Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật ưu điểm và nhược điểm của từng hình thức thanh toán trên cơ sở pháp luật hiện hà...

Tài liệu ưu điểm và nhược điểm của từng hình thức thanh toán trên cơ sở pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng thanh toán bằng thẻ tại các cơ sở cung ứng hàn

.DOCX
19
355
90

Mô tả:

MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU. B. NỘI DUNG. I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN. II. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA TỪNG HÌNH THỨC THANH TOÁN TRÊN CƠ SỞ PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH. 1. Ưu điểm và nhược điểm của hình thức thanh toán bằng tiền mặt. 2. Ưu điểm và nhược điểm của hình thức thanh toán qua các trung gian thanh toán. 2.1. Thanh toán bằng séc. 2.2. Thanh toán bằng lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi. 2.3. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu. 2.4. Thanh toán bằng thư tín dụng. 2.5. Thanh toán bằng thẻ ngân hàng. III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG THANH TOÁN BẰNG THẺ TẠI CÁC SƠ SỞ CUNG ỨNG HÀNG HÓA, DỊCH VỤ TRONG 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2013. IV. Ý KIẾN PHÁP LÍ KHI NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ÁP DỤNG THANH TOÁN THẺ. C. KẾT LUẬN. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1 I. MỞ ĐẦU. Quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa đã kéo theo các phương thức thanh toán phát triển, phương thức sau kế thừa và phát triển các phương thức trước đó. Để khắc phục những nhược điểm của phương thức thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt đã ra đời và phát huy được những ưu việt của nó. Hiện nay ở rất nhiều nước trên thế giới, việc thanh toán không dùng tiền mặt đã trở nên quen thuộc với mỗi người dân, trong khi đó ở Việt Nam, khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt còn chiếm tỷ lệ rất hạn chế. Nhà nước ta đã không ngừng đưa ra các biện pháp, các văn bản pháp quy nhằm phát huy tốt phương thức thanh toán không dùng tiền mặt. Tuy nhiên, hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta còn nhiều hạn chế và gây nhiều phiền toái cho người sử dụng. Vì vậy, em xin chọn đề bài số 9: “Ưu điểm và nhược điểm của từng hình thức thanh toán trên cơ sở pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng thanh toán bằng thẻ tại các cơ sở cung ứng hàng hóa dịch vụ trong 9 tháng đầu năm 2013. Ý kiến pháp lý của em khi nghiên cứu thực tiễn áp dụng thanh toán bằng thẻ” để làm đề tài cho bài tập học kì môn Luật Ngân hàng Việt Nam. B. NỘI DUNG. I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN. Lịch sử ra đời và phát triển của sản xuất lưu thông hàng hóa gắn liền với sự ra đời và phát triển của tiền tệ và lưu thông tiền tệ. Tiền tệ ra đời với vai trò trung gian trao đổi giữa các loại hàng hóa khác nhau làm cho việc lưu thông và trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển. Quá trình phát sinh và phát triển của các quan hệ thanh toán tiền tệ phục vụ các giao dịch dân sự và thương mại gắn liền 2 với quá trình phát sunh và phát triển của các hình thức tiền tệ trong nền kinh tế. Các quan hệ thanh toán được thực hiện dưới hai hình thức: thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt và thanh toán qua các trung gian thanh toán. Thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt là hình thức thanh toán mà người có nghĩa vụ chi trả (người mua hàng hóa, người nhận cung ứng dịch vụ…) sử dụng tiền mặt để chi trả cho người thụ hưởng (người bán hàng hóa, người cung ứng dịch vụ…). Thanh toán qua các trung gian thanh toán là việc chi trả không tiến hành trực tiếp giữa người chi trả với người thụ hưởng mà thông qua việc ủy nhiệm cho các tổ chức trung gian thực hiện (ngân hàng, kho bạc nhà nước…). Theo quy định của pháp luật, cứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàn.1 Định nghĩa trên đã nêu cụ thể các hình thức thanh toán có thể sử dụng qua các trung gian thanh toán bao gồm: Thanh toán bằng séc: séc là giấy tờ có giá do người kí phát lập, ra lệnh cho người bị kí phát là ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để thanh toán cho người thụ hưởng.2 Thanh toán bằng lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi là hình thức ủy nhiệm thanh toán qua ngân hàng, kho bạc nhà nước theo đó chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng, 1 Khoản 15 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010. 2 Khoản 4 Điều 4 Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005. 3 kho bạc phục vụ mình trích tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng thông qua giấy ủy nhiệm chi.1 Thanh toán bằng ủy nhiệm thu là hình thức thanh toán qua ngân hàng, kho bạc nhà nước trong đó đơn vị bán (đơn vị thụ hưởng) yêu cầu ngân hàng, kho bạc nhà nước phục vụ mình thu hộ số tiền về hàng hóa đã chuyển giao, dịch vụ đã cung ứng cho người khác.2 Thanh toán bằng thẻ ngân hàng: thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng theo hợp đồng kí kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ.3 Thanh toán bằng thư tín dụng là hình thức ủy nhiệm thanh toán qua ngân hàng theo đó việc thanh toán được tiến hành từ một khoản tiền được bên mua lưu kí trước ở ngân hàng phục vụ mình để trả cho bên bán theo các chứng từ của bán về số lượng hàng hóa đã giao, dịch vụ đã cung ứng và theo các điều kiện sử dụng thư tín dụng.4 II. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA TỪNG HÌNH THỨC THANH TOÁN TRÊN CƠ SỞ PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH. 1. Ưu điểm và nhược điểm của hình thức thanh toán bằng tiền mặt. 1.1. Ưu điểm. Thứ nhất, thanh toán bằng tiền mặt là hình thức thanh toán đơn giản, thủ tục nhanh gọn và tiện dụng nhất được sử dụng để mua bán hàng hóa, do các bên 1 Tr.368, Giáo trình môn Luật Ngân hàng Việt Nam, ĐH Luật Hà Nội. 2Tr.370, Giáo trình môn Luật Ngân hàng Việt Nam, ĐH Luật Hà Nội. 3 Điều 2 Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng năm 1999. 4 Tr.372, Giáo trình môn Luật Ngân hàng Việt Nam, ĐH Luật Hà Nội. 4 trực tiếp thanh toán cho nhau bằng tiền mặt mà không qua trung gian thanh toán nên những thủ tục, cách thức thanh toán rất nhanh chóng, đơn giản. Thứ hai, do đây là hình thức thanh toán lâu đời, truyền thống và quen thuộc nhất nên nó được người dùng ưa chuộng và trở thành thói quen thanh toán quen thuộc của người dân và các bên cũng yên tâm hơn khi trực tiếp thanh toán bằng tiền mặt. 1.2. Nhược điểm. Thứ nhất, hình thức thanh toàn bằng tiền mặt chỉ phù hợp với nền kinh tế có quy mô sản xuất nhỏ, sản xuất chưa phát triển, việc trao đổi thanh toán hàng hóa với số lượng nhỏ, trong phạm vi hẹp. Vì vậy, khi nền kinh tế phát triển về cả số lượng và chất lượng thì việc thanh toán bằng tiền mặt không đáp ứng được nhu cầu thanh toán của toàn bộ nền kinh tế và rất khó khăn khi thực hiện thanh toán quốc tế. Thứ hai, việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán làm giảm vòng quay của vốn, khiến sản xuất chậm lại, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Do người dân thường có thói quen cất giữ tiền mặt nên tiền sẽ không tham gia vào quá trình lưu thông và không được tái đầu