh đất màu mỡ làm nảy sinh các hiện tượng xã hội tiêu cực làm phương hại đến lợi ích chung của cộng đồng. Bởi vậy, bằng pháp luật, Nhà nước đã đưa ra các “giới hạn hành lang”, thiết lập các “hàng rào quản lý” để các chủ thể có được sự tự do trong khuôn khổ đó, đương nhiên họ sẽ phải chịu các chết tài nghiêm khắc. Thứ bảy, Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật để kiểm tra gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh. Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ nộp thuế, các cơ quan quản lý thuế cùng với đối tượng nộp thuế được phải quan tâm và tuân thủ những quy định gắn với chế độ chứng từ hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thức kinh doanh, cơ cấu tổ chức… Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh tế, trên cơ sở đó có hệ thống pháp luật được ban hành sửa đổi bổ sung phù hợp với định hướng trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như tìm biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vĩ mô. Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lí kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong quá trình hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung. III. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THUẾ VIỆT NAM Thứ nhất, trong từng sắc thuế hiện hành vẫn còn có các quy định không công bằng và chưa bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế khác nhau, thuế nhìn chung vẫn thiên về thực hiện chức năng bảo hộ ( thiếu khoa học và chọn lọc) và thu ngân sách 10 nhà nước là chủ yếu mà chưa trú trọng thỏa đáng đối với chức năng điều tiết kinh tế và hướng dẫn tiêu dùng của thuế. Thứ hai, dưới góc độ hội nhập, có thể nhận thấy pháp luật thuế Việt Nam hiện hành còn nhiều nội dung chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và chưa đảm bảo tính tương thích với hệ thống thuế của các nước trong khu vực. Thứ ba, pháp luật thuế của nước ta còn quá phức tạp, chồng chéo, thiếu tính hệ thống, chưa thể hiện sự đơn giản, rõ ràng và minh bạch, đồng thời, thiếu tính ổn định cân cần thiết do thường xuyên phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu thực tế. Thứ tư, hệ thống thuế đang phải phục vụ quá nhiều mục tiêu: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, xã hội, do đó mất đi tính trung lập cần thiết – một trong những yếu tố dẫ tới sự hiệu quả trong phân bổ nguồn lực. Thứ năm, công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế có những thành công bước đầu, song để đạt được mục tiêu đề ra thì còn rất nhiều việc phải làm trong thời gian tới, cũng như công cuộc cải cách hành chính nói chung đang từng bước được triển khai thực hiện ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thứ sáu, tính thực thi, hiệu quả của pháp luật thuế nhìn chung chưa cao, một số quy định gián tiếp làm phát sinh các hiệ tượng tiêu cực xã hội ( như các khe hở pháp lý dẫn đến hiện tượng luồn lách luật). Hệ thống chính sách thuế của Việt Nam mới được hình thành vào cuối nhứng năm 80 cùng với việc chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế. Mặc dù đã từng bước được cải cách và hoàn thiện vào những năm 1990- 2000, nhưng hiện nay chính sách thuế vẫn còn nhiều vướng mắc cần tiếp tục cải cách, sửa đổi cho phù hợp với các nguyên tắc của WTO. Một là, hệ thống chính sách thuế hiện nay vẫn còn phức tạp và thiếu tính ổn định, làm cho chi phí quản lý thu tuế lớn, ảnh hưởng tới hiệu quả thu thuế, tạo điều kiện cho việc trốn thuế và bóp méo hệ thống thuế. Đồng thời nó làm mất định hướng của nhà đầu tư, bóp méo sự lựa chọn của người sản xuất và vi phạm một nguyên tắc cung của thông lệ quốc tế là tính rõ ràng và có thể dự đoán trước hệ thống chính sách thuế. Việc thường xuyên thay đổi trong chính sách thuế, quy định không rõ ràng về phạm vi của các sắc thuế và trong một sắc thuế, quy định không rõ ràng về phạm vi 11 của các sắc thuế và trong một sắc thuế có quá nhiều thuế suất, nhiều chế độ ưu đãi, miễn giảm khác nhau đã cản trở quá trình hội nhập quốc tế trên các phương diện, khuyến khích xuất khẩu, nâng cao khả năng canh tranh của Doanh nghiệp và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hai là, việc quy định các sắc thuế thiếu tính rõ ràng, còn lẫn lộn trong chức năng của từng sắc thuế, thể hiện ở phạm vi của đối tượng chịu thuế, các mức thuế suất quá cao vì gặp nhiều loại thuế trong một sắc thuế. Ví dụ, thuế tiêu thụ đặc biệt, ngoài chức năng điều tiết tiêu dùng có tính chất xa xỉ không thuộc diện điều chỉnh của luật thuế tiêu thụ đặc biệt, nên trong biểu thuế, nhập khẩu đang được áp dụng mức thuế suất cao, tạo sự hiểu lầm của dư luận quốc tế về thuế nhập khẩu không phù hợp với thông lệ quốc tế. Ba là, hệ thống chính sách thuế được xây dựng để phục vụ nhiều mục tiêu trong từng sắc thuế, làm mất đi trung lập – một yếu tố dẫn tới hiệu quả nhất với nhau, do đó nếu đạt được mục tiêu này thì gây thiệt hại tới mục tiêu khác. Một số mặt hàng nhập khẩu như: phân bón, sắt xây dựng, kính xây dựng. Việc kết hợp các mục tiêu của chính sách xã hội trong các sắc thuế xét về khía cạnh xã hội là tốt, tuy nhiên nó thực sự làm chính sách thuế, trở nên phức tạp, tạo ra sự bất bình đẳng trong kinh doanh, ảnh hưởng đến sự minh bạch của hệ thống thuế. Bốn là, còn thiếu sự kết hợp hài hòa giữa các sắc thuế trong hệ thống chính sách thuế, giữa mục tiêu số thu cho ngân sách và mục tiêu kích thích sản xuất phát triển và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua từng sắc thuế. Trong điều kiện mở cửa hội nhập và tích cực chuẩn bị để tham gia WTO, hệ thống chính sách phải được sửa đổi phù hợp với các nguyên tắc của tổ chức này, đồng thời phải đảm bảo được nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tăng cường sức cạnh tranh cho các Doanh nghiệp trong nước, đồng thời phải có sự bảo hộ hợp lý cho một số ngành then chốt trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Những tồn tại nêu trên dù muốn hay không cũng cần được xem như là lời cảnh báo cần thiết và hữu ích cho việc hoàn thiện pháp luật thuế ở Việt Nam trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập, đưa đất nước tiến nhanh tiến mạnh, tiến vữn chắc trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 12 VI. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT THUẾ TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ. Hệ thống pháp luật thuế suy cho cùng là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội. Phải phán ánh được và điều hướng được yêu cầu của đời sống kinh tế xã hội. Việc ban hành, hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế phải đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, đảm bảo thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật thuế trong tiến trình hội không cần đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước không bị biến động lớn. Như đã phân tích trên, trong những năm qua, nguồn thu ngân sách nhà nước thuế xuất nhập khẩu chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước (khoản 25% tổng thu ngân sách nhà nước). Vấn đề đặt ra là, khi chúng ta thực hiện các cam kết giảm thuế nhập khẩu thì trước mắt nguồn thu của ngân sách Nhà nước từ thuế nhập khẩu sẽ giảm đi đáng kể kéo theo ảnh hưởng dây chuyền tới cân đối ngân sách khôngl bị biến động lớn khi tiến hành hoàn thiện pháp luật thuế hiện hành là xác đáng cần thiết. Để đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách Nhà nước, chúng ta cần giảm từ từ tỉ trọng thuế nhập khẩu theo tỉ lệ tương ứng với việc tăng dần nguồn thu từ thuế nội địa, từng bước cơ cấu lại sắc thuế gián thu, tiến tới tăng dần tỉ trọng thuế trực thu, giảm tỉ trọng thuế gián thu ngân sách Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa là việc sửa đổi hoàn thiện pháp luật thuế cần được tiến hành công bố và có sự cân nhắc thấu đáo với tầm nhìn rộng. Thứ hai, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế , quyết tâm đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp hiện đại. Thực hiện quá trình chuyển đổi kinh tế, hệ thống pháp luật thuế phải đáp ứng được yêu cầu của những nguyên tắc đối xử. Về lý thuyết nguyên tắc phân biệt đối xử có nội dung không phức tạp nhưng khi thực hiện trong thực tế hoàn toàn không dễ dàng có thể bị chồng lấn bởi các yêu cầu của chính sách khác. Thực tế này đặt ra yêu cầu cho nhà làm luật là tiếp tục sửa đổi hệ thống pháp luật hiện hành như Luật thuế thu nhập, Pháp luật thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp và pháp lệnh thuế nhà đất. 13 Thứ ba, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Thể chế hóa đường lối nêu trên, hệ thống pháp luật thuế phải tạo điều kiện cho Công nghiệp phát triển, đặc biệt là những lĩnh vực công nghiệp quan trọng, hiện đại. Bên cạnh đó, các quy định pháp luật thuế phải phán ánh được xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình quản lý, thu và nộp thuế. Bằng những quy định ưu đãi thuế, miễn thuế, giảm thuế cho các chủ kinh doanh trong những lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc khu vực khuyến khích đầu tư, hệ thống pháp luật thuế tác động tới luồng chu chuyển vốn của nhà đầu tư và các lĩnh vực mới, còn khuyến khích phát triển. Bên cạnh đó những quy định liên quan đến hệ thống quản lý thuế hiện đại, chế độ khai và nộp thuế đối với các khoản thuế ở khấu Xuất nhập khẩu và thuế nội địa đặt ra yêu cầu mới cho hệ thống cơ quan thu và cơ quan có thẩm quyền tham gia vào hoạt động hành thu cũng như bản thân những người nộp thuế . Những vấn đề nếu trên đã từng bước cụ thể hóa trong các quy phạm pháp luật thuế , nhưng mức độ phù hợp cũng như tính hiệu quả của các quy định hiện hành cần được tiếp tục đánh giá xem xét, điều chỉnh nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Thứ tư, đảm bảo thu hút, động viên sức đóng góp của dân chúng thông qua các khoản thu từ thuế, tăng tích lũy nội lực. Với mục tiêu xác định cơ cấu nguồn thu từ thuế chiếm từ 20 – 21% GDP, nên động viên phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế là yêu cầu tất yếu bới thuế chỉ có thể đạt được từ nền kinh tế. Bên canh đó khuyến khích tiêu dùng là một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra cho xã hội. Những vấn đề nêu trên có thể được thực hiện một cách gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật thuế. Phù hợp với nền kinh tế chuyển đổi, thu nhập của người dân còn ở mức độ chưa cao (Điều này hoàn toàn không mâu thuẫn với thực tế thu nhập của người dân đang tăng dần so với các giai đoạn trước và xã hội đang hình thành 1 tầng lớp người có thu nhập cao), nhà làm luật cần phải cân nhắc của nguồn thu nhập từ thuế gián thu và nguồn thu từ thuế trực thu. Mỗi loại thuế đều có tính hai mặt của chúng . Trong giai đoạn cụ thể việc coi trọng vai trò của nguồn thu từ thuế gián thu là hoàn toàn đúng đắn nhưng khi mức thu nhập xã hội tiến lên cấp độ mới, việc thay đổi cơ cấu hai loại thuế này là rất cần thiết. 14 Thứ năm, một số biện pháp khác. Chúng ta đều biết rằng, thuế có vai trò rất quan trọng đối với một quốc gia, đối với đời sống xã hội và sự phát triển kinh tế của quốc gia đó. Có một hệ thống pháp luật thuế hoàn thiện, cơ chế quản lý thuế thích hợp là một trong những yếu tố đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo tính dân chủ cao. Nền kinh tế của Việt Nam trước đây vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, mọi chi tiêu của Nhà nước hầu như đều được Nhà nước tự cân đối thông qua vay nợ và phát hành thêm tiền vào lưu thông. Chính cơ chế bao cấp đã tạo một thói quen cho người dân sự ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước. Thậm chí đa số người dân không hiểu được tầm quan trọng của thuế đối với Nhà nước và trách nhiệm của người dân trong việc thực hiện nghĩa vụ về thuế với Nhà nước. Do vậy, trong tiềm thức, người dân cho rằng trốn thuế không có gì là xấu xa. Người ta có thể lên án hành động trọm cắp một đồ vật có giá trị vài trăm ngàn đồng của một cá nhân nhưng hành động trốn thuế hàng tỷ đồng của một chủ doanh nghiệp tư nhân thì lại cho là bình thường. Nhận thức cho thấy sự hiểu biết về tính dân chủ của dân chúng chưa cao; và đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến thủ tục hành chính rườm rà, nạn tiêu cực phát triển Như vậy, việc tuyên truyền nội dung từng sắc thuế và nghĩa vụ nộp thuế đối với người dân đóng vai trò rất quan trọng. Thực hiện tốt điều này sẽ giúp dân chúng hiểu được nghĩa vụ phải nộp thuế của họ đối với Nhà nước và trách nhiệm của công chức Nhà nước đối với nhân dân để từ đây tránh được tình trạng nhũng nhiễu trong các cơ quan bộ máy Nhà nước, tránh được tình trạng tiêu cực xảy ra. Khi Nhà nước thu đúng, đủ tiền thuế vào ngân sách, Nhà nước sẽ có quỹ ngân sách dồi dào, đồng thời tăng khả năng tích lũy cho nền kinh tế. Thực tế những năm gần đây, Nhà nước đã quan tâm đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế nhưng lại chưa chú trọng đến việc tuyên truyền hệ thống pháp luật thuế trong dân chúng. Các quy định pháp luật về quản lý thuế vừa bất cập, thiếu tính đồng bộ lại không mang tính khả thi. Thói quen mua bán hàng hóa phải lấy và xuất hóa đơn hầu như còn quá mới mẻ trong dân chúng. Đại bộ phận dân chúng không quan tâm đến việc số tiền thuế cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ mà mình đã trả cho người bán có vào túi Nhà nước hay không. Người dân thì vậy, còn những người đảm nhiệm công việc thu thuế cho Nhà nước hầu như cũng chưa thật sự thấy được tầm quan trọng của thuế đối với Nhà nước, xã hội. Rất nhiều 15 cán bộ có thẩm quyền thu thuế đã thông đồng với đối tượng nộp thuế để trốn thuế. Thậm chí, những công chức Nhà nước cũng chưa có ý thức trong việc chấp hành pháp luật thuế. Họ chỉ thắc mắc tại sao lương Nhà nước trả cho họ quá thấp, trong khi đó họ không hiểu rằng do thu ngân sách Nhà nước ít cho nên phần chi cho tiền lương của công chức Nhà nước cũng rất hạn hẹp. Chúng ta phải hình dung rằng, chiếc bánh ngân sách được làm chủ yếu từ nguyên liệu thuế, mà phần nguyên liệu này do các tổ chức, cá nhân trong xã hội đóng góp nên, nếu nguyên liệu ít, chiếc bánh sẽ nhỏ và ngược lại. Như vậy, mỗi người trong chúng ta phải có ý thức trong việc chấp hành nghĩa vụ về thuế với Nhà nước, có quỹ ngân sách Nhà nước dồi dào thì tiền lương của công chức mới cao, các chế độ chính sách xã hội mới được đảm bảo và phần tích lũy cho nền kinh tế mới nhiều. Thực hiện được điều này, hoạt động quản lý thuế của Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng. Quản lý thuế là những biện pháp mà Nhà nước đề ra để thu đúng, thu đủ tiền thuế vào ngân sách, tránh tình trạng thất thu thuế xảy ra, đồng thời cũng tránh tình trạng lạm thu đối với nền kinh tế. Nếu ngân sách Nhà nước bị thất thu sẽ ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Còn nếu tình trạng lạm thu xảy ra sẽ là một trong những nguyên nhân kìm hãm nền kinh tế phát triển. Như vậy, nếu hoạt động quản lý thuế của Nhà nước tốt sẽ tạo được quỹ ngân sách dồi dào đồng thời là một trong những yếu tố kích thích nền kinh tế phát triển. C. KẾT LUẬN Qua việc tìm hiểu về vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay đã cho em cái nhìn sâu sắc hơn về việc áp dụng pháp luật thuế trong thực tiễn. Hơn nữa là biết được các qui định về hệ thống pháp luật thuế đóng vai trò quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước. Mặt khác qua những điểm phân tích trên chúng em nhận thấy rằng: Trong nền kinh tế nước ta hiện nay hệ thống pháp luật thuế là phương tiện hữu hiệu để nhà nước quản lí và can thiệp vào nền kinh tế, duy trì sự ổn định bền vững của xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó hệ thống pháp luật thuế vẫn còn có một số hạn chế nhất định như pháp luật còn chồng chéo, thiếu tính hệ thống, chưa thể hiện sự đơn giản chưa có tính khả thi cao…Hiểu rõ được những vấn đề này chắc chắn sẽ giúp ích được cho các nhà làm luật trong việc hoàn thiện và đề ra các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế cho Việt Nam. 16 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường đại học luật Hà Nội- Giáo trình Luật Thuế Việt Nam. NXB –Công an nhân dân. Hà Nội-2010. 2. Luật Ngân sách nhà nước năm 2002. 3. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay - các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế -Người hướng dẫn. TS. Nguyễn Văn Tuyến - khoa luật - Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. 4. Những định hướng cơ bản để hoàn thiện pháp luật thuế ở nước ta. - PTS. Võ Đình Toàn - Tạp chí luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội. Số 05 - Năm 2007. 5. Phạm Thị Giang Thu, “Những yêu cầu và mục tiêu cơ bản của việc hệ thống pháp luật ở Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 3, tháng 3/2008. 6. Phạm Thị Giang Thu, “ Phát triển bền vững và một số vấn đề đặt ra cho hệ thống pháp luật thuế Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 5/2009. 7. Một số vấn đề lý luận và thực tiến vế xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Đề tài khoa học cấp trường – Trường Đại học Luật Hà Nội. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan