1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------
NGUYỄN THỊ LỰC
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ VÀ VẬN
DỤNG TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ VÀ VẬN
DỤNG TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng Cộng
sản và Nhà nước Việt Nam xác định là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động của mình trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề cán bộ: Hồ Chí Minh rất
quan tâm đến công tác cán bộ; Người coi "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc"
và "Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém".
Kế thừa tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất
coi trọng công tác cán bộ, luôn quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong các cơ quan, tổ chức của mình; coi đó là lực lượng
then chốt bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thể hiện
rõ trong nhiều văn kiện, nghị quyết và chính sách của Đảng.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về
đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp
xếp lại đội ngũ cán bộ theo đúng chức năng, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh
giá chất lượng cán bộ, kịp thời thay thế những cán bộ yếu kém và thoái hóa, tăng
cường cán bộ cho cơ sở, có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối
với cán bộ xã, phường, thị trấn.
3
Trước đây người ta cho rằng, nhà lãnh đạo được sinh ra chứ không phải
được tạo ra hay nói cách khác ra đi bằng phẩm chất năng lực vốn có cùng với
thói quen và kinh nghiệm người ta có thể trở thành một lãnh đạo giỏi mà không
cần phải qua đào tạo, không cần phải có kiến thức. Tuy nhiên cùng với sự phát
triển của xã hội, khi quy mô của các tổ chức ngày càng lớn, tính chất của các tổ
chức ngày càng phức tạp, vai trò của tổ chức ngày càng tăng thì lực lượng cán bộ
lãnh đạo chỉ bằng phẩm chất và thói quen thôi là chưa đủ, người cán bộ cần phải
có cả kiến thức và kĩ năng của người cán bộ.
Và ở nước nào, vào thời điểm nào cũng vậy, sự thành bại của mọi sự nghiệp
hay sự tồn vong, thịnh suy của mọi quốc gia, chế độ đều phụ thuộc rất nhiều vào
đội ngũ cán bộ và đây là lực lượng tiên phong trong mọi công tác của Đảng và
Nhà nước.
Riêng với Việt Nam hiện nay, vấn đề cán bộ ngày càng có tầm quan trọng
đặc biệt có tính lí luận sâu sắc lại có yêu cầu thực tiễn, vừa có tính cơ bản lâu dài
và lại có đòi hỏi bức xúc của tình hình hiện tại.
Xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước, của đoàn thể nhân dân mạnh
về chất lượng, đủ về số lượng có thể hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng
trong giai đoạn mới là một vấn đề cấp bách hiện nay. Nhận thức rõ vị trí đặc biệt
quan trọng của công tác cán bộ từ các Nghị quyết đến các hoạt động thực tiễn
của mình, công tác cán bộ luôn được chú trọng.
Trong hơn 80 năm qua, kể từ khi Đảng ta ra đời, các thế hệ cán bộ, đảng
viên của Đảng đã luôn vững vàng trong đấu tranh cách mạng, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nêu cao phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư. Do đó, luôn được nhân dân ta tin tưởng, che chở, ủng hộ và noi
theo. Đến nay, các thế hệ cán bộ tiền bối trong giai đoạn cách mạng trước đang
4
chuyển giao dần trọng trách chothế hệ sau nối tiếp. Nhưng để hình thành nên
được một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực vừa biết kế thừa và phát
huy những truyền thống tốt đẹp vừa đủ bản lĩnh để lãnh đạo đất nước, xứng đáng
vai trò "làm người đầy tớ của nhân dân" trong giai đoạn đổi mới hiện nay, là cả
một quá trình lâu dài.
Trong suốt sự nghiệp cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh không
chỉ là một người cán bộ gương mẫu, tận tụy, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, mà những tư tưởng Người đã để lại cho dân tộc về người cán
bộ và công tác cán bộ là vô cùng quý giá. Do đó, học tập và làm theo tấm gương
đạo đức của Người để xây dựng một đội ngũ cán bộ mẫu mực, "vừa hồng vừa
chuyên", góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nhằm
kiến thiết và xây dựng đất nước.
Trước thực tế sự quan trọng của vị trí người cán bộ thì hiện nay trong công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước được sự chú trọng của Đảng và nhà nước
song một bộ phận đội ngũ cán bộ đang có chiều hướng đi xuống về nhân phẩm
và đạo đức. Trước thực trạng đó, trong quá trình tìm hiểu lí luận của tư tưởng Hồ
Chí Minh về cán bộ, chúng tôi đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu sự vận dụng lí
luận của Người trong vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ
hiện nay.
Vì những lí do trên tác giả đã lựa chọn đề tài : “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và vận dụng trong công tác xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp đại học.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ
cán bộ là đòi hỏi khách quan cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Để bảo đảm điều
5
đó trước hết phải lí luận về công tác cán bộ cùng với thực tiễn tình hình đất nước
và phải dựa trên cơ sở chính trị đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Vì thế trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về cán bộ và nghiên cứu vấn đề công tác xây dựng đạo đức cách
mạng cho cán bộ như:
- Tác phẩm "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" do các tác
giả Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), Nhà xuất bản (Nxb)
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Tác phẩm "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ" của tác
giả Bùi Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002.
- Tác phẩm “ Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ” và tác phẩm “ Hồ
Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài” của tác giả PGS.TS Đức
Vượng, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
- Bài nghiên cứu : “Đẩy mạnh công tác xây dựng đạo đức cách mạng cho
cán bộ hiện nay” của Sở Nội vụ, UBND Thành phố Đà Nẵng.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết của nhiều tác giả được đăng trên các tạp chí
như: “ Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân - Tư tưởng Hồ Chí Minh và công tác đào tạo
cán bộ bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lí trong giai đoạn hiện nay” (Tạp chí
Giáo dục số 244, Kì 2 8/2010), “ Huỳnh Thị Gấm – Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong công tác đánh giá cán bộ” (Tạp chí Cộng Sản số 779, 9/2007),
* Đánh giá chung: Các công trình, bài viết khoa học trên đề cập tới trình
bày tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ hoặc những tác phẩm liên quân đến vấn đề
xây dựng đạo đức cách mạnh cho người cán bộ hiện nay và đưa ra những giải
pháp cho việc nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ cán bộ mạnh về số lượng
6
và vững về chất lượng ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình
nào đi sâu gắn kết tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ với việc vận dụng tư tưởng
của Người trong công tác xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ, đảng
viên hiện nay.
3. Mục đích,nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Mục đích của đề tài là phân tích, làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ, về tầm quan trọng của cán bộ, về
tiêu chuẩn cán bộ, việc lựa chọn, huấn luyện và sử dụng cán bộ, chính sách đối với
cán bộ, đề xuất quan điểm, giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công
tác xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay.
* Đề tài có những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích, làm rõ nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về cán bộ.
- Làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ.
- Lý giải yêu cầu khách quan của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ trong công tác xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công
tác xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ; trong đó làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, việc lựa chọn, huấn luyện và sử dụng cán bộ, chính
sách đối với cán bộ; từ đó làm cơ sở luận giải cho việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong công tác xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ hiện nay. Bên cạnh
7
đó đề tài cũng nghiên cứu lý luận chung về cán bộ và tư tưởng cán bộ để làm cơ sở
cho việc tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, về xây dựng đạo
đức người cán bộ.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng mác-xít và các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê.
5. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Đề tài trình bày một cách tương đối có hệ thống nguồn gốc ra đời và quá
trình phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ; những nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ, về tiêu chuẩn cán bộ, về
lựa chọn, huấn luyện và sử dụng cán bộ, về chính sách đối với cán bộ. Thông
qua những phân tích đó, luận văn góp phần khẳng định cùng với lý luận MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ đóng vai trò nền tảng trong công tác xây
dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ hiện nay.
- Đề tài chỉ ra yêu cầu khách quan của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ trong công tác xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ.
- Đề tài đề xuất quan điểm và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
trong công tác xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Từ kết quả mà đề tài đạt được, có thể thấy một số ý nghĩa sau đây:
- Góp phần làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
8
- Góp phần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh công tác xây dựng đạo đức cách
mạng cho cán bộ đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
- Có thể sử dụng đêt tài làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy về
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ và đạo đức cán bộ.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài này, ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
được chia thành 2 chương, 6 tiết gồm:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong xây
dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay
9
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
1.1. Nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác cán bộ
1.1.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
1.2.1.1. Những giá trị truyền thống quê hương, gia đình, dân tộc Việt Nam
Hồ Chí Minh sinh ra trên mảnh đất “địa linh nhân kiệt”, giàu truyền thống
chống giặc ngoại xâm, đoàn kết cùng vượt qua mọi khó khăn thử thách...tất cả đã
trở thành cái nôi nuôi dưỡng tư tưởng của Người. Nghệ - Tĩnh mảnh đất miền
Trung nghèo khó bao đời song biết bao thế hệ con người nơi đây đã chịu biết bao
cực khổ vất vả đã sản sinh ra những anh hùng, những nhân tài cho đất nước.
Trải qua, lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã hình thành cho
Việt Nam các giá trị truyền thống dân tộc phong phú, vững bền. Đó là ý thức chủ
quyền quốc gia dân tộc, là ý chí tự lập, là tự cường, yêu nước, kiên cường, bất
khuất…tạo thành động lực mạnh mẽ của đất nước, là tinh thần tương thân, tương
ái, nhân nghĩa, cố kết cộng đồng dân tộc, thủy chung, khoan dung, độ lượng; là
thông minh, sáng tạo, quý trọng hiền tài, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để
làm phong phú văn hóa dân tộc…Trong nguồn giá trị tinh thần đó, chủ nghĩa yêu
nước là cốt lõi, là dòng chảy chính cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của tư tưởng
văn hóa truyền thống Việt Nam, xuyên suốt trường kì lịch sử và là động lực
mạnh mẽ cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc.
Nền tảng là những giá trị truyền thống của dân tộc kết hợp với các yếu tố
của gia đình, quê hương, đất nước và trước thực tiễn của quá trình đấu tranh giải
phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự cần thiết của công tác cán bộ trong
sứ mạnh giải phóng dân tộc lúc bấy giờ.
10
Người quan tâm đến công tác cán bộ ngay từ những tháng năm bôn ba ở tất
cả các nước trên thế giới, minh chứng là những thế hệ cán bộ đầu tiên được
người trực tiếp lựa chọn và đào tạo đã quay trở về lãnh đạo cách mạng, đưa
phong trào giải phóng dân tộc sang một con đường khác.
Sinh ra trên mảnh đất quê hương cách mạng, truyền thống yêu nước của gia
đình, những giá trị tinh thần lớn lao đó đã sớm hun đúc lòng yêu nước, tinh thần
đấu tranh kiên cường, ý chí vượt qua mọi khó khăn của người thanh niên
Nguyễn Tất Thành và ảnh hưởng rất lớn đến con đường đi của Người trong cả
cuộc đời làm cách mạng.
1.2.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Hồ Chí Minh trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước Người đã biết làm
giàu vốn văn hóa của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu tư tưởng văn hóa phương
Đông và phương Tây. Bên cạnh trau dồi những giá trị văn hóa của dân tộc Người
đã tiếp cận được với những nền văn minh tiến bộ ra đời từ rất sớm của nền văn
minh nhân loại. Trước sự cần thiết của công tác cán bộ cho đất nước, Hồ Chí
Minh tiếp nhận những tinh hoa của nhân loại,những tư tưởng của các bậc hiền tài
trên thế giới nhằm đào tạo những con người Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của
phong trào cách mạng thế giới.
Đó là, về tư tưởng và văn hóa phương Đông, Hồ Chí Minh đã tiếp thu
những mặt tích cực của Nho giáo về triết lí hành động, nhân nghĩa, ước vọng về
một xã hội bình trị, hòa mục, thế giới đại đồng, về một triết lí nhân sinh, tu thân,
tề gia; đề cao văn hóa trung hiếu “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Đây
là những chuẩn mực đạo đức đòi hỏi trong quá trình đào tạo cán bộ cần phải có.
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ,
cứu nạn, coi trọng tinh thần bình đẳng, chống phân biệt đẳng cấp, chăm lo điều
11
thiện, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân từ vật chất đến tinh thần...những giá
trị mà Người tiếp thu được đã tạo nên một nhân cách Hồ Chí Minh và tầm ảnh
hưởng đến công tác đào tạo cán bộ của mọi thời đại.
Về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, Người tìm thấy những điều kiện
thích hợp với nước ta đó là dân tộc độc lập, dân quyên tự do và dân sinh hạnh
phúc, từ đó vận dụng vào hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ. Đây là tôn chỉ mang
lại độc lập cho dân tộc, là mục tiêu mag Người đạt ra cho các thế hệ cán bộ, đó là
phải làm sao cho dân tộc được độc lập, nhân dân được ấm no hạnh phúc.
Về tư tưởng và văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tiếp thu
văn hóa dân chủ và cách mạng của cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ…ở những
cuộc cách mạng này Người tìm thấy những kinh nghiệm trong phong trào giải
phóng dân tộc của các nước thực dân, để thấy được sự đấu tranh vì hòa bình thế
giới của nhân dân các nước phương Tây, để từ đó tìm ra con đường đấu tranh
phù hợp với thực tiễn Việt Nam nhằm đào tạo những thế hệ cán bộ đáp ứng nhu
cầu của thời đại.
1.2.1.3. Tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác cán bộ
Có thể nói chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã học hỏi ở đó những tư tưởng tiến bộ,
khoa học để bổ sung, làm hoàn thiện hơn tư tưởng của mình, trong đó có tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ.
Cán bộ là một vấn đề rất quan trọng, đã được các nhà tư tưởng trên thế giới
bàn đến. C.Mác, P.Ănghen, V.I.Lênin đã xem xét một cách có phê phán những
hình thức, nội dung, phương pháp để đào tạo những người cán bộ để xây dựng
chủ nghĩa xã hội, góp phần vào công cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân trên
thế giới đi đến thành công.
12
Trên cuộc hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã gặp chủ nghĩa
Mác - Lênin và coi đây là “cẩm nang thần kì”, là kim chỉ nam để giải phóng dân
tộc, giải phóng con người. Người nói “bây giờ học thuyết nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin”[19- tr 268].
Người đã vận dụng, tiếp thu một cách sáng tạo những kinh nghiệm trong công
tác đào tạo cán bộ của chủ nghĩa Mác - Lênin để bổ sung vào hệ thống công tác
đào tạo cán bộ của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin không phải học thuộc từng câu, từng chữ mà phải nắm được thực
chất của học thuyết cách mạng ấy”, Người còn nói “hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin
là phải sống với nhau có tình nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau
không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu”[27- tr554].
Đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi, linh
hồn sống của nó, là phương pháp biện chững duy vật, học tập lập trường, quan
điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết các vấn
đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
1.2.1.4. Trí tuệ thiên tài, nhân cách, phẩm chất Hồ Chí Minh và hoạt động
thực tiễn của Người
Ngoài nguồn gốc tư tưởng, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh còn chịu sự tác động sắc của thực tiễn dân tộc và thời đại mà Người đã
sống và hoạt động. Chính quá trình hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh ở trong
nước và khi còn bôn ba khắp thế giới đã tạo nên một nhân cách Hồ Chí Minh.
Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là một nước thuộc địa nữa phong
kiến, cuộc sống nhân dân vô cùng đau khổ, nhân dân ta kiên tiếp đứng dậy đấu
tranh nhưng thất bại, do chức có con đường đấu tranh đúng đắn, chưa có những
13
nhân tài có khả năng lãnh đạo cách mạng. Người đã tìm ra được con đường đúng
đắn và chú trọng công tác đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh có một phẩm chất hết sức cao quý của một bấc đại nhân, đại
trí, đại dũng; với vốn hiểu biết sâu rộng, bản lĩnh kiên cường, có hoài bão, có
tấm lòng vị tha, là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, kinh nghiệm dồi dào...những
giá trị này đã tạo nên một hệ thống tư tưởng về công tác đào tạo cán bộ được đầy
đủ và bài bản như ngày hôm nay chúng ta đang nghiên cứu.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hòa và phát triển
biện chứng văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng văn hóa của
phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cùng với
thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh một con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân cách,
phẩm chất sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân cách, phẩm chất cách
mạng cao đẹp tạo nên.
1.1.2. Quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
cán bộ
1.2.2.1. Thời kỳ tìm tòi, khảo nghiệm trước Cách mạng Tháng Tám năm
1945
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn ôm ấp một sự
nghiệp lớn lao, sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc,
mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Ngày 5 - 6 - 1911, tại bến cảng nhà Rồng, người anh hùng trẻ tuổi Nguyễn
Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Bôn ba trên những con tàu cho đến năm
1920, Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin với Người đây như là nguồn sáng
trong cuộc đời cách mạng cho cả dân tộc. Từ đây, Người đưa Việt Nam đi theo
14
con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người hy vọng một
ngày nào đó sẽ trở về Tổ quốc đặt cây tháp tự cáo chung lên nền móng thống trị
của chủ nghĩa đế quốc ở Việt Nam.
Muốn làm được điều đó, phải có nhân dân, có con người, có cán bộ. “Cán
bộ là cái gốc của mọi công việc”[31- tr26]. Vì vậy, ngay từ năm 1917, khi đến
Pari, Người đã chú ý đến vấn đề đào tạo cán bộ. Người tuyên truyền giác ngộ
cho bà con Việt Nam ở nước ngoài tư tưởng yêu nước. Người hướng cho họ trở
về với Tổ quốc cùng nhân dân trong nước đấu tranh dành độc lập, tự do, Người
nhấn mạnh: “ Cần luôn luôn nhớ làm nhiệm vụ của người dân mất nước. Anh em
nên yêu thương nhau, vui vẻ, đoàn kết với nhau. Đoàn kết với công nhân Pháp,
nhân dân Pháp và các nước thuộc địa” [17].
Từ cuối 1924 đến đầu năm 1927, Nguyễn Ái Quốc từ hoạt động tại Quảng
Châu, Trung Quốc, tại đây Người đã mở lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ trẻ
tuổi ở Việt Nam, đào tạo họ trở thành những người nòng cốt trong tổ chức tiền
thân của Đảng do Người lập ra: Việt Nam cách mạng thanh niên đồng chí Hội.
Được sự quan tâm và trực tiếp đào tạo của Nguyễn Ái Quốc, những lớp cán
bộ đầu tiên đã hăng hái trở về nước, lăn lộn trong phong trào yêu nước, phong
trào cách mạng, gây dựng cơ sở, từng bước đưa cách mạng Việt Nam đi lên.
Nhiều người đã trở thành những cán bộ giỏi và có nhiều cống hiến.
Đến giữa năm 1927, Người gửi nhiều cán bộ trẻ tuổi Việt Nam sang học tại
trường Đại học Phương Đông Mátxcơva, sau khi được đào tạo những người này
cũng trở về nước và trở thành lực lượng nồng cốt trong phong trào cách mạng.
Trong số 5 đại biểu chính thức dự hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì có 3 đại biểu do Người trực tiếp hoặc
dán tiếp huấn luyện là Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Thiệu.
15
Càng về sau Người Càng quân tâm nhiều hơn nữa về việc đào tạo cán bộ cho
cách mạng Việt Nam.
Ngày 16-1-1935, Người đã gửi một bức thư dài tới Bộ phương Đông thuộc
Quốc tế cộng sản với những phân tích bày tỏ sự quan trọng của đội ngũ cán bộ
trong khi ở Việt Nam rất thiếu, Người khẩn thiết yêu cầu tích cực đào tạo cán bộ
nhiều hơn nữa cho cánh mạng Việt Nam và tha thiết đề nghị Quốc tế Cộng sản
cần tạo điều kiện cho các đồng chí còn non kém về chính trị được bồi dưỡng
thêm lí luận, tiếp thu những kiến thức sơ đẳng nhất về chính trị và đặc biệt là về
phương pháp công tác.
Tháng 2-1941, Nguyễn Ái Quốc về đến Cao Bằng và tổ chức các lớp huấn
luyện cho cán bộ ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Mục đích của lớp đào tạo này
là nhằn chuẩn bị cho việc khởi nghĩa giành chính quyền. Lớp học viên này gồm
40 học viên, học tại hai làng Nậm Quang và Ngằm Tảy thuộc hương Bình Vân,
huyện Tỉnh Tây, Trung Quốc.
Cũng trong thời gian này Người tiếp tục mở lớp huấn luyện chính trị cho
cán bộ các tỉnh miền núi phía Bắc và cán bộ các tỉnh miền xuôi lên.
Trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam tại Túc Vinh,
Quảng Tây, Trung Quốc, Người viết cuốn Nhật kí trong tù, trong đó có nhiều bài
mang tính khuyên bảo cán bộ hãy giữ vững ý chí để mưu cầu đại sự:
“ Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân
Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần”
(Hồ Chí Minh - Giải phóng Tổ quốc)
Ngày 10-9-1943, Hồ Chí Minh được trả tự do.
16
Sau khi được trả tự do, Người tiếp tục sự nghiệp đào tạo cán bộ của mình
bằng những hoạt động như nói chuyện tại các lớp đào tạo cán bộ, Người kêu gọi
cán bộ cố gắng học tập, rèn luyện, phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng.
Tháng 12 -1944, Hồ Chí Minh gửi một bức thư cho Võ Nguyên Giáp. Đó là
“Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”. Thực hiện chỉ
thị của Người, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
được thành lập gồm 34 người, trong đó có một người do trực tiếp Hồ Chí Minh
huấn luyện trước đó.
1.2.2.2. Thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh càng chú trọng
nhiều hơn tới công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ. Người chỉ thị cho mở trường
huấn luyện cán bộ Việt Nam. Trong các buổi nói chuyện ở các trường cán bộ
Người căn dặn cán bộ “phải làm cho dân mến, khi sắp tới dân mong, khi đi dân
tiếc, chớ vác mặt làm quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng
hộ”[21- tr58].
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngoài việc lãnh đạo chiến tranh cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới công tác đào tạo cán bộ. Người đề
nghị thành lập trường Đảng để huấn luyện cán bộ. Trường Nguyễn Ái Quốc
Trung ương ra đời trong hoàn cảnh đó, trong dịp đến thăm trường Người ghi lại:
“Học để làm việc, làm người, làm cán bộ,
Học để phụng sự Đoàn thể,
“Giai cấp và nhân dân
Tổ quốc và nhân loại”
Muốn đạt mục đích, thì phải
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”.[21- tr287]
17
Trong kháng chiến mặc dù công việc bộn bề, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn
yêu cầu các lớp, các trường huấn luyện cán bộ trong và ngoài quân đội phải
thường xuyên báo cáo với Người và tình hình học tập của các anh chị em.
Hòa bình lập lại trên Bắc, Hồ Chí Minh nhắc nhở các lãnh đạo ngành giáo
dục cần xúc tiến thành lập các trường đại học. Ngày 19-1-1955, Người đến dự lễ
khai giảng trường đại học nhân dân Việt Nam, căn dặn nhà trường chăm lo đào
tạo cán bộ cho các ngành, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Ngoài ra, Người còn trực tiếp
gửi nhiều cán bộ có năng lực và phẩm chất đi học ở nước ngoài để về xây dựng
Tooe quốc.
Trong những năm hòa bình, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến vấn đề rèn
luyện đạo đức cho cán bộ. Ngày 3-3-1955, báo “Nhân dân” đăng bài quan trọng
của Người: “Người cán bộ cách mạng”, chỉ ra tiêu chuẩn hàng đầu của người cán
bộ chân chính là phải giữ đạo đức cách mạng:
“ Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường.
Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”[23- tr169]
Người chỉ rõ có một số cán bộ ta “lầm tưởng hòa bình là thái bình, thờ ơ với
đạo đức cách mạng và mắc nhiều khuyết điểm sai lầm”[24- tr171], như sợ gian
khổ, muốn công tác ở thành thị, ngại việc khó, lười học tập, tự tư tự lợi, tham ô,
hủ hóa, quan kiêu, ghen tị địa vị, không tin vào nhân dân...Để sử chữa, Người
yêu cầu cán bộ phải học tập thái độ, trau dồi đạo đức, điều gì phải cố gắng làm,
điều gì trái kiên quyết tránh.
Tháng 7-1955, Hồ Chí Minh đến nói chuyện với cán bộ, học viện phân hiệu
2 trường Nguyễn Ái Quốc. Người nêu vấn đề: “ Đã gọi là cán bộ cách mạng dứt
khoát phải theo chủ nghĩa Mác – Lênin, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
18
Học tập nhằm nâng cao trình độ, nâng cao nhận thức, phục vụ giai cấp, phục vụ
dân tộc. Đảng không phải là nơi để thăng quan, tiến chức, để phát tài. Vào Đảng
là để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, đảng viên phải trở thành người con
hiến thảo của Tổ quốc của giai cấp.
Đảng phải rất mạnh, rất trong sạch”[24- tr293].
Trong bức thư gửi cán bộ làm công tác thanh niên và thiếu nhi, Người đã
chỉ ra nhiệm vụ của đại học là cần kết hợp lí luận khoa học với thực hành, học
tập lí luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của Việt
Nam để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Ngành trung học
cần phải trang bị những kiến thức chắc chắn, thiết thực với thực tế. Đối với bậc
tiểu học cần giáo dục các cháu “yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu
khoa học, trọng của công”.[24- tr34]. Ngoài ra Người còn yêu cầu ra sức đào tạo
cán bộ công nghiệp và nông nghiệp, những cán bộ quản lí kinh tế...và Người yêu
cầu phải thật sự cần, kiện, liêm, chính phải thật sự chống bệnh quan liêu, tham ô,
lãng phí trong đội ngũ cán bộ các bậc, các cấp.
Trong một buổi nói chuyện ở Liên Xô nhân chuyến thăm các học viên là
sinh viên, cán bộ Việt nam theo học tại đây Người nhấn mạnh: “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, tức là phải có những người có đạo đức xã hội chủ nghĩa”.[26tr186]
Hồ Chí Minh suy nghĩ nhiều về đội ngũ cán bộ trong tương lai của đất
nước. Nhiều lần Người trao đổi với các đồng chí trong Bộ chính trị về vấn đề
tiếp tục đào tạo, giáo dục đội ngũ đảng viên một cách cơ bản. Ý định này của
Người đã được thực hiện bằng việc mở lớp huấn luyện mới cho cán bộ, đảng
viên, lấy Hà Nội làm thí điểm và tại lớp học này Người trực tiếp giảng dạy. Qua
kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, Người thấy rằng, những cán bộ tinh thông lí
19
luận, nắm chắc thời cuộc, biết vận dụng lí luận vào thực tiễn, là những cán bộ
trong công tác ít mắc sai lầm nhất.
Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần
kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ trung thành của nhân dân”
Trong suốt quá trình tìm tòi và phát triển tư tưởng về đào tạo cán bộ Hồ Chí
Minh đã để lại một hệ thống lí luận vô giá đáp ứng công tác đào tạo cán bộ ở
Việt Nam, tư tưởng của Người luôn là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình dựng
nước, giữ nước và xây dựng đất nước. Và ở thời kì nào công tác cán bộ luôn
được xem là vấn đề cốt lõi và quan trọng nhất trong công tác của Đảng và Nhà
nước ta.
1.2. Cán bộ và vai trò của cán bộ
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán
bộ
1.2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến vai trò của người cán bộ, Người khẳng định: “Cán bộ là cái gốc
của mọi côngviệc”, “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể”, “Cán bộ quyết định mọi
việc”, “muôn việcthành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Theo
Người: “Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi
hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện
được”.
Đối với cơ quan tổ chức, cán bộ là thành viên, là phần tử cấu thành tổ chức,
bộ máy. Hiệu quả hoạt động của tổ chức, bộ máy Đảng, Nhà nước, các Đoàn thể
20
quần chúng phụ thuộc vào cán bộ. Người viết: “Cán bộ là dây chuyền của bộ
máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ
máy cũng tê liệt”.
Ý thức được vai trò to lớn đó của người cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng
nên từ những ngày đầu hoạt động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng đến công
tác huấn luyện và xây dựng đội ngũ này. Người không chỉ mở nhiều lớp huấn
luyện, mà còn viết nhiều sách báo tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ. Hai tác
phẩm tiêu biểu là “Đườngcách mệnh” gồm những bài dạy của Người cho các
lớp huấn luyện đào tạo cán bộ ở Quảng Châu (Trung Quốc) được Bộ tuyên
truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị ápbức Á Đông xuất bản. Qua đó đã đào
tạo được đội ngũ cán bộ tiền bối của Đảng ta. Kế tiếp, tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc” viết vào năm 1947, với những nội dung thiết thực, đào luyện nên đội ngũ
cán bộ kiên trung, góp phần to lớn vào thắng lợi của hai cuộckháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội… là những minh chứng rõ nét cho sự quan tâm và chú trọng của Người
đối với đội ngũ cán bộ ở nước ta.Ngoài ra, đánh giá cao vai trò vị trí người cán
bộ, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đồng thời rất coi trọng đến việc chăm lo bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước. Vì vậy,ngay sau khi đất nước được độc lập, Người
đã ra lời kêu gọi các nhân tài góp tài trí củamình vào công cuộc xây dựng đất
nước: “Kiến quốc cần có nhân tài, nhân tài nước ta dùchưa có nhiều lắm, nhưng
chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhântài càng phát triển,
càng thêm nhiều” . Người kêu gọi đồng bào ai có tài năng và sángkiến về những
việc
“Kiến thiết ngoại giao”,
Kiến thiết kinh tế,
- Xem thêm -