tư để phát triển kinh tế đất nước và đảm bảo an sinh xã hội. Thứ ba, gây khó khăn cho việc kiểm soát hoạt động của các tác nhân trong nền kinh tế của ngân hàng nhà nước (biểu hiện rõ nhất là ở nạn tham nhũng và nạn rửa tiền). Thứ tư, thanh toán bằng tiền mặt có độ an toàn không cao. Với khối lượng hàng hóa lớn thì việc thanh toán bằng tiền mặt sẽ không an toàn, thuận tiện cho 5 cả người chi trả và người thụ hưởng. Ngoài ra, thanh toán bằng tiền mặt dễ mất mát, dễ bị trộm cắp hoặc bị ảnh hưởng bởi tiền giả. Thứ năm, chi phí liên quan đến tiền mặt trong lưu thông như in ấn, phát hành, thu huỷ, vận chuyển, bảo quản, an ninh là khá tốn kém. 2. Ưu điểm và nhược điểm của hình thức thanh toán qua các trung gian thanh toán. 2.1. Thanh toán bằng séc. 2.1.1. Ưu điểm. Thứ nhất, thanh toán bằng séc là hình thức đã xuất hiện từ rất lâu, phổ biến ở các nước phát triển và rất hiệu quả trong việc thanh toán. Việc thanh toán bằng séc vừa đảm bào quyền lợi cho người kí phát séc, người thụ hưởng vừa đảm bảo quyền lợi cho ngân hàng phát hành và trung gian. Thứ hai, thanh toán bằng séc rất thuận lợi và nhanh chóng trong giao dịch mua bán. Người mua hàng ký séc đưa cho người bán và người bán chỉ cần cầm séc và CMND ra ngân hàng là có thể nhận được tiền. Khi nhận được Séc Ngân hàng chấp nhận vô điều kiện, trừ trường hợp tài khoản của người phát hành không đủ hoặc không có tiền trả. Vì vậy ,việc thanh toán bằng séc bảo đảm khả năng thanh toán tức thì, tiết kiệm thời gian và chi phí quản lí. Thứ ba, trong trường hợp séc bị mất hoặc hư hỏng thì người thụ hưởng sẽ không mất số tiền ghi trên séc, họ có quyền yêu cầu người kí phát cấp lại séc thay thế với nội dung tương tự. Do đó, so với thanh toán bằng tiền mặt thì việc thanh toán bằng séc sẽ giảm thiểu rủi ro khi lưu giữ và vận chuyển, không bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn như trộm cắp. Ngoài ra, séc chỉ có giá trị khi có chữ kí bằng tay trực tiếp trên tờ séc của người kí phát bằng bút mực hoặc bút bi, theo 6 đúng chữ kí mẫu đã đăng kí tại người bị kí phát. Vì vậy, người kí phát có thể kiểm soát được việc kí phát và sử dụng séc, hạn chế các trường hợp làm giả. Thứ tư, có khá nhiều các loại séc như séc chuyển tiền, séc bảo chi, séc chuyển khoản….nên có thể đáp ứng linh hoạt nhu cầu thanh toán của người kí phát. 2.1.2. Nhược điểm. Séc đã có mặt trong hoạt động thanh toán qua trung gian từ khá lâu nhưng nó chưa thật sự đi vào đời sống, việc thanh toán vẫn còn nhiều khó khăn. Ở nước ta việc thanh toán chỉ chỉ trong phạm vi giữa các doanh nghiệp. Các cá nhân thường không coi việc sử dụng séc như một phương tiện thanh toán hấp dẫn bởi những hạn chế sau đây: Thứ nhất, nội dung trên tờ séc còn khá nhiều và phức tạp, một số nội dung trùng lặp, không cần thiết nhiều người vẫn còn cảm thấy khó khăn trong việc sử dụng. Ngoài ra, kích thước là quá nhỏ để so với nội dung trên tờ séc. Do đó, chưa thật sự đáp ứng được mục tiêu thanh toán nhanh chóng trong trung gian thanh toán và khó đi vào đời sống của người dân. Thứ hai, thủ tục thanh toán bằng séc khá phức tạp. Đặc biệt, trong trường hợp, séc đã hết thời hạn thanh toán, người thụ hưởng phải đến ủy ban nhân dân xã, phường xác nhận lý do nộp séc quá hạn, việc quy định như vậy là không cần thiết, gây phiền hà cho người sử dụng séc. Đối với người phát hành séc – khách hàng chính của ngân hàng thanh toán tờ séc đó, mục đích của họ khi phát hành séc tương tự như việc ủy nhiệm cho ngân hàng chi trả cho họ số tiền ghi trên séc cho người thụ hưởng đã không thực hiện được. Lúc này, nếu có tiền mặt thì họ sẽ trả luôn cho người thụ hưởng chứ không làm các thủ tục phát hành séc và quyền lợi của người thụ hưởng sẽ không được đảm bảo nếu người phát hành séc 7 chậm trễ trong việc kí phát lại tờ séc đó. Hay trường hợp bảo chi séc, người phát hành bắt buộc phải đến ngân hàng làm thủ tục chuyển số tiền phát hành séc từ tài khoản tiền gửi sang tài khoản tạm giữ bảo chi séc riêng biệt, điều này chỉ phù hợp với việc thanh toán thủ công, dựa trên chứng từ giấy. Hiện nay, với phương tiện hiện đại cho phép việc phát hành séc bảo chi mà không cần trích tiền gửi thanh toán và tài khoản bảo chi. Thứ ba, việc thanh toán séc cũng gặp không ít phiền phức nếu khách mua và khách bán không có tài khoản ở cùng một ngân hàng, buộc các ngân hàng thương mại phải thông qua hệ thống thanh toán bù trừ của ngân hàng thương mại và hiện tại, ngân hàng thương mại chưa thành lập được Trung tâm thanh toán bù trừ séc nào. Thứ tư, ở nước ta do chưa có quy định bắt buộc về hạn mức phải thanh toán bằng séc mà hiện chỉ “động viên” dùng séc nên việc thanh toán bằng séc còn ở mức hạn chế. 2.2. Thanh toán bằng lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi. 2.2.1. Ưu điểm. Thứ nhất, đây là hình thức phổ biến hơn hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu, thủ tục đơn giản, thanh toán nhanh nếu hai bên thực hiện đúng theo hợp đồng. Bên trả tiền chỉ cần lập giấy ủy nhiệm chi theo quy định của ngân hàng và nộp vào ngân hàng, kho bạc nhà nước phục vụ mình. Ngân hàng, kho bạc nhà nước sẽ trích tài khoản trả cho bên thụ hưởng. Người thụ hưởng không cần có tài khoản tại ngân hàng như hình thức thanh toán bằng thẻ ngân hàng. Người thụ hưởng có thể đến trực tiếp ngân hàng, kho bạc nhà nước để được thanh toán. 8 Thứ hai, hình thức thanh toán này ít phụ thuộc hơn vào máy móc thiết bị do đó cũng hạn chế được những rủi ro do hỏng hóc, sự cố của máy móc, thiết bị như trong thanh toán bằng thẻ ngân hàng. 2.2.2. Nhược điểm. Thứ nhất, hình thức này đòi hỏi một hệ thống thanh toán hiện đại với nghiệp vụ ngân hàng linh hoạt. Thứ hai, người bán sẽ bị thiệt nếu bên mua gặp khó khăn về tài chính. Ngoài ra, khi thực hiện hình thức này thì khả năng kiểm soát của ngân hàng bị hạn chế, vì quyền chủ động chi trả phụ thuộc vào chủ tài khoản. Do vậy, hình thức này thường được áp dụng giữa các tổ chức kinh tế có sự tín nhiệm lẫn nhau trong quan hệ mua bán và khả năng tài chính tương đối ổn định. Thứ ba, tính hiện đại của nghiệp vụ này vẫn còn hạn chế. Nội dung và mẫu lệnh chi không phù hợp với thực tiễn thanh toán trên mạng vi tính hiện nay của ngân hàng thương mại. Chưa thực hiện được lệnh chi điện tử, quá trình thanh toán còn chậm, chưa kết nối mạng thanh toán giữa ngân hàng thương mại và khách hàng để thực hiện hoạt động thanh toán này. 2.3. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu. 2.3.1. Ưu điểm. Thứ nhất, cũng tương tự như hình thức thanh toán qua ủy nhiệm chi – chuyển tiền, hình thức thanh toán qua ủy nhiệm chi hoặc nhờ thu cũng đơn giản, hạn chế những rủi ro do máy móc, hệ thống, bên trả tiền không nhất thiết phải có tài khoản ngân hàng. 9 Thứ hai, thủ tục thanh toán bằng ủy nhiệm thu chặt chẽ hơn hình thức ủy nhiệm chi nên quyền lợi của bên bán được bảo đảm hơn. 2.3.2. Nhược điểm. Thứ nhất, quá trình thanh toán với những thủ tục phức tạp, người mua khó kiểm soát được quá trình đòi tiền của người bán. Thứ hai, hình thức thanh toán này thường hay chậm trễ vì chứng từ xuất phát từ bên thụ hưởng, nguyên tắc đòi hỏi phải ghi nợ trước ghi có sau nên chứng từ phải luân chuyển qua nhiều khâu vòng vèo, gây ách tắc trong thanh toán. 2.4. Thanh toán bằng thư tín dụng. 2.4.1. Ưu điểm. Thứ nhất, thanh toán bằng thư tín dụng là hình thức thanh toán khá hoàn hảo và có thể sử dụng trong thanh toán nội địa và thanh toán quốc Thứ hai, đây là hình thức dung hòa được quyền lợi, rủi ro giữa người mua và người bán. 2.4.2. Nhược điểm. Thứ nhất, đây là hình thức có kĩ thuật nghiệp vụ khá phức tạp. Việc áp dụng nó không hề đơn giản và thường có nhiều tranh chấp phát sinh dẫn đến những tổn thất lớn trong kinh doanh. Thứ hai, giá trị tối thiểu của thư tín dụng là 10 triệu, việc quy định như vậy làm giảm khả năng tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ thanh toán và làm nất đi tính chủ động, linh hoạt của họ trong quá trình lựa chọn dịch vụ thanh 10 toán. Hơn nữa, 10 triệu đồng cũng không đánh giá được điều gì vì số tiền đó có thể lớn so với người này nhưng lại ít so với người khác. 2.5. Thanh toán bằng thẻ ngân hàng. 2.5.1. Ưu điểm. Thanh toán bằng thẻ ngân hàng là hình thức có nhiều ưu điểm vượt trội so với các hình thức thanh toán khác, đó là: Thứ nhất, đây là hình thức thanh toán phổ biến và được người dân dùng rất linh hoạt trong cuộc sống hằng ngày, thuận lợi cho hoạt động thanh toán cho cuộc sống. Bằng cách nhập mã số cá nhân (PIN - Personal Identification Number), chủ thẻ có thể tiếp cận tài khoản cá nhân của mình tại ngân hàng mọi nơi, mọi lúc, 24/24 mỗi ngày và 7 ngày trong tuần. ATM đã cung cấp cho khách hàng sử dụng thẻ khả năng giao dịch ngoài giờ làm việc, ngoài ngân hàng và khả năng tự phục vụ. Thứ hai, thẻ ngân hàng không phải chỉ có tính năng để giao dịch trên các máy ATM thuần túy, mà nó còn được giao dịch tại rất nhiều thiết bị POS (các máy chấp nhận thanh toán thẻ) mà các ngân hàng triển khai tại các điểm chấp nhận thanh toán nó, các điểm này có thể là khách sạn, nhà hàng, siêu thị, cửa hàng xăng dầu... Sử dụng máy POS chủ thẻ chỉ cần “quẹt” thẻ lên máy được đặt tại quầy tính tiền, nhập số PIN, nhập số tiền cần thanh toán, sau đó ký tên xác nhận lên biên lai, hoàn tất quá trình thanh toán. Nhân viên tại các điểm giao dịch có trách nhiệm đối chiếu chữ ký của chủ thẻ với chữ ký trên thẻ nhằm bảo vệ quyền lợi và hạn chế rủi ro cho khách hàng. Mọi thao tác đều khá đơn giản, có sự hỗ trợ hướng dẫn của các nhân viên tại quầy giao dịch. Vì vậy, việc sử dụng thẻ ngân hàng để thanh toán các giao dịch hàng ngày sẽ tiện lợi hơn và chủ thẻ không phải mang nhiều tiền mặt trong người. 11 Thứ ba, thẻ ngân hàng có tính an toàn cao, thẻ được chế tạo dựa trên kĩ thuật tinh vi, hiện đại nên khó làm giả. Trường hợp bị nuốt, đánh rơi hoặc kẻ gian ăn cắp, tiền của chủ thẻ không suy suyển nếu chủ thẻ nhanh chóng thông báo với ngân hàng để họ khóa thẻ, ngừng các giao dịch phát sinh khi bị kẻ gian lợi dụng. Do đó, việc sử dụng thẻ sẽ hạn chế được các rủi ro khi thanh toán bằng tiền mặt. Kích thước thẻ gọn nhẹ, chủ thể dễ dàng mang theo người với số lượng thanh toán lớn hay đi xa. Thứ tư, với nhiều loại thẻ đa dạng, phong phú nên thẻ thích hợp cho mọi đối tượng, từ khách hàng có thu nhập cao, đến khách hàng có thu nhập thấp. 2.5.2. Nhược điểm. Thứ nhất, số lượng các điểm chấp nhận thẻ còn ít, phạm vi thanh toán hẹp do các ngân hàng phát hành thẻ chưa có mạng lưới liên kết mà chỉ thực hiện thanh toán thẻ trong phạm vi nội bộ. Thứ hai, thẻ ngân hàng chưa phát huy được hết công dụng. Do các ngân hàng thiếu đầu tư cũng như chưa có sự liên doanh liên kết mạnh mẽ cho hệ thống POS nên việc thanh toán tiền mua hàng, trả phí dịch vụ qua máy POS còn rất hạn chế vì không có đủ máy quét cho nhiều loại thẻ của nhiều ngân hàng. Nên để trả tiền mua hàng, khách hàng phải rút tiền mặt từ máy ATM lắp đặt tại các cửa hàng, siêu thị. vì muốn chi tiêu gì thì người dân thường vẫn phải ra máy ATM để rút tiền chứ khó có thể thanh toán bằng thẻ. Thứ ba, mức phí thu để thanh toán thẻ áp dụng đối với các đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ là tương đối cao, chưa khuyến khích các đơn vị thực hiện thanh toán bằng thẻ. 12 Thứ tư, việc cung cấp các máy móc có khả năng thanh toán thẻ đòi hỏi một sự đầu tư lớn từ phía người cung ứng dịch vụ và thực tế, những năm qua hệ thống máy ATM đã được bổ sung thêm nhiều song vẫn không đảm bảo yêu cầu thanh toán. Thứ năm, quy định về điều kiện chủ thẻ còn nhiều điểm chưa phù hợp làm hạn chế số lượng cũng như quyền lợi của chủ thẻ. Thứ sáu, pháp luật chưa có những biện pháp thật răn đe để xử lí các hành vi vi phạm có liên quan đến thẻ thanh toán khiến công tác phòng chống tội phạm trong hoạt động thẻ chưa cao, gây lo lắng, băn khoăn cho người sử dụng. III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG THANH TOÁN BẰNG THẺ TẠI CÁC SƠ SỞ CUNG ỨNG HÀNG HÓA, DỊCH VỤ TRONG 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2013. Trong giai đoạn 1996-2001, thị trường thẻ Việt Nam còn sơ khai, nhận thức của người dân về thanh toán bằng thẻ ngân hàng còn hạn chế nên các sản phẩm thẻ chủ yếu chỉ đáp ứng nhu cầu của tầng lớp dân cư có thu nhập cao và phần lớn chỉ là thẻ quốc tế được sử dụng khi mua sắm hàng hoá dịch vụ ở nước ngoài. Tuy nhiên, dịch vụ thẻ thanh toán thực sự sôi động, bắt đầu có chiều sâu vào những năm 2006-2007 khi Chính phủ ban hành Quyết định số 291/2006/ TTg về triển khai Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2011 và đặc biệt sự ra đời của quyết định số 20/2007/NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước (NHNN) Việt Nam điều chỉnh các quy định về phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng. Đặc biệt, trong nhưngc năm gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 2453/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015, ban hành Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về thanh toán không dùng tiền mặt; đây là các văn bản quan trọng định hướng trong 13 lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và hoạt động dịch vụ thẻ ngân hàng nói riêng. Điều này đã góp phần tạo một hành lang pháp lý rất quan trọng giúp thị trường có sự phát triển vượt bậc về hoạt động thanh toán và phát hành thẻ, số lượng các ngân hàng tham gia cung ứng dịch vụ thẻ ngày càng gia tăng với việc cho ra đời hàng loạt các sản phẩm thẻ tương đối hiện đại, nhiều tính năng, tiện ích đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Trong 9 tháng đầu năm 2013, dịch vụ thanh toán thẻ tại các cơ sở cung ứng hàng hóa, dịch vụ đã có nhiều khởi sắc. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, hiện lượng người dùng thẻ ATM đã tăng khá cao. Tính đến cuối quý II/2013, toàn hệ thống có 54,89 triệu thẻ thanh toán nội địa và 5,26 triệu thẻ thanh toán quốc tế. Theo Sacombank, tính riêng nửa năm 2013, lượng thẻ phát hành mới của ngân hàng này đã tăng khoảng 20% so với cuối năm ngoái.1 Bên cạnh đó, để khuyến khích người dân sử dụng thẻ ATM nhiều hơn, các ngân hàng thương mại đã tăng thêm nhiều tiện ích. Không chỉ dùng thẻ để thanh toán, người dùng còn nhận nhiều chính sách ưu đãi, giảm giá… Song song với hoạt động phát hành thẻ, hoạt động phát triển mạng lưới chấp nhận và thanh toán thẻ cũng có sự phát triển khá ấn tượng. Hệ thống ATM và đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ - POS đã có sự tăng trưởng đáng kể, đến cuối tháng 3/2013, có 46 NHTM đã trang bị máy ATM/POS với số lượng trên 14.300 ATM và hơn 101.400 POS.2 Tính hết quý II/2013, đã có khoảng 5,65 triệu giao dịch được thực hiện thông qua các loại thẻ với tổng giá trị gần 29.600 tỷ đồng, tăng hơn 10% so với quý I.3 Việc chia sẻ mạng lưới và đẩy mạnh kết nối liên thông hệ thống ATM, POS cũng được tích cực thực hiện đã không chỉ góp phần gia tăng thuận tiện cho chủ thẻ mà còn góp phần nâng cao hiệu quả cho hoạt 1, 3 www.vntime.vn 2 www.tapchitaichinh.vn 3 14 động thẻ của các ngân hàng thương mại (NHTM), tiết kiệm chi phí đầu tư cho mỗi ngân hàng và cho toàn xã hội. Tuy đạt được nhiều thành tựu như trên nhưng dịch vụ thẻ ngân hàng tại Việt Nam còn nhiều biểu hiện phát triển chưa bền vững: Thứ nhất, việc gia tăng về số lượng chưa đi kèm với sự thay đổi căn bản về chất lượng cũng như tăng cường giao dịch của chủ thẻ sau khi đã phát hành thẻ. Hiện tại cả Hội thẻ và NHNN đều chưa có con số chính xác về tỷ lệ thẻ hoạt động, tuy nhiên qua thăm dò ý kiến từ một số quản lý lãnh đạo Trung tâm Thẻ của một số Ngân hàng điển hình thì tỷ lệ thẻ hoạt động (lấy theo quan điểm chuyên môn là tối thiểu có một giao dịch thanh toán/rút tiền/chuyển khoản mỗi năm) chung của các ngân hàng rơi vào khoảng từ 60 - 71%, tùy từng ngân hàng và từng loại thẻ, trong đó thẻ tín dụng thường có tỷ lệ hoạt động cao nhất là khoảng 90% và tỷ lệ của thẻ hoạt động ghi nợ quốc tế thường là thấp nhất khoảng <60%. Thứ hai, doanh số dùng thẻ để rút tiền mặt qua ATM chiếm tỷ trọng quá cao, doanh số thanh toán qua đơn vị chấp nhận thẻ chiếm tỷ lệ quá ít nhất là thẻ ghi nợ nội địa. Tính liên kết giữa đơn vị bán hàng và đơn vị cung cấp dịch vụ thanh toán không cao và kém bền vững dẫn đến việc phát triển dịch vụ thanh toán thẻ qua POS nói chung là chậm và chưa tương ứng với yêu cầu đòi hỏi của một nền kinh tế có hệ thống thanh toán hướng dần tới phi tiền mặt. Mục tiêu cuối cùng là sử dụng thẻ để thanh toán hàng hóa, dịch vụ thay vì dùng tiền mặt nhưng thực tế các giao dịch thực hiện tại hệ thống ATM chủ yếu để rút tiền mặt. Hệ thống POS chưa phát triển rộng, thanh toán qua POS còn hạn chế; số lượng giao dịch qua POS còn ít (chỉ đạt chưa đến 5% doanh số bán hàng). Tỷ lệ thanh toán thẻ so với tổng doanh số bán lẻ của nền kinh tế hàng năm còn rất thấp, chưa đến 3%. 15 Thứ ba, việc phát hành và sử dụng thẻ tín dụng còn rất khiêm tốn cho thấy sự thích nghi của người dân với dịch vụ tín dụng tiêu dùng thanh toán trước trả tiền sau còn nhiều điểm cần phải khắc phục. Thẻ tín dụng là loại hình gắn chặt với hoạt động tín dụng tiêu dùng của người dân, nhất là ở các nước phát triển, thậm chí một số nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaysia… Tuy nhiên, theo báo cáo của Trung tâm tín dụng NHNN (CIC) tại Hội thảo về “Các giải pháp phát triển hiệu quả thị trường thẻ tín dụng tại Việt Nam” đầu tháng 5 vừa qua, toàn thị trường đến cuối tháng 4/2013 cũng chỉ có hơn 532.000 chủ thẻ có dư nợ (chỉ khoảng 35% chủ thẻ được thống kê có vay vốn) với số dư nợ là 7.229 tỷ đồng. Đây là con số khá thấp nếu so với tổng dư nợ cho vay tiêu dùng của nền kinh tế theo ước tính là khoảng 4,5 tỷ USD (tương đương với khoảng 94.500 tỷ đồng).1 Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu là do thói quen và nhận thức của người dân, tiền mặt được coi là một công cụ được ưa chuộng trong thanh toán và từ lâu đã trở thành thói quen khó thay đổi của người tiêu dùng và nhiều doanh nghiệp. Phần lớn khách hàng sử dụng thẻ nội địa là người Việt Nam vốn quen với việc sử dụng tiền mặt và dễ dàng tiếp cận với nguồn tiền mặt luân chuyển rất lớn tại các hệ thống máy ATM nên chủ thẻ nội địa hầu như không có thói quen mua hàng hóa dịch vụ bằng thẻ mà dùng nó để rút tiền rồi dùng tiền mặt tại ATM để thanh toán. Ngoài ra, do chưa có các quy định được luật hóa về việc yêu cầu kinh doanh dịch vụ đặc thù phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng như một số nước đã thực hiện nên các đơn vị kinh doanh hàng hóa dịch vụ, thậm chí ngay cả nhiều đơn vị kinh doanh bán lẻ lớn vẫn không sẵn sàng chấp nhận thanh toán thẻ mà lý do chính là tâm lý thích tiền mặt và có thể là một số thủ thuật để có lợi trong quá trình nộp thuế thu nhập trong hoạt động kinh doanh. 1 www.tapchitaichinh.vn 16 IV. Ý KIẾN PHÁP LÍ KHI NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ÁP DỤNG THANH TOÁN THẺ. Thứ nhất, Nhà nước cần xem xét có quy định về các loại hình kinh doanh bắt buộc phải chấp nhận thanh toán qua ngân hàng ngay từ khi khởi sự kinh doanh nhằm minh bạch hóa các nguồn thu từ hoạt động kinh doanh và cũng là tạo cơ sở cho việc theo dõi và quản lý thuế sau này: Ví dụ như hoạt động lữ hành du lịch, khách sạn, giao dịch bất động sản… Thứ hai, cần sớm chuẩn hóa hoạt động thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng và giữa ngân hàng với ngân hàng: đây là giải pháp nhằm tạo nền tảng cho việc ứng dụng cơ chế xử lý tự động các giao dịch thanh toán, tăng tốc độ xử lý giao dịch và qua đó giảm chi phí. Việc chuẩn hóa này cần được thực hiện từ khâu mẫu biểu, quy trình, cơ chế xử lý giữa các ngân hàng song song với việc ban hành tiêu chuẩn về các trang thiết bị (ATM, POS…), tiêu chuẩn phần mềm, các thiết bị hỗ trợ theo tiêu chuẩn quốc gia. Thứ ba, cần quy định linh hoạt hơn với các đối tượng có thể trở thành chủ thẻ ngân hàng, không nên quy định quá cứng nhắc về việc chủ thẻ phải có năng lực hành vi dân sự. Thứ tư, pháp luật vần mở rộng đối tượng điều chỉnh bao gồm tất cả các loại thẻ thanh toán mà không nên giới hạn ở loại thẻ thanh toán do ngân hàng phát hành. Theo xu hướng chung thì việc phát hành thẻ thanh toán không chỉ có ngân hàng mà các tổ chức phi ngân hàng cũng thực hiện được việc này. Trên thế giới đã có hàng loạt công ty du lịch, bưu điện… phát hành thẻ thanh toán của mình. Thứ năm, về việc xử lí vi phạm trong thanh toán thẻ, pháp luật quy định rát chung chung, chưa có chế tài cụ thể. Vì vậy, pháp luật cần quy định cụ thể về 17 việc xử lí các vi phạm trong việc thanh toán bằng thẻ ngân hàng. Đặc biệt, cần bổ sung quy định về tội phạm thẻ trong Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. C. KẾT LUẬN. Như vậy, mỗi hình thức thanh toán đều có những ưu, nhược điểm riêng. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, hợp tác quốc tế phát triển mạnh mẽ như hiện nay thì các hình thức thanh toán qua các trung gian thanh toán đóng vai trò vô cùng quan trong. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, chủ yếu vẫn thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt, việc thanh toán qua các trung gian thanh toán còn khá xa lạ với người dân. Vì vậy, cần có những biện pháp kịp thời, hữu hiệu để các hình thức thanh toán qua trung gian dần thay thế việc thanh toán bằng tiến mặt và đi vào đời sống của người dân. 18 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật các công cụ chuyển nhượng 2005. 2. Quy chế cung ứng và sử dụng séc của NHNN. 3. Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng của NHNN. 4. Giáo trình Luật Ngân hàng, Trường ĐH Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân năm 2010. 5. www.vntime.vn 6. www.tapchitaichinh.vn 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan