Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật hình sự việt nam (luận văn thạc ...

Tài liệu Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

.DOC
70
1
112

Mô tả:

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI............................................................ 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội......................................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội..............................7 1.1.2. Đặc điểm của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội...........................10 1.1.3. Ý nghĩa của chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội................11 1.2. Phân biệt tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội với chuẩn bị phạm tội và phạm tội chƣa đạt......................................................................................... 13 1.3. Lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội..................................................................................... 14 1.3.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985........................................................................ 14 1.3.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985................................................. 15 1.3.3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay................................... 19 1.4. Pháp luật hình sự của một số nƣớc trên thế giới về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội................................................................................................ 19 1.4.1. Pháp luật hình sự Liên bang Nga về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội..................................................................................................................... 19 1.4.2. Pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội..................................................................................... 21 1.4.3. Pháp luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.................................................................................................... 21 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..................................................................................... 23 CHƢƠNG 2. TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015........................................... 24 2.1. Các điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.....................24 2.1.1. Điều kiện thuộc về ý chí chủ quan của người phạm tội..........................24 2.1.2. Điều kiện về thời điểm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.............28 2.2. Trách nhiệm hình sự đối với ngƣời tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội......................................................................................................................... 30 2.2.1. Trách nhiệm hình sự đối với người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đối với tội định phạm................................................................................... 30 2.2.2. Trách nhiệm hình sự đối với người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đối với tội phạm khác.................................................................................. 31 2.3. Các trƣờng hợp áp dụng tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự............................................................................ 33 2.3.1. Tội phạm đơn lẻ...................................................................................... 33 2.3.2. Đồng phạm............................................................................................. 34 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..................................................................................... 42 CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ............43 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.............................................................................................................. 43 3.1.1. Thực tiễn xét xử các Tội phạm đơn lẻ..................................................... 43 3.1.2. Thực tiễn xét xử các vụ án Đồng phạm................................................... 49 3.2. Một số Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.......................................................................... 54 3.2.1. Cơ sở của kiến nghị................................................................................ 54 3.2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện cụ thể......................................................... 55 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3..................................................................................... 62 KẾT LUẬN............................................................................................................ 63 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một trong những biểu hiện quan trọng của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam, thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước là: “Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết 1 vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra” . Đây là chế định có ý nghĩa xã hội rất lớn và là một trong những biện pháp ngăn ngừa tội phạm hữu hiệu. Theo đó, chế định này tạo ra cơ hội, khuyến khích những người sau khi có ý định phạm tội, đã thực hiện những hành vi chuẩn bị phạm tội hay đã bắt tay vào việc thực hiện hành vi phạm tội sớm dừng lại để được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước. Từ đó loại bỏ hoặc hạn chế những thiệt hại nguy hiểm có thể gây ra cho các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Đồng thời, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội còn là chế định có ý nghĩa quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Chế định này tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự của người phạm tội khi thuộc trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Với ý nghĩa quan trọng đó, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được pháp luật hình sự ghi nhận từ rất sớm. Trong pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được quy định tản mạn trong các văn bản pháp lý đơn hành, chưa được quy định một cách tập trung thống nhất. Đến Bộ luật hình sự năm 1985 - Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta thì chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội mới được các nhà làm luật ghi nhận chính thức thành một chế định riêng tại Điều 16. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02-HĐTPTANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 và Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, trong đó có hướng dẫn chế định này. Đến lần pháp điển hóa lần thứ hai Bộ luật hình sự năm 1999 thì chế định này được quy định tại Điều 19 và đến nay là Bộ luật hình sự năm 2015 tại Điều 16. Về cơ bản chế định này không có gì thay đổi giữa các Bộ luật hình sự. 1Điều 3 BLHS năm 2015. 2 Tuy nhiên, quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập nhất định. Tại Điều 16 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản”. Theo đó, việc không thực hiện tiếp hành vi phạm tội phải là “tự mình” và “không có gì ngăn cản”, từ hai dấu hiệu này chúng ta có thể gộp thành yếu tố “tự nguyện”. Từ đó có thể thấy, với cách quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì mới chỉ thể hiện được yếu tố “tự nguyện” không thể hiện được yếu tố “dứt khoát” trong khi về mặt lý luận thì tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải đảm bảo cả hai yếu tố “tự nguyện” và “dứt khoát”. Ngoài ra, Bộ luật hình sự năm 2015 mới chỉ quy định chính thức việc áp dụng tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đối với một loại người đồng phạm là người thực hành, mà vẫn chưa đề cập gì đến ba loại người đồng phạm còn lại (người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức), vấn đề này đã được hướng dẫn trong mục I Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Song, hiện nay Nghị quyết này đã hết hiệu lực pháp luật. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì vẫn còn tồn tại những quan điểm khác nhau giữa các cơ quan, người tiến hành tố tụng về trường hợp người phạm tội đã thực hiện hết tất cả những hành vi được cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm, nhưng họ đã tự nguyện có hành vi tích cực ngăn chặn hậu quả của tội phạm và hậu quả đó đã không xảy ra. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ luật học. 2. Kết quả khảo sát lịch sử nghiên cứu đề tài Qua khảo sát, tác giả nhận thấy hầu như có rất ít công trình khoa học nghiên cứu độc lập về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, đa phần chế định này được đề cập trong các công trình khoa học nghiên cứu về các giai đoạn thực hiện tội phạm. Liên quan đến chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải kể đến các công trình khoa học sau đây: 1) Về giáo trình, sách chuyên khảo: Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1995), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - phần chung, Nhà xuất bản. Công an Nhân dân Hà Nội; Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình Luật hình sự - phần chung, Nhà xuất bản. Đại học Quốc gia Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo 3 trình Luật hình sự Việt Nam - phần chung (in lần thứ 15), Nhà xuất bản. Công an Nhân dân Hà Nội; Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - phần chung (tái bản lần thứ nhất, có sửa đổi bổ sung), Nhà xuất bản. Hồng Đức; Lê Cảm (2002), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, tập IV, Nhà xuất bản. Công an Nhân dân; Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung), Nhà xuất bản. Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Thị Sơn (2013), Các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm và tổ chức tội phạm với việc hoàn thiện cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản. Tư pháp Hà Nội; Đinh Văn Quế (2017), Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015 - phần thứ nhất những quy định chung (Bình luận chuyên sâu), Nhà xuất bản. Thông tin và truyền thông. Liên quan đến chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì các giáo trình và sách chuyên khảo nêu trên chỉ đề cập đến chế định này trong chương về các giai đoạn thực hiện tội phạm chứ không được nghiên cứu thành chương độc lập. 2) Về các bài viết khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành Luật: Lê Thị Sơn, “Một số vấn đề về các giai đoạn thực hiện tội phạm”, Tạp chí Luật học, số 6/1995; Phạm Mạnh Hùng, “Về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/1995; Kim Dung, “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”, Tạp chí Kiểm sát, số 4/1999; Lê Cảm, “Chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm và mô hình lý luận của nó trong pháp luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2002; Trịnh Tiến Việt, “Về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cho người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Số 2/2006; Lê Văn Luật, “Bàn về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17 (tháng 9/2008); Dương Ngọc An, “Một số ý kiến về quy định tại Điều 19 Bộ luật hình sự năm 1999 về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”, Tạp chí Nghề luật, số 5/2009; Phí Thành Chung, “Trách nhiệm hình sự của đồng phạm trong các giai đoạn thực hiện tội phạm và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”, Tạp chí Luật học, số 1/2016; Lê Cảm, Vũ Trung và Nông Thị Quỳnh Như, “Các giai đoạn phạm tội và tiếp tục hoàn thiện điều khoản có liên quan trong pháp luật hình sự tương lai”, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2021. 3) Về luận văn Thạc sĩ: Nguyễn Tiến Dũng (1997), Các giai đoạn thực hiện tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Ánh Hồng (2003), Vai trò của các quy định phần chung Bộ luật 4 hình sự trong phòng ngừa tội phạm, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Bùi Đức Lợi (2005), Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội; Lê Thị Giang (2015), Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Nhìn chung, các công trình khoa học, bài viết trên đây được thực hiện trước khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực nên chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được các tác giả nghiên cứu theo cơ chế pháp lý của Bộ luật hình sự năm 1985, 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Và đến nay, có rất ít công trình khoa học nghiên cứu về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo cơ chế pháp lý của Bộ luật hình sự hiện hành. Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì cơ bản không có gì thay đổi so với quy định trước đây trong Bộ luật hình sự năm 1985 và 1999. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự hiện hành về chế định này thì chưa được cập nhật, phân tích và đánh giá. Chính vì vậy, trong luận văn này, tác giả sẽ tiếp tục kế thừa kết quả nghiên cứu trong các công trình khoa học kể trên về những vấn đề lý luận của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Ngoài ra, tác giả sẽ phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự hiện hành về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, từ đó, chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong pháp luật hình sự hiện hành về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về chế định này, đây là nội dung mà các công trình khoa học kể trên chưa nghiên cứu. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Tác giả thực hiện luận văn này nhằm đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đã đề ra thì luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong khoa học pháp lý Việt Nam. 5 - Phân tích để làm rõ luật thực định về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thông qua việc đánh giá các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. - Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Qua đó, phát hiện và chỉ ra những hạn chế, bất cập về chế định đang nghiên cứu. - Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và pháp luật về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; Phân tích thực tiễn áp dụng vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trên cơ sở các bản án của Tòa án có liên quan. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội tại Điều 16 Bộ luật hình sự năm 2015. - Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu các vụ án có liên quan đến chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội từ thực tiễn áp dụng năm 2015 – 2020. - Phạm vi về không gian: Khảo sát toàn bộ bản án của các Tòa án trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu trong luận văn. Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp lịch sử: Được sử dụng để tìm hiểu tiến trình hình thành và phát triển qua từng thời kỳ của quy định pháp luật hình sự về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. - Phương pháp phân tích và tổng hợp: Được sử dụng để tiến hành phân tích và tổng hợp một cách khái quát các nội dung cần nghiên cứu trong luận văn. Qua đó, phân 6 tích thành từng vấn đề để tìm hiểu cụ thể quy định của Bộ luật hình sự về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Đồng thời, tổng hợp từng vấn đề lý luận đã phân tích nhằm hệ thống hóa các vấn đề lý luận về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. - Phương pháp so sánh: Được sử dụng để làm rõ những điểm giống nhau và khác nhau trong quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội với các giai đoạn trước đó cũng như với pháp luật hình sự một số nước trên thế giới, từ đó rút ra những ưu điểm và hạn chế trong quy định của của Bộ luật hình sự hiện hành về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. - Phương pháp thống kê: Được sử dụng để thu thập các tình huống thực tế, quyết định và bản án liên quan đến chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nhằm đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, từ đó phát hiện những hạn chế, bất cập còn tồn tại và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế định này. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài này có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn áp dụng chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự. Đối với các nhà lập pháp, các cơ quan thực thi pháp luật thì những phát hiện của đề tài về những hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự hiện hành cũng như trong quá trình thực hiện và các kiến nghị nêu ra về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có thể được xem xét, góp phần hoàn thiện pháp luật về chế định này. Kết quả nghiên cứu đề tài cũng là một nguồn tài liệu tham khảo cho người đọc khi học tập, nghiên cứu hoặc đơn thuần là tìm hiểu về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung của luận văn gồm ba chương: CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI CHƢƠNG 2. TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 7 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội 1.1.1. Khái niệm về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội Trước BLHS năm 1985, khái niệm “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” 2 gọi là “tự nguyện đình chỉ” - Đây là cách gọi tắt chứ bản thân nó chưa phản ánh cái gì cả. Theo từ Điển Luật học khái niệm này được hiểu: “Là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng tuy không có gì ngăn cản. Đây là trường hợp tự nguyện chấm dứt hẳn hành vi phạm tội đã bắt đầu thực hiện mặc dù có khả năng thực tế để tiếp tục phạm tội. Chỉ có thể tự nguyện chấm dứt việc phạm tội trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt. Khi tội phạm đã hoàn thành thì không thể cho là trường hợp tự nguyện chấm dứt việc phạm tội. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định thực hiện. Nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố của một tội khác thì người đó phải chịu TNHS 3 về tội này”. Để thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ thì BLHS năm 1985 đã chính thức quy định khái niệm về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội tại Điều 16 và sau đó tiếp tục được ghi nhận trong BLHS năm 1999 tại Điều 19 và BLHS năm 2015 tại Điều 16 với nội dung như sau: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản”. Hiện nay, trong khoa học luật hình sự vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau xung quanh khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, cụ thể như sau:Theo các tác giả của trường Đại học Cảnh sát nhân dân cho rằng: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp người phạm tội tự nguyện ngừng hẳn việc thực hiện tội 4 phạm mà không có gì ngăn cản”. 2 Đinh Văn Quế (1999), Pháp luật thực tiễn và án lệ, Nhà xuất bản. Đà Nẵng, tr.19. 3 Viện Khoa học Pháp Lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, tr.553. 4 Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1995), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - phần chung, Nhà xuất bản. Công an Nhân dân Hà Nội, tr.191. 8 Còn theo các tác giả của trường Đại học Quốc gia Hà Nội thì: “…Đây là trường hợp chủ thể đã tự mình chủ động đình chỉ hành vi phạm tội, mặc dù không 5 có gì ngăn cản người đó thực hiện tội phạm đến cùng”. Quan điểm của tác giả Lê Cảm cho rằng: “Tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm là trường hợp mà trong đó mặc dù người phạm tội có đầy đủ điều kiện khách quan thực hiện được tội phạm đến cùng nhưng đã tự mình đình chỉ hành vi chuẩn bị 6 phạm tội hoặc hành vi cố ý để thực hiện tội phạm, tuy không có gì ngăn cản”. Một quan điểm khác cho rằng: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, thể hiện sự tự nguyện dứt khoát của một người không thực hiện ý định hoặc hành vi phạm tội của mình đến cùng 7 mặc dù họ có khả năng thực hiện và điều kiện khách quan không có gì ngăn cản”. Còn theo quan điểm của các tác giả Lê Cảm, Vũ Trung và Nông Thị Quỳnh Như thì cho rằng: “Tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm là khi người phạm tội mặc dù có đầy đủ điều kiện khách quan để thực hiện được tội phạm đến cùng, nhưng đã tự mình đình chỉ hành vi chuẩn bị phạm tội hoặc hành vi cố ý để thực hiện tội phạm tuy không có gì ngăn cản”. 8 Nhìn chung, khi nghiên cứu các quan điểm trên và cách quy định của BLHS hiện hành, tác giả nhận thấy tuy các quan điểm trên và cách quy định của BLHS có sự diễn đạt khác nhau về khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nhưng đều thống nhất về nội hàm của nó đó là các điều kiện khách quan và chủ quan của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là người phạm tội đã tự nguyện chấm dứt hành vi phạm tội theo ý chí chủ quan của họ mặc dù điều kiện khách quan không có gì ngăn cản. Về thời điểm được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, trong các quan điểm trên chúng ta có thể thấy quan điểm của các tác giả Lê Cảm, Vũ Trung và Nông Thị Quỳnh Như là quan điểm khác biệt nhất so với các quan điểm trên khi không sử dụng thuật ngữ “việc phạm tội” trong mệnh đề “tự ý nửa chừng chấm dứt 5 Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình Luật hình sự - phần chung, Nhà xuất bản. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.245. 6 Lê Cảm (2002), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, tập IV, Nhà xuất bản. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.122. 7 Trịnh Tiến Việt (2006), “Về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cho người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Số 2, tr.47. 8 Lê Cảm, Vũ Trung và Nông Thị Quỳnh Như (2021), “Các giai đoạn phạm tội và tiếp tục hoàn thiện điều khoản có liên quan trong pháp luật hình sự tương lai”, Tạp chí Kiểm sát, Số 1, tr.26. 9 việc phạm tội” mà thay bằng “tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm”. Bởi lẽ, các tác giả này cho rằng thuật ngữ “việc phạm tội” mới chỉ đề cập đến hành vi tự nguyện chấm dứt tội phạm của một loại người phạm tội là “người thực hành” khi người này “phạm tội” (vì động từ “phạm” và danh từ “tội” tạo thành cụm từ “thực hiện tội phạm”). Như vậy, động từ nói lên hành vi đó hoàn toàn khác với động từ biểu thị hành vi của ba loại người đồng phạm khác (người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức). Bởi vì, thực tế là họ không trực tiếp “phạm tội” (tức “thực hiện tội phạm” mà hành vi của ba loại người đồng phạm nếu chính xác là họ chỉ “tham gia vào” việc “phạm tội” (tức tham gia vào việc thực hiện tội phạm). 9 Người viết đồng ý với quan điểm của các tác giả trên. Bởi lẽ, việc sử dụng thuật ngữ “việc phạm tội” trong tên gọi Điều 16 BLHS hiện hành và cả trong nội dung được quy định tại điều luật đó thực chất là mới chỉ đề cập đến hành vi tự nguyện chấm dứt tội phạm và vấn đề TNHS của người thực hành mà chưa giải quyết vấn đề TNHS của cả ba loại người đồng phạm còn lại (người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức) khi họ tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm. Vì ba loại người đồng phạm đã nêu không phải là người trực tiếp thực hiện tội phạm mà hành vi của họ chỉ là tham gia vào việc thực hiện tội phạm, điều đó có nghĩa là họ không trực tiếp thực hiện tội phạm. Vì vậy, nên chăng ở đây cần bỏ từ „việc” đi và chỉ sử dụng thuật ngữ “tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm” thì mới đảm bảo được tốt ba tiêu chí về kỹ thuật lập pháp đó là hợp lý về mặt thực tiễn, sự chính xác về mặt khoa học và sự chặt chẽ về mặt cấu trúc. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 16 BLHS năm 2015 thì: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản”. Theo đó, việc không thực hiện tiếp hành vi phạm tội phải là “tự mình” và “không có gì ngăn cản”, từ hai dấu hiệu này chúng ta có thể gộp thành yếu tố “tự nguyện”. Từ đó có thể thấy, với cách quy định của BLHS hiện hành thì mới chỉ thể hiện được yếu tố “tự nguyện” không thể hiện được yếu tố “dứt khoát” trong khi về mặt lý luận thì tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải đảm bảo cả hai yếu tố “tự nguyện” và “dứt khoát”. Về vấn đề này, 10 chúng ta có thể tham khảo cách quy định của BLHS Liên bang Nga . Ngoài ra, theo quy định của BLHS hiện hành và hầu hết các quan điểm trên đều dùng cụm từ “tuy không có gì ngăn cản” để thể hiện ý chí tự nguyện không 9Lê Cảm, Vũ Trung và Nông Thị Quỳnh Như (2021), tlđd (8), tr.21. 10 Xem mục 1.4.1. 10 thực hiện tội phạm đến cùng của người phạm tội. Về vấn đề này có quan điểm cho rằng việc sử dụng cụm từ trên là không chính xác, không đúng với bản chất của chế định này. Vì đây là chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, việc xem xét chủ thể có thực sự tự ý hay không, chúng ta không chỉ căn cứ vào thực tế khách quan để đánh giá mà phải xem xét thực tế khách quan đó có được chủ thể nhận thức được hay không, trở ngại khách quan chỉ tác động đến quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng của một người khi họ nhận thức được điều đó. Vì vậy nên thay cụm từ 11 trên bằng cụm từ “mặc dù họ ý thức được khả năng thực hiện tội phạm đến cùng” . Tác giả đồng ý với quan điểm này, bởi vì việc dừng lại không thực hiện tội phạm đến cùng hoàn toàn xuất phát từ ý chí chủ quan của người phạm tội, để đưa ra được quyết định này người phạm tội phải dựa vào nhận thức và đánh giá của mình về thực tại khách quan có trở ngại hay không. Do đó, khi xác định người phạm tội có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội hay không thì phải xem xét họ có nhận thức rằng thực tại khách quan không có gì ngăn cản chứ không phải xác định xem thực tại khách quan không có gì ngăn cản việc tiếp tục thực hiện tội phạm. Từ những phân tích trên, tác giả nhận thấy tên gọi của chế định “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” cần được sửa thành “tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm” và đưa ra khái niệm về tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm như sau: “Tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm là trường hợp người phạm tội tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng một cách dứt khoát mặc dù họ nhận thức rõ khả năng thực hiện được tội phạm đến cùng”. 1.1.2. Đặc điểm của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, tuy nhiên từ nội hàm của khái niệm này, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có các đặc điểm sau đây: Thứ nhất, người phạm tội tự mình chấm dứt hành vi phạm tội đến cùng Sự chấm dứt tội phạm được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải do người thực hiện hành vi tự nguyện và dứt khoát chấm dứt không tiếp tục thực hiện tội phạm. Đây là đặc điểm quan trọng nhất để nhận biết người phạm tội đã tự mình, bằng ý chí của mình chấm dứt không thực hiện các hành vi khách quan cần thiết cho hậu quả xảy ra. Đặc điểm trên cũng khẳng định nguyên nhân dẫn đến việc 11 Bùi Đức Lợi (2005), Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.11. 11 chấm dứt hành vi phạm tội phải xuất phát từ sự tự nguyện và dứt khoát của người thực hiện hành vi phạm tội mà không phải bị tác động bởi các bên thứ ba hay chủ thể, nguyên nhân nào khác. Thứ hai, không bị ngăn cản thực hiện hành vi phạm tội Đặc điểm này phản ánh việc người phạm tội không thực hiện hành vi phạm tội của mình là do chính bản thân họ nhận thấy cần chấm dứt hành vi phạm tội và họ không mong muốn hậu quả xảy ra chứ không phải xuất phát từ những tác động bởi yếu tố khác như do người khác khuyên răn, ngăn cản hay do bị phát hiện kịp thời, do vật cản... Như vậy, để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đòi hỏi việc người phạm tội dừng lại không thực tiếp tội phạm phải hoàn toàn do động lực bên trong chứ không phải do trợ ngại khách quan chi phối. Nghĩa là, người phạm tội nhận thức rõ không có gì ngăn cản và vẫn có thể thực hiện tiếp được tội phạm nhưng người phạm tội lựa chọn dừng lại. Việc dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là sự thể hiện của việc từ bỏ hẳn ý định phạm tội chứ không phải là thủ đoạn để tiếp tục thực hiện tội phạm. Thứ ba, tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt Hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chỉ có thể phát sinh khi hậu quả pháp lý của tội phạm chưa xảy ra. Nếu hậu quả đã xảy ra thì việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì sẽ không còn ý nghĩa vì nó không làm thay đổi tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội đã thực hiện. Do vậy hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chỉ có thể xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt. Thứ tư, hậu quả pháp lý được áp dụng đối với tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm. Nhưng nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác thì người đó phải chịu TNHS về tội này. 1.1.3. Ý nghĩa của chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội Thứ nhất, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một trong những biểu hiện quan trọng của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt 12 Nam, thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước là: “Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại 12 gây ra” . Theo đó, chế định này cho phép một người có ý định phạm tội, đã có hành vi chuẩn bị hoặc bắt tay vào việc thực hiện tội phạm nhưng đã tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước. Thứ hai, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chính là biện pháp ngăn ngừa tội phạm hữu hiệu. Dưới góc độ phòng ngừa tội phạm, chế định này tạo ra cơ hội, khuyến khích, động viên những người sau khi có ý định phạm tội, đã thực hiện những hành vi chuẩn bị phạm tội hay đã bắt tay vào việc thực hiện tội phạm tỉnh ngộ, nhận ra sai lầm của mình, thực sự từ bỏ dứt khoát ý định phạm tội cũng như chấm dứt không thực hiện tội phạm đến cùng để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước bằng việc miễn TNHS cho họ. Trước đây, khi pháp luật hình sự chưa ghi nhận chế định này thì đa số người phạm tội đều mang tâm lý “đâm lao thì phải theo lao” hay “chân đã nhúng chàm”, nghĩa là đã thực hiện tội phạm là phải thực hiện đến cùng, không từ bỏ. Nhưng nay tâm lý này đã dần được xóa bỏ, bởi lẽ, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cho phép người phạm tội lựa chọn cách xử sự của mình đó là: “một là tiếp tục thực hiện tội phạm đến cùng thì có thể sẽ phải chịu TNHS và hai là tự mình chấm dứt việc phạm tội thì sẽ được hưởng lượng 13 khoan hồng, không phải chịu TNHS” . Và trong nhiều trường hợp một người có hành vi nguy hiểm cho xã hội đã lựa chọn cách xử sự thứ hai đó là tự mình chấm dứt việc phạm tội để được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước. Đồng thời, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội còn là chế định có ý nghĩa quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Chế định này tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc áp dụng miễn TNHS của người phạm tội khi thuộc trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Thứ ba, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là chế định có ý nghĩa xã hội rất lớn. Việc Nhà nước miễn TNHS cho trường hợp này nhằm khuyến khích những 12 13 Điều 3 BLHS năm 2015. Phạm Mạnh Hùng (1995), “Về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8, tr.23. 13 người đã thực hiện tội phạm mà biết tự mình dừng lại ở những thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hạn chế hoặc loại bỏ những thiệt hại nguy hiểm có thể gây ra cho các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. 1.2. Phân biệt tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội với chuẩn bị phạm tội và phạm tội chƣa đạt Xét về mặt khách quan, hành vi của người phạm tội trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt đều là tội phạm chưa hoàn thành và biểu hiện các mức độ thực hiện tội phạm khác nhau. Nhưng nếu xem xét riêng về lý do của việc chưa hoàn thành việc thực hiện tội phạm thì giữa tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội với chuẩn bị phạm tội và 14 phạm tội chưa đạt có sự khác nhau . Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt thì người phạm tội không tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nữa là do nguyên nhân khách quan tác động dẫn đến không thực hiện tội phạm đến cùng. Trong khi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là do ý muốn chủ quan của người phạm tội quyết định dừng việc thực hiện tội phạm. Theo đó, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đã hoàn toàn từ bỏ hẳn ý định phạm tội của mình, họ không còn xu hướng ý chí thực hiện tội phạm đến cùng như trường hợp chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt. Còn về mặt khách quan, hành vi đã thực hiện của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội ít tính nguy hiểm cho xã vì chưa thực hiện hết các hành vi được cho là cần thiết để gây ra hậu quả cho xã hội. Đây là căn cứ quan trọng để xem xét tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội khác hẳn với chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Xuất phát từ sự khác nhau đó BLHS Việt Nam có sự quy định về TNHS khác nhau đối với trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Theo đó, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm nếu hành vi phạm tội của họ không cấu thành tội 15 phạm khác . Còn người có hành vi chuẩn bị phạm tội phải chịu TNHS nếu chuẩn bị thực hiện các tội phạm được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 14 BLHS năm 16 2015. Đối với người phạm tội chưa đạt thì phải chịu TNHS về tội phạm chưa đạt . 14 Lê Thị Sơn (2013), Các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm và tổ chức tội phạm với việc hoàn thiện cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản. Tư pháp Hà Nội, tr.50. 15 Điều 16 BLHS năm 2015. 16 Điều 15 BLHS năm 2015. 14 1.3. Lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội 1.3.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một trong những chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước ta. Đây là chế định có ý nghĩa xã hội rất lớn và là một trong những biện pháp ngăn ngừa tội phạm hữu hiệu. Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội lần đầu tiên được quy định trong Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967. Điều 20 Pháp lệnh này quy định các trường hợp giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình phạt, theo đó tại khoản 1 quy định: “Có âm mưu phạm tội nhưng đã tự nguyện không thực hiện 17 tội phạm” . Theo Pháp lệnh này thì “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” được gọi là “tự nguyện không thực hiện âm mưu tội phạm”. Tại Bản tổng kết số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của TANDTC về thực tiễn xét xử về loại tội giết người đã hướng dẫn: “Trường hợp mặc dù đã rõ ràng can phạm có ý định giết người hoặc khi không xác định được rõ ràng ý thức của y, nhưng nếu được nửa chừng hành động, can phạm thấy nạn nhân đã bị thương tích, chủ động tự mình chấm dứt tấn công, tuy biết rằng còn có thể tiếp tục hành động, chỉ nên 18 định tội là cố ý gây thương tích, không nên định là tội giết người chưa đạt” . Theo Bản tổng kết này thì tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được ghi nhận cụ thể trong trường hợp can phạm đã tấn công, gây ra thương tích cho nạn nhân nhưng đã chủ động tự mình chấm dứt tấn công. Việc can phạm đã tự mình chấm dứt tấn công hoàn toàn do ý thức chủ quan của can phạm, tuy biết rằng còn có thể hành động tiếp. Động cơ thúc đẩy can phạm có quyết định chấm dứt việc phạm tội theo Bản tổng kết này đó là “thấy nạn nhân đã bị thương tích”, điều này có nghĩa là có thể can phạm thấy thương nạn nhân hoặc khi thấy nạn nhân bị thương nên đã sợ hãi, sợ bị pháp luật trừng trị...Từ đó có thể thấy, người có ý định giết người và đang thực hiện ý định đó nhưng đã chủ động tự mình chấm dứt hành động một cách dứt khoát dù biết vẫn có thể tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thì được miễn TNHS đối với tội giết người nhưng phải chịu TNHS về tội cố ý gây thương tích. 17 Khoản 1 Điều 20 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. 18 Tòa án nhân dân tối cao (1975), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự - tập 1, Tòa án nhân dân tối cao xuất bản, tr.27. 15 Ngoài ra, tại Bản báo cáo tổng kết thực tiễn vận dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong công tác xét xử về hình sự năm 1976 cũng có quy định: “Có trường hợp ngăn chặn hậu quả thiệt hại của một tội đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc tức là trường hợp tự nguyện nửa chừng chấm dứt tội phạm. Nhiều Tòa án đã giải quyết đúng đắn trường hợp này, không xử người có hành vi phạm tội mà họ đã đình chỉ 19 thực hiện mà chỉ xét TNHS của họ đối với hậu quả thực tế mà họ đã gây ra” . Theo đó, trong trường hợp người phạm tội đã bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, đã đe dọa gây ra hậu quả hoặc đã gây ra hậu quả nhưng đã ngăn chặn được hậu quả thiệt hại trước khi tội phạm kết thúc thì được coi là người đó tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đối với tội định phạm, do đó được miễn TNHS về tội định phạm mà chỉ xét TNHS của họ đối với hậu quả thực tế mà họ đã gây ra. Như vậy, trong pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành BLHS năm 1985, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được quy định tản mạn trong các văn bản pháp lý đơn hành, chưa được quy định một cách tập trung thống nhất. Mỗi văn bản pháp luật chỉ quy định cho từng trường hợp phạm tội riêng biệt mà chưa có quy định chung cho tất cả các loại tội dẫn đến gây khó khăn cho việc áp dụng trong thực tiễn. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật này cũng chưa nhất quán trong việc sử dụng thuật ngữ. Cụ thể, tại Điều 20 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 gọi là “tự nguyện”, tại Bản tổng kết số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của TANDTC về thực tiễn xét xử về loại tội giết người gọi là “tự mình chấm dứt” và tại Bản báo cáo tổng kết thực tiễn vận dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong công tác xét xử về hình sự năm 1976 thì gọi là “đình chỉ”. Điều này cho thấy, mỗi thuật ngữ trên mới chỉ thể hiện được một phần bản chất của chế định đang nghiên cứu. 1.3.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 Để đáp ứng công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong thực tiễn xét xử thì BLHS đầu tiên của nước ta – BLHS năm 1985 đã quy định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một chế định riêng tại Điều 16 “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm. Nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ 19 Báo cáo tổng kết thực tiễn vận dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong công tác xét xử về hình sự năm 1976 của Tòa án nhân dân tối cao. 16 yếu tố của một tội khác thì người đó phải chịu TNHS về tội này”. Sau đó, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1985, trong đó có hướng dẫn chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội tại mục IV: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm. Thí dụ: B đã chuẩn bị dao găm, bao tải để giết người và cướp của ở nhà ông A, B đến nhà ông A nhưng B nghỉ lại và thấy rằng ông A đã là người tốt đối với mình nên B quay về, không giết người, cướp của ở nhà ông A nữa. Điều kiện cơ bản để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là người phạm tội tự mình không thực hiện tội phạm nữa mặc dù không có gì ngăn cản. Do đó, nếu do điều kiện khách quan mà người phạm tội không thực hiện tội phạm nữa thì không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Thí dụ: trong trường hợp trên, nếu B quay về vì không cậy được cửa, vì có tiếng động trong nhà làm cho y sợ hãi, hoặc vì nhà ông A vẫn còn thức v.v… thì việc B quay về không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và B vẫn phải chịu TNHS theo Điều 15 BLHS về phạm tội chưa đạt. Trong thực tế, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có thể do nhiều nguyên nhân như: hối hận, lo sợ, sợ bị trừng trị, không muốn thực hiện tội phạm đối với người quen biết v.v… Dó đó, chúng ta không nên đòi hỏi người có hành vi nguy hiểm phải tỉnh ngộ, hối hận mà chỉ cần họ đã thực hiện sự tự nguyện và dứt khoát không thực hiện tội phạm nữa thì được coi là đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Trong trường hợp người phạm tội là người tổ chức tội phạm thì mặc dầu họ đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nhưng vẫn để mặc cho đồng bọn thực hiện tội phạm, thì người đó không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Thí dụ: người đã đề xuất ra việc trộm cắp, đã vạch ra kế họach đi ăn trộm, đã vẽ sơ đồ cho đồng bọn, mặc dầu người đó đã tự ý không tham gia trộm nữa mà cứ để mặc đồng bọn thực hiện trộm cắp. Trong trường hợp này, người tự ý không tham gia trộm nữa không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, nhưng hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành một tội phạm khác thì người tự ý nửa chừng 17 chấm dứt việc phạm tội vẫn phải chịu TNHS đối với các hành vi đã thực hiện. Thí dụ: một người đã mua lựu đạn để giết người, mặc dù họ tự ý chấm dứt việc giết người, vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi mua bán trái phép vũ khí quân dụng (Điều 95 BLHS). Trường hợp định tham ô nhưng mới giả mạo được giấy tờ mà tự ý chấm dứt việc phạm tội tham ô, thì phải chịu TNHS về tội giả mạo trong công tác (Điều 224 BLHS)… Cần lưu ý là đối với trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành thì không có tự ý chấm dứt nửa chừng việc phạm tội. Thí dụ: A định giết B, A đã chĩa súng vào B và bóp cò súng, nhưng đạn không nổ, sau đó, y tự ý thôi không thực hiện hành vi nào để giết B nữa. Trong trường hợp này thì A vẫn phạm tội giết 20 người chưa đạt chứ không được coi là tự ý chấm dứt nửa chừng việc phạm tội”. Tuy nhiên, Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 chỉ mới hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong trường hợp tội phạm đơn lẻ mà chưa có hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong trường hợp có đồng phạm. Song, tại Hội nghị khoa học thực tiễn do TANDTC tổ chức với sự tham gia của các đồng nghiệp – các cán bộ thực tiễn của một số cơ quan bảo vệ pháp luật (Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp) và các cán bộ khoa học của Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (Hà Nội, 30-31/12/1987) đã đưa ra đề nghị bổ sung vào BLHS năm 1985 các quy định về hành vi nửa chừng chấm dứt tội phạm của ba loại 21 người đồng phạm (người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức) . Và sau đó, trong Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã chính thức đưa ra những hướng dẫn có tính chất chỉ đạo về vấn đề này tại mục I: “1. Việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người xúi giục, người tổ chức, người giúp sức có đặc điểm khác với việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực hành tội phạm. Nếu người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, nghĩa là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, mặc dù không có gì ngăn cản, thì tội phạm không thể hoàn thành, hậu quả mà kẻ phạm tội mong muốn không xảy ra. Trong các vụ án có đồng phạm, nếu người xúi giục hoặc người tổ chức hay người giúp sức tuy tự ý nửa chừng từ bỏ ý định phạm tội, nhưng không 20 Mục IV Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự. 21 Lê Cảm (2002), “Chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm và mô hình lý luận của nó trong Pháp luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2, tr.8. 18 áp dụng những biện pháp cần thiết để ngăn chặn kẻ thực hành thực hiện tội phạm, thì tội phạm vẫn có thể được thực hiện, hậu quả của tội phạm vẫn có thể xảy ra. Do đó, để được miễn TNHS theo Điều 16 BLHS về tội định phạm, người xúi giục, người tổ chức, người giúp sức phải có những hành động tích cực nhằm ngăn chặn việc thực hiện tội phạm. Để được miễn TNHS theo Điều 16 BLHS, người xúi giục, người tổ chức phải thuyết phục, khuyên bảo, đe dọa để người thực hành không thực hiện tội phạm hoặc phải báo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, báo cho người sẽ là nạn nhân biết về tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện để cơ quan Nhà nước hoặc người sẽ là nạn nhân có biện pháp ngăn chặn tội phạm. Để được miễn TNHS theo Điều 16 BLHS, người giúp sức phải chấm dứt việc tạo những điều kiện tinh thần, vật chất cho việc thực hiện tội phạm (như không cung cấp phương tiện, công cụ phạm tội; không chỉ điểm, dẫn đường cho kẻ thực hành…). Nếu sự giúp sức của người giúp sức đang được những người đồng phạm khác sử dụng để thực hiện tội phạm, thì người giúp sức cũng phải có những hành động tích cực như đã nêu ở trên đối với người xúi giục, người tổ chức để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm. Người xúi giục, người tổ chức, người giúp sức được miễn TNHS theo Điều 16 BLHS trong trường hợp họ ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm, hậu quả của tội phạm không xảy ra. Nhưng nếu những việc họ đã làm không ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm, hậu quả của tội phạm vẫn xảy ra, thì họ có thể vẫn phải chịu TNHS. Họ chỉ có thể được miễn TNHS theo khoản 1 Điều 48 BLHS, nếu trước khi hành vi phạm tội bị phát giác mà họ đã tự thú, khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm. ………. 3. Người thực hành, người giúp sức tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm, nhưng có thể phải chịu TNHS về tội không tố giác tội phạm theo quy định tại Điều 247 BLHS, nếu họ không tố giác tội phạm do 22 người (hoặc những người) đồng phạm thực hiện không có sự trợ giúp của họ”. 22 Mục I Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan