1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------
NGUYỄN THỊ NHÀN
Vai trò của giáo dục – đào tạo đối với việc xây
dựng nguồn lực con người ở nước ta hiện nay
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
1
2
Lời cảm ơn!
Qua quá trình tìm tòi, nỗ lực xử lý tài liệu, đề tài khóa luận tốt nghiệp Đại học
“Vai trò của giáo dục – đào tạo trong việc xây dựng nguồn lực con người ở
nước ta hiện nay” đã được hoàn thành. Bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, em
đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn chỉ đạo tận tình của các thầy cô trong
khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng, các thầy
cô trong khoa Giáo dục chính trị Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng. Đặc
biệt với sự hướng dẫn trực tiếp của Ts.Vương Thị Bích Thủy đã giúp cho em
hiểu hoàn thành khóa luận này.
Do điều kiện thời gian và nguồn tài liệu còn hạn chế nên chắc chắn không
tránh khỏi thiếu sót, rất mong sự đóng góp chân thành của các thầy cô và các
bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Thị Nhàn
2
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 21, nước ta đang bước vào thời kỳ
phát triển mới: thời kỳ CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức, phát triển kinh tế
thị trường định hướng XHCN, mở rộng hội nhập quốc tế với nhiều thuận lợi
và khó khăn, thử thách phải vượt qua. Đất nước ta đứng trước những biến đổi
sâu sắc của tình hình thế giới và khu vực, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh
tế quốc tế phát triển mạnh mẽ, với trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện
đại. Đảng ta đã nhận thức đúng đắn về sự cấp thiết phải đổi mới toàn diện đất
nước để phát triển, trong đó có đổi mới về giáo dục và đào tạo.
Giáo dục – Đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống
chính trị của mỗi nước, là yếu tố hàng đầu quyết định sự phát triển bền vững
của quốc gia. Giáo dục có vị trí quan trọng để phát triển nguồn nhân lực, giáo
dục con người phát triển toàn diện nhất là thế hệ trẻ. Hệ thống giáo dục ở
nước ta hiện nay có nhiều cấp học, ngành học được xây dựng chặt chẽ và
mang tính phát triển. Đội ngũ nhà giáo là lực lượng nòng cốt thực hiện mục
tiêu giáo dục, giáo dục cho người học thế giới quan và nhân sinh quan tiến bộ,
có tri thức và phương pháp tư duy khoa học, khả năng làm việc độc lập, sáng
tạo, có năng lực và phẩm chất. Vì vậy vai trò của giáo dục – đào tạo là hết sức
quan trọng.
Giáo dục – đào tạo là khâu trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao tham gia quá trình CNH, HĐH đất nước. Qua
các kỳ Đại hội Đảng, Đảng ta luôn xác định quan điểm lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững,
phát huy nhân tố con người và tăng cường nguồn lực con người để từng bước
phát triển kinh tế tri thức, nhấn mạnh đến vai trò của con người trong việc
3
4
phát triển kinh tế xã hội đặc biệt là chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao. Nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển, đầu tư cho con người chính là tạo cơ sở vững chắc cho sự
phát triển, là bảo đảm vững bền cho sự phồn thịnh của mỗi quốc gia.
Trong đoạn đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, giáo dục đào tạo
được xem là “quốc sách hàng đầu” là phương tiện tất yếu và hữu hiệu để phát
triển trí tuệ, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, cung cấp cho xã hội nguồn
nhân lực chất lượng cao, là yếu tố quyết định cho sự thắng lợi trong sự nghiệp
xây dựng đất nước. Do đó nguồn lực con người có vai trò quan trọng hơn bao
giờ hết đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, làm thế nào
để có những con người lao động có đầy đủ tri thức, năng lực, phẩm chất thì
chúng ta không thể không nói tới tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo.
Để góp phần làm sáng tỏ vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp
trồng người, trong việc xây dựng, xây dựng nguồn nhân lực cho xã hội, giáo
dục thế hệ trẻ công dân mới của đất nước, chúng tôi lựa chọn đề tài “ Vai trò
của giáo dục – đào tạo đối với việc xây dựng nguồn lực con người ở nước ta
hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Giáo dục – đào tạo có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nguồn
nhân lực nên ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học đề cập đến vấn đề này.
Những công trình có tính chất định hướng cho việc nghiên cứu về mối
quan hệ giữa giáo dục – đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực và đội ngũ
nhà giáo trong mối quan hệ đó như : “Con người Việt Nam, mục tiêu và động
lực phát triển kinh tế - xã hội”, mã số KX.07(1991 – 1995) do GS.TS Phạm
Minh Hạc (chủ biên) với nhiều nội dung được nghiên cứu, trong đó có vấn đề
4
5
phát triển giáo dục – đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực, gia
đình – nhà trường – xã hội với việc phát hiện, tuyển chọn, giáo dục và đãi ngộ
người tài. Công trình “Chiến lược phát triển Giáo dục trong thế kỷ 21, kinh
nghiệm của các quốc gia” của Viện nghiên cứu, phát triển giáo dục, Nxb
Chính trị quốc gia, 2002, là tập hợp những kết quả nghiên cứu của các nhà
khoa học liên quan đến lĩnh vực chiến lược phát triển giáo dục.
Những công trình nghiên cứu khoa học ít nhiều có liên quan, đề cập đến
đặc điểm, vai trò của giáo dục – đào tạo đối với việc xây dựng nguồn lực con
người trong giai đoạn hiện nay như : “Tri thức Giáo dục Đại học Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Nguyễn Văn Sơn,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; tác giả Nguyễn Minh Hiển với “Phát
triển giáo dục và đào tạo phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nưsớc”,
Tạp chí Cộng sản, số 22/2005, trong đó nêu rõ tiêu chí của giáo dục của nước
công nghiệp, hiện trạng của nền giáo dục Việt Nam và định hướng chiến lược
phát triển giáo dục đến năm 2020. T.S. Nguyễn Thanh với “Phát triển nguồn
nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Mai Quốc Chánh
với “ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong cầu công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Triết học số 3/1994. Trung tâm khoa học xã
hội và nhân văn Quốc gia, Hà Nội, 2001…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu về vấn đề
giáo dục – đào tạo đối với việc xây dựng phát triển nguồn lực con người góp
phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Do vậy, trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa
học đi trước, chúng tôi chọn đề tài “ Vai trò của giáo dục – đào tạo đối với
việc xây dựng nguồn lực con người ở nước ta hiện nay” để thực hiện khóa
luận của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
5
6
* Mục đích:
Qua việc làm sáng tỏ vai trò của giáo dục và đào tạo đối với việc xây
dựng nguồn lực con người ở nước ta hiện nay, đề tài góp phần vào việc đề ra
những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo trong
việc xây dựng nguồn lực con người hiện nay ở nước ta.
* Nhiệm vụ:
+ Thứ nhất: Xác định rõ mục tiêu, quan điểm của Đảng về giáo dục và đào
tạo trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
+ Thứ hai: Phân tích, làm rõ vai trò của giáo dục – đào tạo đối với việc xây
dựng nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.
+ Thứ ba: Bước đầu đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của giáo
dục – đào tạo đối với việc xây dựng nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.
* Giới hạn của đề tài:
Đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu vai trò của giáo dục – đào tạo đối với
việc xây dựng nguồn lực con người ở Việt Nam trong thời kỳ đổi.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Đề tài dựa trên thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng cộng
sản Việt Nam về giáo dục – đào tạo. Đồng thời đề tài tham khảo và tiếp thu có
chọn lọc những bài viết trên các báo chí, những công trình nghiên cứu về giáo
dục – đào tạo của nhiều tác giả có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật
lịch sử, kết hợp phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic và lịch sử,
thống kê, điều tra xã hội học…
5. Nét mới của đề tài
6
7
Đề tài này trình bày một cách có hệ thống và góp phần khẳng định vai
trò của giáo dục – đào tạo đối với việc xây dựng nguồn lực con người. Từ đó
đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo đối với
việc xây dựng nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa của khóa luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp cho tác giả nhận thức đầy đủ hơn về
vai trò của giáo dục – đào tạo, của đội ngũ nhà giáo trong quá trình xây dựng
nguồn nhân lực, làm cơ sở để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực, làm tài liệu tham khảo cho sinh viên trong quá trình học tập, nghiên
cứu các môn lý luận Mác – Lênin nói chung, môn đường lối của Đảng cộng
sản Việt Nam và Chuyên đề chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng, cho các tác
giả khác quan tâm nghiên cứu về giáo dục – đào tạo ở nước ta.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của đề tài gồm 3 chương, 8 tiết
và cuối cùng là danh mục các tài liệu tham khảo.
7
8
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, lãnh tụ vĩ đại của
cách mạng Việt Nam, đồng thời là nhà giáo, nhà văn hoá lớn của thế giới,
Người sáng lập, đặt nền móng và chỉ đạo việc xây dựng nền giáo dục mới
Việt Nam. Chỉ riêng về giáo dục, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã là một kho
tàng, ở tầm chiến lược và ngày càng ngời sáng qua thực tiễn. Trong suốt cuộc
đời hoạt động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những cống hiến to lớn đối với
cách mạng Việt Nam. Trong những cống hiến to lớn đó, tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục và đào tạo đã tạo nền tảng cho sự nghiệp xây dựng và kiến
thiết nền giáo dục nước nhà. Những tư tưởng ấy không chỉ có ý nghĩa lý luận
sâu sắc mà còn đầy ắp những bài học thực tiễn sinh động.
Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, trước hết, phải nói đến tư
tưởng giải phóng con người thoát khỏi tăm tối, lạc hậu, đưa dân tộc ta trở
thành một dân tộc văn minh, tiến bộ. Đây vừa là mục tiêu, vừa là khát vọng
"tột bậc" của Người. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, dù ở trong hoàn cảnh
nào, Người cũng là chiến sĩ tiên phong đi vào phong trào quần chúng, thức
tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự
do độc lập ; giải phóng họ thoát khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân phong
kiến, thoát khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng lạc hậu, tạo mọi điều kiện cho
mỗi dân tộc và mỗi người dân đứng lên làm chủ nền văn hoá, làm chủ vận
mệnh và tương lai của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kế tục và phát triển cao hơn cuộc đấu
tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, dân trí của thế hệ những người Việt Nam
yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Người đã tố cáo đanh thép chế độ
8
9
thực dân Pháp trong việc "làm cho dân ngu để trị", "gieo rắc một nền giáo dục
đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát", đòi quyền "tự do học tập" và
"thực hành giáo dục toàn dân". Đồng thời, Người đã dày công tìm kiếm, phát
hiện và giới thiệu cho đất nước những nét tiến bộ mới của nền giáo dục kiểu
mới của nhân dân lao động - nền giáo dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang
tính nhân đạo và tính dân chủ cao cả, bảo đảm cho sự phát triển toàn diện
những năng lực sẵn có của con người.
Trong suốt thời gian lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc
nhở toàn Đảng, toàn dân: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng và cần thiết". Người chỉ rõ cho chúng ta thấy mối quan hệ
biện chứng giữa giáo dục với cách mạng ; giữa giáo dục với sự nghiệp giải
phóng dân tộc và kiến thiết đất nước. Người khẳng định: "Muốn giữ vững nền
độc lập, muốn cho dân mạnh, nước giàu, thì mỗi người Việt Nam phải hiểu
biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công
cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
Muốn cho dân mạnh, nước giàu thì dân trí phải cao, phải "đa dạng hoá các
loại hình đào tạo, mở trường vừa học, vừa làm để tạo điều kiện cho người lao
động, cán bộ, chiến sỹ được đi học". Khi dân trí cao sẽ xuất hiện nhiều nhân
tài tham gia xây dựng đất nước. Người chỉ cho chúng ta con đường đưa đất
nước thoát khỏi cảnh yếu hèn - đó là con đường phát triển giáo dục. Người
nói : "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và kêu gọi mọi người thi đua học
tập để đưa dân tộc ta trở thành một dân tộc văn minh, tiến bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung cơ bản của giáo dục là phải đào tạo ra
những con người xây dựng chủ nghĩa xã hội "vừa hồng vừa chuyên". Đây là
một tư tưởng then chốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục. Người nhấn
mạnh, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mỗi cô giáo,
thầy giáo phải là những chiến sỹ trên mặt trận đó. Nhiệm vụ của nền giáo dục
9
10
cách mạng là : "phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ đường lối chính
trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân".
Giáo dục phải tạo ra được những người lao động mới. Đó là những người có
lòng yêu nước nồng nàn, "trung với nước, hiếu với dân", có đạo đức trong
sáng, có chí khí hăng hái vươn lên, không sợ hy sinh gian khổ, có tinh thần
gan dạ, dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết kiệm, trong sạch, giản dị,
có tri thức và sức khoẻ để trở thành những người chủ tương lai của đất nước,
"những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên".
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của các cô giáo, thầy
giáo đối với xã hội. "Những người thầy giáo tốt là những người vẻ vang nhất,
là những người anh hùng vô danh". Muốn được như vậy, các cô giáo, thầy
giáo, trước hết, phải trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng rèn luyện
chuyên môn, phải là tấm gương trong sáng để học sinh noi theo, phải gương
mẫu từ lời nói đến việc làm, phải thương yêu chăm sóc học sinh như con em
ruột thịt của mình, phải thật sự yêu nghề, yêu trường, phải không ngừng học
hỏi để tiến bộ mãi. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng và mong muốn các
thế hệ học sinh không ngừng cố gắng học tập và rèn luyện tốt để mai sau trở
thành những người có ích cho Tổ quốc. Trong thư gửi học sinh nhân ngày
khai trường tháng 9 năm 1945, Người viết : "non sông Việt Nam có trở nên
tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở
công học tập của các cháu". Lời dạy của Người đã đi sâu vào lòng dân, tạo
thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho hàng triệu thầy giáo và học sinh thi đua
dạy tốt - học tốt. Bức thư Người viết đã trở thành chân lý của thời đại, hoàn
toàn phù hợp với quy luật phát triển của các nước đi từ lạc hậu lên tiên tiến và
hiện đại, từ nông nghiệp đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
10
11
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng phương châm giáo dục thiết
thực, cụ thể. Người nói : "Chúng ta phải tẩy rửa những thành kiến giữa các
dân tộc, phải đoàn kết thương yêu nhau như anh em một nhà. Nhiệm vụ của
các cháu là thi đua học tập để sau này góp phần mở mang quê hương của
mình và xây dựng nước Việt Nam yêu quý của chúng ta". Ngay trong hoàn
cảnh cực kỳ khó khăn của buổi đầu mới giành được độc lập, giữa lúc kinh tế
kiệt quệ, thiên tai, nạn đói hoành hành, thù trong giặc ngoài ra sức chống phá
để tiêu diệt cách mạng, Người kêu gọi toàn dân ra sức thực hiện đồng thời ba
nhiệm vụ vô cùng trọng đại và cấp bách là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt
giặc ngoại xâm. Nhờ vây, từ chỗ hơn 95% mù chữ, dân ta đã trở thành một
dân tộc có văn hoá, khoa học, đủ khả năng giành độc lập, tự do cho đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở những người làm công tác giáo dục
phải "nhận thức đúng tầm quan trọng của giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp
của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân". Do đó, các cấp uỷ,
chính quyền, các ngành các giới, các đoàn thể quần chúng và toàn xã hội phải
thật sự quan tâm đến phương châm giáo dục mới như : phát huy cao độ dân
chủ trong nhà trường để tạo nên sự đoàn kết nhất trí giữa thầy với thầy, thầy
với trò, trò với trò, tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa nhà trường - gia đình xã hội cùng cộng đồng trách nhiệm để phát triển giáo dục. Trong công tác
quản lý giáo dục, Người đã chỉ thị "phải đi sâu vào việc điều tra nghiên cứu,
tổng kết kinh nghiệm. Chủ trương phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn ; kết hợp
chặt chẽ chủ trương chính sách của trung ương với tình hình thực tế và kinh
nghiệm quý báu và phong phú của quần chúng, của cán bộ và của địa
phương". Phải coi "giáo dục thiếu nhi là một khoa học". Mặc dù bận trăm
công nghìn việc, Người vẫn giành thì giờ để chỉ đạo cụ thể, sát sao các phong
trào thi đua, như phong trào "dạy tốt, học tốt", đề xuất công tác Trần Quốc
11
12
Toản, phong trào "kế hoạch nhỏ"... cho các cháu thiếu niên, nhi đồng nhằm
tạo nên môi trường xã hội rộng lớn và thuận lợi cho công tác giáo dục.
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là phương pháp
giáo dục con người toàn diện. Muốn xây dựng và hoàn thiện con người theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là giáo dục và tự giáo dục. Đây là phương pháp
tốt nhất để "đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt
Nam và làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em". Người
nhấn mạnh : "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa" và "vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người". Vì thế, nền giáo dục mới phải thực hiện
phương pháp dạy và học mới để đạt được mục tiêu : "Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc
và nhân loại". "Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng", "học để tin tưởng" và
"Học để hành". Tư tưởng này không chỉ phản ánh truyền thống quý báu của
dân tộc ta mà còn phản ánh yêu cầu vừa cấp bách, vừa lâu dài của đất nước
trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phương pháp giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh là "phải chú trọng đủ
các mặt ; đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật,
lao động và sản xuất". Đây là những nhiệm vụ giáo dục hết sức cơ bản, gắn
bó chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho sự phát triển con người Việt Nam
mới. Nhà trường phải bảo đảm cho thế hệ trẻ vươn lên làm chủ kho tàng kiến
thức văn hóa của nhân loại, trang bị đầy đủ vốn hiểu biết về văn hóa, tri thức
khoa học, công nghệ. Thế hệ trẻ cần phải được giáo dục về lý tưởng và đạo
đức xã hội chủ nghĩa – hạt nhân của nhân cách người lao động mới. Người
căn dặn : Phải có phương pháp giáo dục tốt để giáo dục đạo đức cách mạng
cho đoàn viên và thanh niên. Theo Người : "Đạo đức cách mạng không phải
12
13
trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển
và củng cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".
Tư tưởng về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra phương
hướng cơ bản cho chiến lược con người, chiến lược phát triển giáo dục ở
nước ta trong suốt mấy chục năm qua và cả thời gian sắp tới. Quán triệt tư
tưởng của Người, Đảng ta hết sức quan tâm đến giáo dục, coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Có thể nói, những nỗ lực của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta trong thời gian qua đã đánh dấu một mốc son mới trong công cuộc
chấn hưng giáo dục nước nhà, góp phần giữ vững mục tiêu định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học, bắt đầu phổ cập trung học cơ sở ở một số thành phố và tỉnh,
trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên. Hoàn thiện thêm
một bước hệ thống giáo dục quốc dân, mở rộng mạng lưới trường học đến hầu
hết các thôn bản, hiện có hơn 23 triệu người đi học, góp phần giữ vững sự ổn
định chính trị, xã hội của đất nước. Quy mô và cơ sở vật chất giáo dục được
phát triển. Hệ thống các trường học dân tộc nội trú tỉnh, huyện được củng cố
và mở rộng. Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, các trường chuyên
nghiệp đang từng bước được tổ chức sắp xếp lại. Hệ thống các trường đào tạo
nghề đã được phục hồi và bắt đầu phát triển. Chất lượng giáo dục có chuyển
biến bước đầu, hạn chế được một số hiện tượng tiêu cực, nổi cộm trong giáo
dục.
Thấu suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, từ nay đến năm 2010, toàn
Đảng, toàn dân mà nòng cốt là đội ngũ giáo viên và cán bộ giáo dục tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Tạo chuyển biến
cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo. Thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục tư tưởng -
13
14
chính trị, nhân cách, đạo đức, lối sống cho người học. Tăng cường phối hợp
giữa nhà trường và gia đình, phát huy vai trò giáo dục gia đình. Đổi mới nội
dung, chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại
hóa, tăng cường giáo dục tư duy dáng tạo, tăng năng lực tự học, tự tu dưỡng,
tự tạo việc làm. Đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn
nhân lực của đất nước và các địa phương, vùng miền. Một số trường đại học
phải sớm đạt chất lượng ở trình độ quốc tế. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính
sách, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sớm xây dựng chính sách sử dụng và tôn vinh các
nhà giáo, cán bộ quản lý giỏi, có công lớn trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo.
Nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, chấn chỉnh việc phong chức danh,
học vị, cấp văn bằng.
Phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn, trên cơ sở đảm bảo
chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển
kinh tế – xã hội, đào tạo với sử dụng. Mở rộng hệ thống trường lớp giáo dục
mầm non trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở miền núi, vùng dân tộc ít người,
nông thôn. Hoàn thành cơ bản phổ cập trung học cơ sở năm 2010, củng cố kết
quả phổ cập tiểu học, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục xóa mù
chữ, ngăn ngừa tái mù chữ, giáo dục cho người lớn. Điều chỉnh cơ cấu đào
tạo, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Hiện đại hóa một số
trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao có trình độ tiếp
thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao. Phát triển giáo dục không
chính quy, các hình thức học tập công đồng ở các xã, phường gắn với nhu cầu
thực tế của đời sống kinh tế – xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có
thể học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Có chính sách hỗ trợ học
sinh, sinh viên thuộc các gia đình nghèo và các đối tượng chính sách xã hội.
14
15
Ưu tiên phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Củng
cố và tăng cường hệ thống nội trú, bán trú cho học sinh dân tộc thiêu số ; từng
bước mở rộng quy mô tuyển sinh, đáp ứng yêu cầu đào tạo toàn diện đi đôi
với cải tiến chính sách học bổng cho học sinh các trường này. Thực hiện chế
độ miễn phí học tập, cung cấp sách giáo khoa cho học sinh vùng cao, vùng
sâu, vùng xa, học sinh dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chính sách cử tuyển,
đào tạo theo địa chỉ với vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có nhiều
khó khăn.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một
ham muốn, ham muốn đến tột bậc. Đó là "làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành". Tư tưởng đó của Người đến nay vẫn còn
nguyên giá trị, vẫn tỏa sáng tính cách mạng, tính nhân dân và tính dân tộc sâu
sắc. Đẩy mạnh và phát triển toàn diện sự nghiệp giáo dục trong công cuộc đổi
mới hôm nay là thực hiện ham muốn tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhanh chóng đưa nước ta "sánh vai với các cường quốc năm châu”[14, tr429].
1.2. Mục tiêu của giáo dục – đào tạo
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan
trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục
ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ
người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Điều này đòi
hỏi giáo dục phải có chiến lược phát triển đúng hướng, hợp quy luật, xu thế
và xứng tầm thời đại. Chiến lược Giáo dục Việt Nam 2001-2010 đã tiến hành
được 8 năm. Thực tiễn phát triển giáo dục đất nước đã khẳng định những định
hướng đúng đắn của chiến lược nhưng đồng thời cũng cho thấy cần có sự điều
chỉnh. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2009-2020 tiếp tục thực hiện
15
16
giai đoạn cuối của Chiến lược giáo dục 2001-2010 với những điều chỉnh cần
thiết, tạo những bước chuyển căn bản của giáo dục trong thập niên tới.
Trong vòng 20 năm tới, phấn đấu xây dựng một nền giáo dục Việt Nam
hiện đại, khoa học, dân tộc, làm nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển bền vững đất nước, thích ứng với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới một xã hội học tập, có khả năng hội
nhập quốc tế; nền giáo dục này phải đào tạo được những con người Việt Nam
có năng lực tư duy độc lập và sáng tạo, có khả năng thích ứng, hợp tác và
năng lực giải quyết vấn đề, có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, có thể lực
tốt, có bản lĩnh, trung thực, có ý thức làm chủ và tinh thần trách nhiệm công
dân, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Từ nay đến năm 2020, giáo dục Việt Nam phải đạt được các mục tiêu sau:
Một là, Quy mô giáo dục phát triển hợp lý, chuẩn bị nguồn nhân lực có
chất lượng cho đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tạo cơ hội
học tập suốt đời cho mỗi người dân
- Giáo dục mầm non
Thực hiện phổ cập giáo dục một năm cho trẻ 5 tuổi để chuẩn bị tốt cho
trẻ vào học lớp một, đồng thời từng bước phát triển giáo dục trẻ dưới 5 tuổi.
Đến năm 2020 có 99% trẻ 5 tuổi được học một năm mẫu giáo chuẩn bị vào
lớp 1.
- Giáo dục phổ thông
Đến năm 2020 có 99% trẻ em trong độ tuổi đi học tiểu học và trung học
cơ sở, trong đó đặc biệt chú trọng tỷ lệ trẻ em người dân tộc trong độ tuổi
được đến trường. Giáo dục hoà nhập được thực hiện ở tất cả các cấp học và
trình độ đào tạo để đến năm 2020 có 70% người khuyết tật được học hoà
nhập.
16
17
Đến năm 2020, 100% số tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục 9 năm
đúng độ tuổi, 80% thanh niên Việt Nam trong độ tuổi đạt trình độ học vấn
trung học phổ thông và tương đương.
- Giáo dục nghề nghiệp
Tạo bước đột phá về giáo dục nghề nghiệp để tăng mạnh tỷ lệ lao động
qua đào tạo. Vào năm 2020, tỷ lệ lao động trong độ tuổi được đào tạo qua hệ
thống giáo dục nghề nghiệp đạt 60%.
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp được tái cấu trúc đảm bảo phân luồng sau
trung học cơ sở và liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo để đến năm
2020 có đủ khả năng tiếp nhận 30% số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở
vào học và có thể tiếp tục học các trình độ cao hơn khi có điều kiện. Đến 2020
có khoảng 30% số học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào học ở các cơ
sở giáo dục nghề nghiệp.
- Giáo dục đại học
Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân lên 450 vào năm 2020. Mở rộng
quy mô giáo dục đại học ngoài công lập, phấn đấu đến 2020 tỷ lệ sinh viên
học trong các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập chiếm khoảng 40% tổng
số sinh viên trong cả nước.
Đến năm 2020, có khoảng 15.000 sinh viên nước ngoài đăng ký vào học
tại các trường đại học Việt Nam.
- Giáo dục thường xuyên
Giáo dục thường xuyên được tiếp tục đẩy mạnh, tạo cơ hội cho mọi
người có thể học tập suốt đời phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mình.
Tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 trở lên là 98% vào năm 2020. Đội
ngũ người lao động được đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn hạn định kỳ và
thường xuyên theo các chương trình giáo dục, đáp ứng nhu cầu của các đơn vị
17
18
sử dụng lao động và nhu cầu nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp, góp
phần tăng thu nhập hoặc chuyển đổi nghề nghiệp của cá nhân người lao động.
Hai là, Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao, tiếp cận được
với chất lượng giáo dục của khu vực và quốc tế
Giáo dục Mầm non: Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ được chuyển biến
về cơ bản, giúp trẻ phát triển hài hòa về thể chất, tình cảm, trí tuệ và thẩm mĩ,
hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ vào học
lớp 1. Đến năm 2020 có 90% số trẻ 5 tuổi đạt chuẩn phát triển; tỷ lệ trẻ suy
dinh dưỡng trong các cơ sở giáo dục mầm non giảm ở mức dưới 10%.
Giáo dục phổ thông: Chất lượng toàn diện của học sinh phổ thông có sự
chuyển biến rõ rệt để phát triển năng lực làm người Việt Nam trong thời kỳ
hội nhập. Học sinh có ý thức và trách nhiệm cao trong học tập, có lối sống
lành mạnh, có bản lĩnh, trung thực, có năng lực làm việc độc lập và hợp tác,
có kỹ năng sống, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, ham thích học tập và
học tập có kết quả cao; có năng lực tự học; hiểu biết và tự hào, yêu quý Tổ
quốc. Khả năng sử dụng ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh trong học tập và vận
dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống của học sinh phổ thông Việt Nam tương
đương với học sinh ở các nước phát triển trong khu vực; tỷ lệ hoàn thành cấp
học được duy trì ở mức 90% trở lên đối với cả ba cấp học.
Đối với giáo dục tiểu học: năng lực đọc hiểu và làm toán của học sinh
được nâng cao rõ rệt, tỷ lệ học sinh đạt yêu cầu trong các đánh giá quốc gia về
đọc hiểu và tính toán là 90% vào năm 2020. Tất cả học sinh tiểu học được học
2 buổi ngày vào năm 2020. Học sinh tiểu học được học chương trình ngoại
ngữ mới từ lớp 3.
Đối với giáo dục trung học: học sinh được trang bị học vấn cơ bản, kỹ
năng sống, những hiểu biết ban đầu về công nghệ và nghề phổ thông, được
học một cách liên tục và hiệu quả chương trình ngoại ngữ mới để đến cuối
18
19
thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21 có trình độ ngoại ngữ ngang bằng với các nước
trong khu vực. Cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh đại trà,
những học sinh có năng khiếu được chú trọng đào tạo và bồi dưỡng một cách
toàn diện để trở thành vốn quý của đất nước.
Giáo dục nghề nghiệp: Sau khi hoàn thành các chương trình giáo dục nghề
nghiệp, học sinh có năng lực và có đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật lao động và
tác phong lao động hiện đại, có khả năng sử dụng ngoại ngữ, nhất là tiếng
Anh trong học tập và làm việc tương đương với học sinh ở các nước phát triển
trong khu vực, có khả năng tham gia vào thị trường lao động quốc tế. Đến
2020 có trên 95% số học sinh tốt nghiệp được các doanh nghiệp và cơ quan
sử dụng lao động đánh giá đáp ứng được các yêu cầu của công việc.
Giáo dục đại học: Sinh viên sau khi tốt nghiệp có kiến thức hiện đại, kỹ
năng thực hành nghề nghiệp vững chắc, có khả năng lao động sáng tạo, có tư
duy độc lập, phê phán và năng lực giải quyết vấn đề, có khả năng thích ứng
cao với những biến động của thị trường lao động, có khả năng sử dụng tiếng
Anh trong học tập, nghiên cứu và làm việc sau khi tốt nghiệp. Đến năm 2020
có ít nhất 5% tổng số sinh viên tốt nghiệp đại học có trình độ ngang bằng với
sinh viên tốt nghiệp loại giỏi ở các trường đại học hàng đầu trong khối
ASEAN, 80% số sinh viên tốt nghiệp được các doanh nghiệp và cơ quan sử
dụng lao động đánh giá đáp ứng được các yêu cầu của công việc.
Đồng thời, với việc nâng cao chất lượng toàn diện sinh viên diện đại trà,
mở rộng diện đào tạo, bồi dưỡng sinh viên tài năng để chuẩn bị đội ngũ nhân
lực có trình độ cao, thạo ngoại ngữ, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và thế
giới.
Giáo dục thường xuyên: Kết quả xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học,
phổ cập giáo dục 9 năm được củng cố một cách bền vững. Chất lượng giáo
dục thường xuyên được nâng cao, giúp người học có kiến thức, kỹ năng thiết
19
20
thực để có thể tiếp tục tham gia các chương trình giáo dục liên thông, đa dạng
và đáp ứng được yêu cầu của công việc, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Ba là, Các nguồn lực cho giáo dục được huy động đủ, phân bổ và sử
dụng có hiệu quả để đảm bảo điều kiện phát triển giáo dục. Nguồn lực được
đảm bảo để thực hiện giáo dục có chất lượng ở mọi cấp học và trình độ đào
tạo. Đảm bảo duy trì tỷ lệ đầu tư cho giáo dục trong tổng chi ngân sách nhà
nước được là 20% trong giai đoạn 2009-2012, phấn đấu đạt 21% vào năm
2015[18, tr15] trong đó tập trung ưu tiên cho giáo dục phổ cập, giáo dục ở
những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa và hỗ trợ tài chính cho những học
sinh, sinh viên thuộc các nhóm thiệt thòi và các nhóm được hưởng chính sách
ưu tiên.
Ngoài ngân sách nhà nước, nguồn lực cho giáo dục sẽ được huy động từ
các tổ chức kinh tế-xã hội, các đơn vị sử dụng nhân lực sau đào tạo, được chia
sẻ với người học và các hộ gia đình.
Việc phân bổ tài chính cho các cơ sở giáo dục được thực hiện dựa trên
nhu cầu thực và kết quả hoạt động của từng cơ sở nhằm tạo sự cạnh tranh lành
mạnh, khuyến khích các cơ sở phấn đấu nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục.
Nguồn lực cho giáo dục được quản lý và sử dụng có hiệu quả trên cơ sở
nâng cao tính tự chủ của các cơ sở giáo dục, đảm bảo tính minh bạch và trách
nhiệm đối với Nhà nước, người học và xã hội. Từ nay đến 2020, tất cả các cơ
sở giáo dục đều được kiểm toán và công bố công khai kết quả kiểm toán.
1.3. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về giáo dục – đào tạo
Theo chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo 2009 – 2020, giáo dục và
đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi
nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Do đó xác định Giáo dục
và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam và Đảng ta
20
- Xem thêm -