TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT
TẠ ĐĂNG HẢI
ỨNG DỤNG BÀI TẬP SỬA CHỮA SAI
LẦM THƯỜNG MẮC GIAI ĐOẠN CHẠY
ĐÀ VÀ GIẬM NHẢY TRONG KỸ THUẬT
NHẢY XA KIỂU ƯỠN THÂN CHO HỌC
SINH NỮ KHỐI 11 TRƯỜNG THPT
LƯƠNG TÀI - BẮC NINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
HÀ NỘI – 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT
TẠ ĐĂNG HẢI
ỨNG DỤNG BÀI TẬP SỬA CHỮA SAI
LẦM THƯỜNG MẮC GIAI ĐOẠN CHẠY
ĐÀ VÀ GIẬM NHẢY TRONG KỸ THUẬT
NHẢY XA KIỂU ƯỠN THÂN CHO HỌC
SINH NỮ KHỐI 11 TRƯỜNG THPT
LƯƠNG TÀI - BẮC NINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo Dục Thể Chất
Hướng dẫn khoa học
ThS. ĐỖ ĐỨC HÙNG
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: TẠ ĐĂNG HẢI
Sinh viên lớp: K40 - GDTC
Tôi xin cam đoan đề tài: “Ứng dụng bài tập sửa chữa sai lầm thường
mắc giai đoạn chạy đà và giậm nhảy trong kỹ thuật nhảy xa kiểu ưỡn thân
cho học sinh Nữ khối 11 trường THPT Lương Tài – Bắc Ninh là công trình
của riêng tôi, kết quả được nêu trong đề tài này là trung thực, khách quan và
chưa từng được ai sử dụng và công bố trong bất kì đề tài nghiên cứu nào.
Vĩnh Phúc, ngày tháng năm 2018
Sinh viên
Tạ Đăng Hải
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BBT - TW
: Ban Bí thư Trung ương
cm
: Centimet
CT/ TW
: Chỉ thị/ Trung ương
ĐC
: Đối chứng
l
: Lần
LVĐ
: Lượng vận động
m
: Mét
NQ/ TW
: Nghị quyết/ Trung ương
GD - ĐT
: Giáo dục và đào tạo
GDTC
: Giáo dục thể chất
s
: Giây
STN
: Sau thực nghiệm
SL
: Số lượng
QN
: Quãng nghỉ
TN
: Thực nghiệm
T
: Tổ
TDTT
: Thể dục thể thao
TD
: Thể dục
THPT
: Trung học phổ thông
TTN
: Trước thực nghiệm
VĐV
: Vận động viên
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
4
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác GDTC trường học.
4
1.2. Ý nghĩa và vị trí môn Điền kinh trong hệ thống GDTC
7
1.3. Nguyên lý kỹ thuật Nhảy xa, đặc điểm kỹ thuật giai đoạn chạy đà và
giậm nhảy của nhảy xa.
9
1.3.1. Nguyên lý kỹ thuật nhảy xa.
9
1.3.2. Đặc điểm kỹ thuật giai đoạn chạy đà và giậm nhảy của nhảy xa.
12
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến giai đoạn chạy đà và giậm nhảy trong nhảy xa. 13
1.5. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT.
16
1.5.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh THPT.
16
1.5.2. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT.
18
CHƯƠNG 2: NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN
CỨU
21
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu.
21
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
21
2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu.
21
2.2.2. Phương pháp quan sát sư phạm.
22
2.2.3. Phương pháp phỏng vấn.
22
2.2.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm.
22
2.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
23
2.2.6. Phương pháp toán thống kê.
23
2.3. Tổ chức nghiên cứu.
24
2.3.1. Thời gian nghiên cứu
24
2.3.2. Địa điểm nghiên cứu
26
2.3.3. Đối tượng nghiên cứu
26
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
26
3.1. Đánh giá thực trạng công tác GDTC và những sai lầm thường mắc giai
đoạn chạy đà và giậm nhảy trong kỹ thuật nhảy xa kiểu “Ưỡn thân” của học
sinh Nữ khối 11 trường THPT Lương Tài - Bắc Ninh.
26
3.1.1. Thực trạng công tác GDTC trường THPT Lương Tài - Bắc Ninh.
26
3.1.2. Thực trạng đội ngũ giáo viên TDTT trường THPT Lương Tài - Bắc
Ninh.
27
3.1.3. Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học tập môn
GDTC.
28
3.1.4. Thực trạng những sai lầm thường mắc giai đoạn chạy đà và giậm nhảy
trong kỹ thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân” của học sinh Nữ khối 11 trường THPT
Lương Tài - Bắc Ninh.
29
3.2. Lựa chọn và đánh giá hiệu quả các bài tập sửa chữa sai lầm thường mắc
giai đoạn chạy đà và giậm nhảy trong thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân” cho các
em học sinh Nữ khối 11 trường THPT Lương Tài - Bắc Ninh.
37
3.2.1. Lựa chọn một số bài tập nhằm khắc phục những sai lầm thường mắc
khi học kỹ thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân”.
37
3.2.2. Lựa chọn một số bài tập nhằm khắc phục những sai lầm thường mắc
khi học kỹ thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân”.
38
3.2.3. Lựa chọn test đánh giá hiệu quả của bài tập.
42
3.2.4. Ứng dụng các bài tập vào thực nghiệm.
44
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
49
TÀI LIỆU THAM KHẢO
51
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ
Bảng
Bảng 3.1
Nội Dung
Trang
Thực trạng đội ngũ giáo viên TDTT trường THPT
27
Lương Tài – Bắc Ninh.
Bảng 3.2
Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và
28
học tập môn GDTC
Bảng 3.3
Kết quả phỏng vấn thực trạng sử dụng các bài tập ở giai
30
đoạn chạy đà và giậm nhảy trong nhảy xa kiểu ưỡn thân
(n=25)
Bảng 3.4
Kết quả phỏng vấn những sai lầm thường mắc kỹ thuật
32
giai đoạn chạy đà và giậm nhảy trong nhảy xa kiểu ưỡn
thân (n=25)
Bảng 3.5
Kết quả quan sát sư phạm những sai lầm thường mắc
33
giai đoạn chạy đà và giậm nhảy trong kỹ thuật nhảy xa
kiểu ưỡn thân (n=30)
Bảng 3.6
Kết quả phỏng vấn những nguyên nhân dẫn đến sai lầm
35
(n=25)
Bảng 3.7
Kết quả phỏng vấn lựa chọn một số bài tập sửa chữa sai
39
lầm thường mắc trong học kỹ thuật nhảy xa ưỡn thân
(n=40)
Bảng 3.8
Nội dung các bài tập sửa chữa sai lầm thường mắc giai
41
đoạn chạy đà và giậm nhảy trong kỹ thuật nhảy xa kiểu
ưỡn thân
Bảng 3.9
Kết quả phỏng vấn lựa chọn các test đánh giá hiệu quả
43
bài tập (n=25)
Bảng 3.10 Kết quả kiểm tra trước thực nghiệm của cả hai nhóm đối
45
chứng và thực nghiệm (nA = nB = 30).
Bảng 3.11 Tiến trình thực nghiệm (6 tuần)
46
Bảng 3.12 Kết quả kiểm tra sau thực nghiệm của cả hai nhóm đối
47
chứng và thực nghiệm (nA = nB = 30)
Biểu đồ 1 Thành tích nhảy xa có đà (m) của hai nhóm trước
48
và sau thực nghiệm
Biểu đồ 2 Thành tích bật xa tại chỗ (cm) của hai nhóm trước
và sau thực nghiệm
48
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đảng và nhà Nước ta luôn đặc biệt quan tâm chăm sóc sức khoẻ
nhân dân nhằm phát triển chất lượng nguồn nhân lực. Trong văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ 10 đã xác định: “Xây dựng chiến lược quốc
gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt Nam, tăng cường tuổi
thọ và cải thiện chất lượng giống nòi. Tăng cường thể lực của thanh niên
… phát triển mạnh thể thao quần chúng, thể thao nghiệp dư, trước hết là
trong thanh niên, thiếu niên. Làm tốt công tác giáo dục thể chất trong
trường học...” GDTC là một loại hình giáo dục nên nó là một quá trình
giáo dục có tổ chức, có kế hoạch để truyền thụ những tri thức, kỹ năng kỹ
xảo… từ thế hệ này cho thế hệ khác. Điều đó có nghĩa là GDTC cũng như
các loại hình giáo dục khác là quá trình sư phạm với đặc điểm của nó (vai
trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động phù hợp với học sinh).
Giáo dục thể chất là một hình thức giáo dục có nội dung đặc trưng là dạy
học động tác và giáo dục tố chất vận động của con người. Trong hệ thống
giáo dục, nội dung đặc trưng của GDTC được gắn liền với trí dục, đức
dục, mỹ dục.... Vì vậy việc dạy và học Thể dục trong trường phổ thông
góp phần giữ gìn sức khoẻ, phát triển thể lực, nâng cao thể chất đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Từ đó ta
thấy rằng sức khỏe là vốn quý của mỗi con người. Tuổi trẻ học đường lớn
lên trong môi trường giáo dục tốt được học tập và trưởng thành không thể
thiếu sức khỏe. Để tuổi trẻ học đường luôn được rèn luyện nhằm có một
thể chất cường tráng, dẻo dai, tinh thần sảng khoái, lạc quan hài hòa toàn
diện đáp ứng sự phát triển của xã hội hiện nay thì công tác giáo dục học
đường có ý nghĩa hết sức quan trọng.
2
Trong chương trình giáo dục trung học phổ thông có rất nhiều môn thể
thao đã được đưa vào giảng dạy như: Đá cầu, Cầu lông, Thể dục cơ bản…,
nhất là Điền kinh. Tập luyện điền kinh không đòi hỏi các sân bãi dụng cụ
phức tạp nên đã trở thành môn thể thao cơ bản được đưa vào giảng dạy trong
nhà trường với những nội dung như: Chạy, Nhảy cao, Nhảy xa… Từ khi chưa
có hướng đổi mới phương pháp dạy học, thì tất cả các môn học khác cũng
như bộ môn Thể dục thường dạy theo lối cũ, giờ học đơn điệu, tẻ nhạt, giáo
viên thiếu nhiệt tình, chưa năng động, dụng cụ tập luyện thiếu, học sinh vận
động quá ít, chưa tích cực năng động, chơi nhiều nên chưa đạt yêu cầu lượng
vận động cần thiết đối với lứa tuổi học sinh, thành tích thấp. Điều này đã ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển của cơ thể học sinh, chưa thúc đẩy sự phát triển
toàn diện ở các em, kết quả đạt được còn thấp, nó thể hiện rõ qua việc đánh
giá kết quả học tập ở cuối học kì, cuối năm học. Và đặc biệt là qua các kì Hội
khỏe Phù đổng, thành tích nhiều môn thể thao - điền kinh chưa cao. Vì vậy,
các bài tập bổ trợ chuyên môn là yếu tố quan trọng của quá trình hình thành
kỹ thuật động tác. Bài tập bổ trợ chuyên môn nhằm tác động có hiệu quả, có
chủ đích vào việc phát triển các tố chất thể lực (sức nhanh, sức mạnh, sức
bền, khéo léo và mềm dẻo cùng khả năng phối hợp vận động) và kỹ xảo động
tác của các môn thể thao . Trong kỹ thuật nhảy xa nói chung và kỹ thuật nhảy
xa kiểu “ưỡn thân” được giảng dạy ở cả 3 năm học. Một trong những yếu tố
ảnh hưởng trực tiếp đến thành tích nhảy xa kiểu “ưỡn thân” là việc nắm bắt
đúng kỹ thuật, để thực hiện được yêu cầu này các giáo viên đều sử dụng các
bài tập bổ trợ chuyên môn để củng cố và nâng cao kỹ thuật cho học sinh.
Những bài tập bổ trợ nhảy xa kiểu “ưỡn thân” có vai trò quan trọng, tác động
có chủ đích, hiệu quả vào các giai đoạn của kỹ thuật. Qua kiểm tra đánh giá
kết quả học tập nội dung nhảy xa kiểu “ưỡn thân” của học sinh chúng tôi nhận
3
thấy tỷ lệ % học sinh nắm bắt kỹ thuật còn kém, dẫn đến thành tích nhảy xa
chưa cao như mong muốn.
Một vấn đề xuất phát từ thực tế là làm thế nào để sửa chữa sai lầm
thường mắc giai đoạn chạy đà và giậm nhảy trong học kỹ thuật nhảy xa, góp
phần nâng cao chất lượng và hiệu quả quá trình giảng dạy là việc làm cần
thiết và có ý nghĩa thực tiễn trong quá trình giảng dạy.
Trong nhiều năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về
môn nhảy xa ở trong và ngoài nước. Qua quá trình nghiên cứu tài liệu chúng
tôi thấy có một số đề tài nghiên cứu về nhảy xa như: Nguyễn Thị Bắc (2008),
Lê Xô Việt (2010),…qua tìm hiểu chúng tôi thấy chưa có đề tài nào nghiên
cứu cho học sinh Nữ khối 11 trường THPT Lương Tài – Bắc Ninh.
Xuất phát từ thực tế trên, với mục đích là nâng cao hiệu quả kỹ thuật
nhảy xa kiểu ưỡn thân cho Nữ học sinh trường THPT Lương Tài - Bắc Ninh.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Ứng dụng bài tập sửa chữa sai lầm
thường mắc giai đoạn chạy đà và giậm nhảy trong kỹ thuật nhảy xa kiểu
ưỡn thân cho học sinh Nữ khối 11 trường THPT Lương Tài - Bắc Ninh
Mục đích nghiên cứu:
Đưa ra các bài tập phù hợp nhằm khắc phục những sai lầm thường mắc
giai đoạn chạy đà và giậm nhảy trong kĩ thuật nhảy xa kiểu ưỡn thân cho học
sinh nữ khối 11 trường THPT Lương Tài - Bắc Ninh.
Giả thuyết khoa học:
Nếu các bài tập mà chúng tôi áp dụng là đúng, thì sẽ nâng cao được
chất lượng và thành tích nhảy xa kiểu “ưỡn thân” cho các em học sinh Nữ
trường THPT Lương Tài- Bắc Ninh, góp phần nâng cao chất lượng của công
tác giáo dục thể chất, tăng thành tích trong học tập và thi đấu cho các em.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác GDTC trường học.
Công tác GDTC trong các trường học ở nước ta là bộ phận hữu cơ của
mục tiêu giáo dục đào tạo, là một mặt cơ bản của quá trình giáo dục toàn diện.
Chỉ thị 36 CT/TW còn khẳng định: “Mục tiêu cơ bản, lâu dài của công
tác TDTT là hình thành nền TDTT phát triển và tiến bộ, góp phần nâng cao
sức khoẻ, thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của nhân dân. Thực hiện
GDTC trong tất cả các trường học, nhằm mục tiêu làm cho việc tập luyện
TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết sinh viên”[1].
Để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sự nghiệp TDTT nước nhà,
Thủ tướng chính phủ đã ban hành chỉ thị 133/TTG về việc xây dựng quy
hoạch ngành TDTT, trong đó ghi rõ: “Ngành TDTT phải xây dựng định
hướng phát triển có tính chất chiến lược, trong đó quy định các môn thể thao
và các hình thức hoạt động mang tính phổ cập đối với mọi đối tượng, lứa tuổi,
tạo thành phong trào tập luyện rộng rãi của thể thao quần chúng, khoẻ để xây
dựng và bảo vệ tổ quốc”[2]. Bộ giáo dục và đào tạo cần đặc biệt coi trọng
việc GDTC trong nhà còn rất ít, đặc biệt là thanh niên chưa tích cực tham gia
tập luyện. Hiệu quả GDTC trong các trường học và trong các lực lượng vũ
trang còn thấp”. Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém là do: nhiều cấp uỷ
Đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và còn xem nhẹ vai trò TDTT
trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Chưa thực
sự coi TDTT là một bộ phận trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, an
ninh quốc phòng, Nhà nước chưa có chế độ phù hợp với yêu cầu phát triển
TDTT, đầu tư cho lĩnh vực này còn kém hiệu quả, chưa phát huy được vai trò
chủ động, sáng tạo của nhân dân, nhằm phát triển TDTT. Trước tình hình
mới, sự nghiệp TDTT cần phát triển theo định hướng đã nêu rõ: “TDTT là
5
một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng
và Nhà nước, nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Công tác
TDTT phải góp phần tích cực nâng cao sức khỏe thể lực, giáo dục nhân cách,
đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần của
nhân dân, nâng cao năng xuất lao động của xã hội và sức chiến đấu của các
lực lượng vũ trang” (trích chỉ thị 36 CT/TW, 30/5/2014 của Ban Bí Thư
Trung ương Đảng về công tác TDTT trong giai đoạn mới). Chỉ thị 36 CT/TW
còn khẳng định: “Mục tiêu cơ bản, lâu dài của công tác TDTT là hình thành
nền TDTT phát triển và tiến bộ, góp phần nâng cao sức khoẻ, thể lực, đáp ứng
nhu cầu văn hoá tinh thần của nhân dân. Thực hiện GDTC trong tất cả các
trường học, nhằm mục tiêu làm cho việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống
hàng ngày của hầu hết sinh viên” [3]. Để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển sự nghiệp TDTT nước nhà, Thủ tướng chính phủ đã ban hành chỉ thị
133/TTG về việc xây dựng quy hoạch ngành TDTT, trong đó ghi rõ: “Ngành
TDTT phải xây dựng định hướng phát triển có tính chất chiến lược, trong đó
quy định các môn thể thao và các hình thức hoạt động mang tính phổ cập đối
với mọi đối tượng, lứa tuổi, tạo thành phong trào tập luyện rộng rãi của thể
thao quần chúng, khoẻ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Bộ Giáo dục và Đào
tạo cần đặc biết coi trọng việc GDTC trong nhà trường, cải tiến nội dung
giảng dạy TDTT nội khoá, ngoại khoá, quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể
cho học sinh ở các cấp học, phải có sân bãi, nhà tập TDTT, có định biên hợp
lý và có kế hoạch tích cực đào tạo đội ngũ giáo viên TDTT, đáp ứng nhu cầu
ở tất cả các cấp học. Bộ giáo dục và đào tạo cần có một Thứ trưởng chuyên
trách chỉ đạo công tác TDTT trường học”. Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng
chính phủ, ngày 21/4/1997, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tổng cục
TDTT (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), đã ký văn bản thoả thuận đề
nghị Chính phủ phê duyệt kế hoạch phát triển đến năm 2010. Mục tiêu GDTC
trường học từ mẫu giáo đến đại học là góp phần đào tạo thế hệ trẻ phát triển
6
toàn diện về nhân cách, trí tuệ và thể chất phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước. Do điều kiện giảng dạy nội khoá chưa đáp ứng được
yêu cầu của GDTC, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Uỷ ban TDTT chỉ đạo các
trường học, khuyến khích và hướng dẫn học sinh tập luyện những môn thể
thao ưa thích tại trường, gia đình và các câu lạc bộ thể thao nơi cư trú. Cần
tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể thao cấp học, đặc biệt là Hội khoẻ Phù đổng,
phát triển mạnh các câu lạc bộ TDTT và các trung tâm thể thao sinh viên, làm
cơ sở tập luyện nâng cao thành tích một số môn thể thao trọng tâm và vấn đề
GDTC cho sinh viên trường học. Quán triệt sâu sắc nội dung các nghị quyết,
Chỉ thị của Đảng, Hiến Pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
văn bản pháp luật của Chính phủ về công tác TDTT trong tình hình mới, cũng
tiếp tục khẳng định cần phải khắc phục thực trạng giảm sút thể lực của sinh
viên hiện nay.
Với nội dung phối hợp giữa hai ngành, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ
đạo các cấp học giảng dạy thể dục ngoại khoá, theo chương trình kế hoạch có
nề nếp, đảm bảo việc thực hiện nghiêm túc các quy phạm đánh giá quá trình
dạy - học thể dục, quy chế GDTC sinh viên; nghiên cứu và điều chỉnh chương
trình thể dục các cấp, thực hiện kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho
sinh viên. Từng bước áp dụng thống nhất giữa các vùng, khu vực trên toàn
quốc. Điều chỉnh và ban hành tài liệu giảng dạy bao gồm sách giáo khoa, sách
hướng dẫn phương pháp giảng dạy, tập luyện TDTT cho từng cấp học. Bảo
đảm cơ sở vật chất tối thiểu để phục vụ việc thực hiện chương trình ngoại
khoá; phát động phong trào tập luyện rộng khắp trong các nhà trường, với
mục tiêu: “Mỗi sinh viên biết chơi một môn thể thao”. Chỉ đạo việc cải tiến
chương trình, hình thức hoạt động TDTT ngoại khoá, mở rộng mạng lưới câu
lạc bộ TDTT sinh viên. Tập trung hỗ trợ về cán bộ, cơ sở vật chất để củng cố,
thành lập câu lạc bộ TDTT mới, để thu hút nhiều sinh viên tham gia tập
luyện. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, đã ban hành quy chế 931/RLTC về
7
công tác GDTC trong nhà trường là: “Các trường từ mầm non đến đại học
phải đảm bảo thực hịên dạy môn thể dục theo quy định cho học sinh, sinh
viên”. GDTC bao gồm nhiều hình thức và có liên quan chặt chẽ với nhau. Giờ
học thể dục, tập luyện thể thao theo chương trình, giờ tự tập luyện của học
sinh, sinh viên, giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường. TDTT là phương
tiện quan trọng để giáo dục thể chất. Chương trình thể dục và các hình thức
GDTC khác được sắp xếp phù hợp với trình độ sức khoẻ, giới tính và lứa tuổi.
Hàng năm, sinh viên tự tập luyện thể thao ngoại khoá ở trường, ở nhà (ở ký
túc xá đối với các trường có học sinh nội trú). Nhà trường phải có kế hoạch
hướng dẫn học sinh, sinh viên tập luyện thường xuyên, tổ chức ngày hội thể
thao của trường và xây dựng thành nề nếp truyền thống. Kiểm tra tiêu chuẩn
rèn luyện thân thể theo lứa tuổi và chỉ tiêu phát triển thể lực cho học sinh,
sinh viên theo quy định của chương trình GDTC”.
1.2. Ý nghĩa và vị trí môn Điền kinh trong hệ thống GDTC
Tập luyện điền kinh một cách có hệ thống và khoa học từ lâu đã được
các nhà khoa học khẳng định là có tác dụng tốt trong việc tăng cường và củng
cố sức khỏe cho con người. Một người đi bộ hoặc tập chạy thường xuyên, tim
co bóp khỏe hơn, thành mạch máu co giãn tốt hơn, hô hấp sâu hơn người
không tập luyện một cách rõ rệt. Các bài tập điền kinh chẳng những có tác
dụng tốt đối với sức khỏe mà còn là cơ sở để phát triển thể lực toàn diện, tạo
điều kiên nâng cao thành tích các môn thể thao khác.
Sự đa dạng của các bài tập điền kinh và mức độ tác động của lượng vận
động, đặc biệt trong đi bộ, chạy, nhảy, ném đẩy, giúp cho người tập dễ dàng
điều chỉnh và lựa chọn hình thức tập luyện phù hợp với lứa tuổi, giới tính, đặc
điểm cá nhân,… Mặt khác, sự đơn giản về sân bãi, dụng cụ tập luyện là điều
kiện để môn điền kinh phổ cập trong quần chúng lao động.
Trong những năm qua, cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục các
bộ môn văn hoá, Ngành Giáo dục và Đào tạo đã tăng cường các giải pháp
8
giáo dục thể chất cho học sinh trong các trường phổ thông. Hai giải pháp quan
trọng nhất là xây dựng cơ sở vật chất phục vụ giáo dục thể chất và đội ngũ
giáo viên thể dục trong nhà trường. Tuy chưa thật đầy đủ, nhưng tất cả các
nhà trường phổ thông đều được trang bị dụng cụ tập luyện, có sân chơi, bãi
tập phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và tập luyện thể dục thể thao. Bên
cạnh việc thực hiện chương trình chính khoá, các hoạt động ngoại khoá, hoạt
động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho học sinh trong các nhà
trường được đẩy mạnh.
Điền kinh là một trong nhưng môn thể thao cơ bản của nước ta. Điền
kinh giữ vị trí chủ yếu trong chương trình GDTC ở trường học, trong chương
trình huấn luyện thể lực cho lực lượng vũ trang nhân dân và trong chương
trình thể thao cho mọi người. Liên đoàn Điền kinh Việt Nam (Tiền thân là
Hội điền kinh Việt Nam được thành lập năm 1962) là tổ chức chỉ đạo phong
trào điền kinh của cả nước. Liên đoàn Điền kinh Việt Nam cũng là thành viên
của liên đoàn Điền kinh Châu Á và Hiệp hội quốc tế các Liên đoàn Điền kinh
(IAAF).
Nhiệm vụ của điền kinh Việt Nam trong những năm trước mắt, đó là:
- Đẩy mạnh phong trào tập luyện của mọi tầng lớp nhân dân, củng cố
và tăng cường sức khỏe, phát triển thể lực, nâng cao hiệu quả sản xuất và sẵn
sàng bảo vệ tổ quốc.
- Đào tạo một cách có hệ thống lực lượng VĐV điền kinh, đặc biệt là
những VĐV xuất sắc trọng đội tuyển quốc gia, VĐV ở những môn điền kinh
trọng điểm, phấn đấu giành được thứ hạng cao trong các cuộc thi đấu Đông
Nam Á, Châu Âu và quốc tế.
- Hoàn thiện hệ thống cơ chế quản lý, điều hành chế độ chính sách,
kiểm tra thi đấu, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ và từng bước hiện đại hóa cơ sở
vật chất phục vụ cho tập luyện, thi đấu, nghiên cứu khoa học.
9
1.3. Nguyên lý kỹ thuật Nhảy xa, đặc điểm kỹ thuật giai đoạn chạy đà và
giậm nhảy của Nhảy xa
1.3.1. Nguyên lý kỹ thuật Nhảy xa
Nhảy xa là một hoạt động không có chu kỳ bao gồm nhiều động tác
liên quan với nhau một cách chặt chẽ từ chạy đà - giậm nhảy - trên không rơi xuống đất. Kỹ thuật nhảy xa “ưỡn thân” là kỹ thuật khó và phức tạp, phù
hợp với những người nhảy có trình độ tập luyện cao.
Trong quá trình giảng dạy và huấn luyện nhảy xa “ưỡn thân” được
chia làm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn chạy đà.
- Giai đoạn giậm nhảy.
- Giai đoạn trên không.
- Giai đoạn tiếp đất.
1.3.1.1. Chạy đà
Được tính từ lúc bắt đầu chạy đến khi chân giậm đặt vào ván giậm nhảy.
Bắt đầu chạy đà tốt cũng đóng vai trò quan trọng, vì vậy VĐV cần có tư thế
ban đầu và động tác ổn định. Có một vài cách bắt đầu chạy đà: đứng tại chỗ,
đi bộ vài bước, chạy bước đệm vài bước…
Chạy đà và giậm nhảy quyết định chủ yếu đến hiệu quả của lần nhảy
và kỹ thuật giậm nhảy đạt hiệu quả dựa trên cơ sở giải quyết tốt giai đoạn
chạy đà và khả năng phối hợp trong giai đoạn giậm nhảy. Nhiệm vụ của giai
đoạn chạy đà là tạo tốc độ nằm ngang lớn nhất, chuẩn bị tích cực cho giai
đoạn giậm nhảy.
Cự ly chạy đà phụ thuộc vào đặc điểm của người nhảy như khả năng
bắt tốc độ nhanh hay chậm khi chạy đà, trình độ kỹ thuật, thể lực,… Song
thông thường với nam khoảng 40 - 45m (20 - 24 bước chạy), nữ 30 - 35m (18
- 20 bước chạy). Để thực hiện chạy đà được ổn định, chính xác, hiệu quả cần
10
phải có tư thế chuẩn bị phù hợp, ổn định và đạt được tốc độ cao nhất ở giai
đoạn cuối trước lúc giậm nhảy.
Cơ cấu của chạy đà là gần giống như chạy giữa quãng của môn chạy
ngắn. Trong giai đoạn cuối cùng của chạy đà, vì phải chuẩn bị giậm nhảy nên
nhịp điệu và tần số bước có sự thay đổi là phải tăng ở mức thích hợp và đạt
cao ở bước cuối cùng trước khi giậm nhảy.
Để chuẩn bị tốt cho động tác giậm nhảy ở những bước cuối do tăng
cường ý thức giậm nhảy nên bước chạy tạo nên bởi chân giậm nhảy ngắn hơn
bước chạy tạo bởi chân đánh lăng từ 15 - 20cm (Thông thường độ dài bước
cuối nên ngắn hơn bước trước 15 - 20cm). Giữa tốc độ chạy đà và tốc độ giậm
nhảy có mối quan hệ khăng khít với nhau. Những bước cuối cùng càng nhanh
thì giậm càng nhanh. Nên nhớ tốc độ đà càng nhanh thì việc chuyển từ đà vào
giậm càng khó nên việc tăng tốc độ là tối ưu nhưng phải phù hợp với trình độ
kĩ thuật và khả năng vận động của từng người để phối hợp đạt hiệu quả.
1.3.1.2. Giậm nhảy
Tính từ khi đặt chân giậm nhảy vào ván đến khi chân giậm rời ván.
Phần lớn các VĐV đặt bàn chân xuống ván giậm bằng gót hoặc cả bàn chân.
Tại thời điểm đặt bàn chân trên ván giậm, VĐV phối hợp toàn thân làm động
tác rời ván giậm nhảy: duỗi thẳng các khớp của chân giậm, đồng thời gập gối
đưa nhanh đùi của chân lăng về trước - lên trên. Tay bên chân giậm vung về
trước - lên trên và dừng khi cánh tay song song với mặt đất. Tay bên chân
11
lăng gập ở khuỷu và đánh sang bên để nâng cao vai. Kết thúc giậm nhảy, cơ
thể rời đất ở tư thế bước bộ trên không.
Nhiệm vụ của giai đoạn này là làm thay đổi phương chuyển động của
trọng tâm cơ thể phù hợp với mục đích là tăng độ bay xa.
1.3.1.3. Trên không
Tính từ khi chân giậm rời ván đến khi một bộ phận cơ thể bắt đầu tiếp
xúc với mặt đất. Toàn bộ các động tác của VĐV trong lúc bay là nhằm giữ
thăng bằng và tạo điều kiện thuận lợi để rơi xuống hố cát có hiệu quả nhất.
Sau khi cơ thể rời đất và bay lên ở tư thế “bước bộ”, chân lăng phía
trước được hạ xuống dưới, về sau sát cùng với chân giậm. Lúc này hai chân
dường như ở phía sau, chân lăng duỗi thẳng hơn, còn chân giậm gấp ở khớp
gối. Đồng thời với việc chủ động đưa vùng hông về trước (so với tổng trọng
tâm cơ thể) người nhảy ưỡn căng vùng thắt lưng và ngực. Hai tay lúc này hơi
gập ở khuỷu và đưa sang ngang hoặc đưa sang ngang - ra sau - lên trên cũng
tạo điều kiện cho việc “ưỡn thân” tích cực. Do “ưỡn thân” mà các cơ ở mặt
trước thân được kéo dãn tạo điều kiện cho VĐV gập thân trên mạnh và dễ
dàng đưa chân về trước xa hơn khi rơi xuống cát. Khi rơi xuống, hai chân gấp
12
ở khớp gối và đưa nhanh lên trên về trước, còn hai tay đánh về trước, xuống
dưới và người nhảy ở tư thế chuẩn bị chạm cát.
1.3.1.4. Tiếp đất
Tính từ khi một bộ phận đầu tiên của cơ thể chạm đất đến khi chuyển
động của thân hoàn toàn dừng lại. Để đạt được độ xa của lần nhảy và đảm bảo
an toàn cho người nhảy, việc thực hiện đúng kỹ thuật rơi xuống cát có ý nghĩa
rất lớn. Vậy trong giai đoạn này người nhảy phải làm sao tận dụng hết đường
bay của trọng tâm cơ thể và cố gắng với chân xa về phía trước, mà không gây
chấn động cho cơ thể.
Để chuẩn bị cho việc rơi xuống cát, đầu tiên cần nâng đùi, đưa 2 đầu
gối lên sát ngực và gập thân trên nhiều về trước. Cẳng chân lúc này được hạ
xuống dưới, hai tay chuyển từ trên cao ra phía trước. Tiếp đó là duỗi chân,
nâng cẳng chân để gót chân chỉ thấp hơn mông một chút. Thân trên lúc này
không nên gập về trước quá nhiều vì sẽ gây khó khăn cho việc nâng chân lên
cao. Tay lúc này hơi gấp ở khuỷu và được hạ xuống theo hướng xuống dưới
và ra sau. Sau khi 2 gót chân chạm cát cần gập chân ở khớp gối để giảm chấn
động và tạo điều kiện chuyển trọng tâm cơ thể xuống dưới - ra trước vượt qua
điểm chạm cát của gót. Thân trên lúc này cũng cố gập về trước để giúp không
đổ người về sau làm ảnh hưởng đến thành tích.
1.3.2. Đặc điểm kỹ thuật giai đoạn chạy đà và giậm nhảy trong nhảy xa.
Các kết quả nghiên cứu khoa học TDTT nói chung và nhảy xa nói riêng
có ý nghĩa và tác dụng to lớn, kỹ thuật chủ yếu khi thực hiện nhảy xa là giai
đoạn giậm nhảy có hiệu quả khi đang chạy đà với tốc độ lớn.
Giậm nhảy được thực hiện trong thời gian ngắn. Giai đoạn giậm nhảy bắt
đầu khi đặt chân giậm vào ván giậm nhảy. Lúc này chân giậm nhảy hơi khụy
gối, sau đó dùng sức mạnh của chân và thân đạp mạnh lên ván giậm nhảy. Khi
giậm nhảy phải chủ động đạp mạnh duỗi thẳng chân phối hợp với đánh tay và
- Xem thêm -