Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Truyện ngắn bảo ninh nhìn từ thi pháp thể loại...

Tài liệu Truyện ngắn bảo ninh nhìn từ thi pháp thể loại

.PDF
104
27
95

Mô tả:

1 Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài. 1.1. Cuộc chiến tranh chống Mỹ là một trong những đề tài quan trọng nhất của văn học cách mạng Việt Nam. Mỗi thể loại, mỗi nhà văn nhận thức và thể hiện đề tài này theo những cách riêng. Như mọi người đều biết, sau 1975, hiện thực đất nước ta bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, từ đời sống bất bình thường của “ngày có giặc” (chữ dùng của Hữu Thỉnh) chuyển sang đời sống bình thường. Có những chuyện hôm qua văn học chưa kịp nói đến, chưa được đề cập, còn phải nhìn một cách phiến diện thì nay có điều kiện đề cập, để nhìn lại… Những điều này đòi hỏi văn xuôi phải chuyển kịp với thời đại, phù hợp với hiện thực mới. Đặc biệt với tinh thần đổi mới của đại hội Đảng toàn quốc 1986, văn nghệ sĩ đã có nguồn cổ vũ to lớn cho những sáng tạo, cách tân cả về nội dung và hình thức. 1.2. Trong số những cây bút viết về chiến tranh thời kì hậu chiến, Bảo Ninh có thể coi là một cây bút tiêu biểu. Nhưng nếu tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh lâu nay đã được khẳng định trong đời sống văn học thì truyện ngắn Bảo Ninh vẫn chưa được quan tâm đúng với giá trị nghệ thuật đích thực của nó. 1.3. Truyện ngắn luôn là thể loại “xung kích” trong mọi thời đại văn học. Sự vận động và cách tân thi pháp thể loại của nó nhiều khi phản ánh xu thế đổi mới của cả một nền văn học. Ở Việt Nam, chúng ta đang gặp thực trạng ấy. Hơn ba mươi năm đã trôi qua, quá trình đổi mới văn học đã gặt hái được những thành tựu nổi bật mà truyện ngắn là một trong những thể loại đi đầu Để hiểu được những đổi thay to lớn về mặt bút pháp thể loại, việc nghiên cứu tác phẩm của một tác giả văn xuôi tiêu biểu dưới cái nhìn thi pháp là việc làm cần thiết, từ đó ta không chỉ 2 thấy được thành tựu của một tác giả mà còn nhận thấy rõ hơn thành tựu của văn chương Việt Nam đương đại. Giải mã truyện ngắn Bảo Ninh từ góc độ thi pháp thể loại sẽ phần nào cho chúng ta thấy những thành tựu to lớn về những sáng tạo, đổi mới ở bút pháp của Bảo Ninh, góp phần khẳng định giá trị truyện ngắn của ông, cũng như vai trò của Bảo Ninh trong những đổi mới của văn xuôi Việt Nam đương đại. Đó là lý do khiến chúng tôi lựa chọn đề tài : Truyện ngắn Bảo Ninh nhìn từ thi pháp thể loại. 2. Lịch sử vấn đề Bảo Ninh là một trong số những nhà văn viết về đề tài chiến tranh có đóng góp trong cách nhìn về đề tài chiến tranh trong văn học hậu chiến. Đề tài chiến tranh được Bảo Ninh thể hiện trong hai thể loại: truyện ngắn và tiểu thuyết. Nghiên cứu về các sáng tác của Bảo Ninh đang thu hút sự quan tâm của người cầm bút với những đặc trưng về thể loại và nội dung phản ánh. Trong Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Bùi Việt Thắng đã khẳng định Bảo Ninh là một trong những nhà văn có duyên với truyện ngắn, và là cây bút gây ấn tượng mạnh với người đọc. [14,337] Tiếp đó, đi vào tìm hiểu nghiên cứu thi pháp truyện ngắn Bảo Ninh, tác giả cuốn sách Bình luận truyện ngắn chỉ ra truyện ngắn Khắc dấu mạn thuyền là kiểu tình huống tượng trưng. [64,32] Bích Thu trong Những thành tựu của truyện ngắn sau năm 1975 cũng xem Bảo Ninh là một cây bút ấn tượng với người đọc. [65,32] Waynekarlin trong lời giới thiệu cho tuyển tập truyện ngắn Tình yêu sau chiến tranh nhận thấy truyện ngắn Bí ẩn của làn nước của Bảo Ninh: “ in dấu 3 niềm khao khát tình yêu”, [74,12] “đối diện trực tiếp với hậu quả chiến tranh, những bậc cha mẹ bị mất con” [74,14] Nguyễn Chí Hoan, khi giới thiệu tập truyện ngắn Lan man trong lúc kẹt xe, đã nhận xét : “Cái nhìn của hồi tưởng cho thấy cái quá khứ ấy cao hơn, lớn hơn, hư ảo hơn đồng thời là thực hơn. Đó là cái nhìn vào ý nghĩa, không phải nhìn vào sự kiện, biến cố, con người. Tất cả những câu chuyện ở đây đều đi theo quỹ đạo ấy. Tuy nhiên, những cái kết có hậu về tinh thần ấy, một lần nữa, không hề là những ước mộng nói suông. Những truyện ở tập này chỉ dừng lại mà không kết thúc, và tác giả đã làm như vậy một cách có chủ ý rõ ràng. Bởi lẽ những câu chuyện này chủ yếu nhằm diễn đạt những ý nghĩ, những cảm nhận, những băn khoăn về đau khổ, chứ không nhằm mô tả nỗi đau, nên khiến người ta phải thấy rằng chúng muốn giải thoát cho những nỗi đau khổ ấy” [50] Đoàn Ánh Dương, trong bài viết với nhan đề Bảo Ninh – nhìn từ thân phận của truyện ngắn, cho rằng thân phận truyện ngắn Bảo Ninh tiêu biểu cho chính thân phận nghiệp văn của Bảo Ninh, chứ không chỉ tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Sự long đong trọn một đời Kiều của tiểu thuyết rồi cũng đã có cơ hội “đoàn viên” vào đời sống văn học đương đại. Truyện ngắn của ông thì khác hẳn, nó vẫn còn là một sự long đong, như sự long đong của văn chương ông. Phải chăng nó nhỏ bé hơn so với thành tựu của tiểu thuyết như lối viết của ông so với “chủ âm” của lối viết đương thời? Tác giả nghĩ phải giải mã truyện ngắn Bảo Ninh cũng như văn nghiệp ông từ một giác độ khác, như đã nói ở trên, là câu chuyện cuộc đời. Đặt ra vấn đề câu chuyện cuộc đời qua truyện ngắn của Bảo Ninh ở đây là để nhấn mạnh vai trò của Bảo Ninh trong sự dịch chuyển kiểu thức thể loại và tư duy văn học trong văn học Việt Nam đương đại. [12] 4 Về tập truyện mới nhất của Bảo Ninh, Chuyện xưa kết đi được chưa ?, Nhị Linh trong blog của mình đã đưa ra những nhận xét sắc sảo : “chưa bao giờ trong văn học Việt Nam có một sự day dứt kéo dài và nồng độ đậm đặc như thế”, “ám ảnh như một sự quán xuyến cả tập sách. Nhưng sự ám ảnh này cũng có một nét đặc biệt, nó không thể hiện trong nỗi nhớ, niềm tiếc nuối, mà lại thể hiện nhiều hơn ở sự quên. Rất nhiều nhân vật trong các truyện không thực sự nhớ mình đã như thế nào, cuộc đời xưa kia của mình ra sao. Chỉ thỉnh thoảng mới le lói một chút ký ức, và chỉ cần một hạt bụi nhỏ (nhỏ và tầm thường như một "cái búng") cũng đủ khơi dậy day dứt, day dứt trộn lẫn với sự quên, day dứt cũng chính vì đã quên những điều lẽ ra không quên.”[40] Tìm hiểu truyện ngắn Bảo Ninh không thể không nhớ tới tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, Sự gặp gỡ của truyện ngắn Bảo Ninh và tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh thể hiện ở hai đặc điểm : Thứ nhất, đó là những hồi ức về chiến tranh; thứ hai đó là việc sử dụng thủ pháp dòng ý thức. PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp, trong bài viết Kỹ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh in trong Tự sự học – một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb ĐHSP, 2007 đã khẳng định, chỉ đến Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, thủ pháp dòng ý thức mới thật sự xuất hiện ở Việt Nam. Nhìn lại truyện ngắn của Bảo Ninh, ta sẽ thấy mối liên hệ về thủ pháp này với tiểu thuyết của nhà văn. [59] Trong bài viết Nỗi buồn chiến tranh viết về chiến tranh thời hậu chiến – Từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp, Phạm Xuân Thạch chủ yếu khai thác những cách tân của Nỗi buồn chiến tranh, đồng thời đưa ra một so sánh truyện ngắn Bảo Ninh “giống như những mảnh vỡ của tiểu thuyết hoặc phản chiếu, hoặc soi sáng thế giới của tiểu thuyết”[41] 5 Trên báo Văn nghệ trẻ, số 39 (2006) trong bài viết Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại phong phú về lượng, khi bàn về tiểu thuyết việt Nam đương đại, tác giả Nguyễn Tường Lịch cho rằng : tiểu thuyết Việt Nam nằm ngoài dòng chảy tiểu thuyết thế giới. Ông đưa ra một số tác phẩm tiêu biểu, trong đó có cả Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Tác giả nhận xét Bảo Ninh với độ dài thời gian, có điểm nhìn mới mẻ về chiến tranh trong quá khứ … Nguyễn Tường Lịch còn phát hiện những mới mẻ ở cuốn tiểu thuyết này là chỗ tác giả lấy trục thời gian chi phối mọi hành động xuyên suốt tính cách nhân vật. [38] Như vậy, chưa có một công trình nào thể hiện cái nhìn tổng quát, toàn diện, có hệ thống , trong việc nghiên cứu truyện ngắn Bảo Ninh nhìn từ thi pháp thể loại. Vì thế, nghiên cứu truyện ngắn Bảo Ninh nhìn từ thi pháp thể loại là một việc làm cần thiết. 3. Mục đích yêu cầu của đề tài 3.1. Tiếp cận truyện ngắn của Bảo Ninh nhìn từ thi pháp thể loại 3.2. So sánh thi pháp truyện ngắn Bảo Ninh với tác giả khác 3.3. Từ việc giải quyết những vấn đề trên, chúng tôi khẳng định sự đặc sắc trong cá tính sáng tạo của nhà văn và đóng góp của ông vào xu thế cách tân nghệ thuật tự sự của văn xuôi Việt Nam đương đại. 4. Giới hạn của việc giải quyết đề tài 4.1. Luận văn nghiên cứu truyện ngắn Bảo Ninh nhìn từ thi pháp thể loại được tập hợp trong truyện ngắn Bảo Ninh do Nxb Công an ấn hành năm 2002. Bao gồm những truyện ngắn : Mây trắng còn bay Trại bảy chú lùn, Bí ẩn của làn nước, Ngôi sao vô danh, Bên lề cuộc tấn công, Thời tiết của kí ức, Khắc dấu mạn thuyền, Ba lẻ một… Các truyện ngắn in trong tập truyện Lan man trong lúc kẹt xe, năm 2008. 6 Ngoài ra còn có tập truyện mới nhất của Bảo Ninh: Chuyện xưa kết đi, được chưa ? được ấn hành năm 2009 . 4.2. Đối chiếu so sánh với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của cùng tác giả ở những vấn đề liên quan, đối sánh với truyện ngắn của một số tác giả khác như Tạ Duy Anh, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái,… 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp hệ thống Phương pháp hệ thống giúp cho việc nghiên cứu truyện ngắn Bảo Ninh hiện lên trong tính chỉnh thể chứ không phải là những phân tích đơn lẻ về các tác phẩm đơn lẻ. Việc sử dụng phương pháp hệ thống còn giúp ta nhìn thấy sự vận động của ngòi bút Bảo Ninh và sự vận động của truyện ngắn Việt Nam mấy chục năm qua. 5.2. Phương pháp tiếp cận thi pháp học Phương pháp nghiên cứu theo hướng thi pháp học giúp người đọc tìm hiểu tác phẩm của Bảo Ninh từ phương diện hình thức, nhận diện những đóng góp, sáng tạo của nhà văn về mặt quan niệm nghệ thuật, tổ chức cấu trúc tự sự, giọng điệu, ngôn ngữ. 5.3. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh được vận dụng để so sánh truyện ngắn Bảo Ninh với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh ; so sánh truyện ngắn Bảo Ninh với truyện ngắn của các tác giả khác nhằm thấy được sự độc đáo của truyện ngắn Bảo Ninh. 6. Dự kiến đóng góp của đề tài Luận văn đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu truyện ngắn Bảo Ninh nhìn từ thi pháp thể loại một cách hệ thống trong sự đối chiếu so sánh với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của cùng tác giả và truyện ngắn của một số tác giả khác 7 để từ đó khẳng định thành tựu truyện ngắn Bảo Ninh, làm rõ xu thế cách tân nghệ thuật tự sự trong văn học Việt Nam hiện đại. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn được triển khai qua 3 chương : Chương 1: Truyện ngắn Bảo Ninh trong thể loại truyện ngắn Việt Nam đương đại. Chương 2: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Bảo Ninh Chương 3: Tổ chức trần thuật trong truyện ngắn của Bảo Ninh 8 NỘI DUNG Chương 1: Truyện ngắn Bảo Ninh trong thể loại truyện ngắn việt Nam đương đại 1.1. Giới thuyết chung về truyện ngắn Ở phương Tây, thể loại truyện ngắn ra đời tương đối muộn so với các thể loại khác, nó xuất hiện trên một tạp chí xuất bản đầu thế kỷ XIX, phát triển lên đến đỉnh cao nhờ những sáng tác xuất sắc của văn hào E.T.A. Hoffmann và Anton Chekhov, sau đó trở thành một hình thức nghệ thuật lớn của văn học thế kỷ XX. Tên gọi truyện ngắn đã thể hiện khá rõ diện mạo của nó : truyện ngắn thì tất nhiên là phải ngắn! Không cần phải dùng lối chiết tự hoặc tìm tra cái ngữ nghĩa xa xưa của thuật ngữ “truyện ngắn” mà nhìn vào phương thức tồn tại và cái hình hài ngắn gọn đến ngạc nhiên của những truyện ngắn kiểu mẫu của các bậc thầy, sẽ có ngay được ý niệm cơ bản khá chính xác về truyện ngắn : đó là một kỳ quan nghệ thuật bé nhỏ nhưng có sức gợi lớn. Đã có rất nhiều định nghĩa về truyện ngắn do các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đề xuất. Theo các nhà biên soạn sách Lí luận Văn học, là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, “Truyện ngắn đích thực xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học. Tác giả truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ con người hay đời sống tâm hồn con người” [60;397]. Từ điển thuật ngữ văn học thì cho rằng: “Khác với tiểu thuyết, là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng đến việc khắc họa một hình tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người” [32,371]. 9 Các nhà văn từng sáng tác truyện ngắn đã có những suy nghĩ về truyện ngắn khác nhau. Đáng chú ý là lời bàn luận của Konstantin Paustovski: “Truyện ngắn là một truyện viết ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái gì bình thường, và cái gì bình thường hiện ra như một cái gì không bình thường” [34,129]. Qua việc tìm hiểu một số quan niệm về truyện ngắn của các nhà văn trong và ngoài nước, chúng ta nhận thấy truyện ngắn là một thể tài mà hình thức nhỏ nhưng không có nghĩa là nội dung không lớn lao. Được sinh ra từ những câu chuyện kể hằng ngày rất tự nhiên, truyện ngắn hình thành và phát triển vượt bậc với sức mạnh dẻo dai phi thường qua sự sáng tạo của nhiều thế hệ nhà văn. Đến nay truyện ngắn đã khẳng định vị trí của mình trong hệ thống thể loại tự sự của văn học thế giới. Ở Việt Nam, truyện ngắn Sống chết mặc bay! của Phạm Duy Tốn được coi là truyện ngắn đầu tiên theo lối tây phương của văn học Việt Nam. Sau truyện ngắn này, Phạm Duy Tốn không viết truyện ngắn nữa nhưng trên văn đàn văn học Việt Nam hiện đại đã xuất hiện nhiều nhà văn có tài và "có duyên” với thể loại văn học mới mẻ này như: Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, v.v… Sau giai đoạn “buổi đầu” với nhiều thành tựu đáng ghi nhận, truyện ngắn Việt Nam có bước phát triển mới trong giai đoạn 1945 – 1975, phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Sau 1975, cùng sự vận động đổi mới của các thể tài khác, truyện ngắn đã có bước chuyển mình lớn lao. Các nhà văn lúc này đã dũng cảm nhìn vào sự thật, viết về sự thật. Truyện ngắn từ đó đã mở rộng biên độ phản ánh, có cái nhìn đa diện về hiện thực và con người nên đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. 10 1.2. Diện mạo và khuynh hướng truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới Vào những năm giữa của thập niên 80 thế kỷ trước, sau đại hội VI của Đảng, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Cùng với sự đổi mới về tư duy chính trị, tư duy kinh tế, quan niệm văn chương cũng đã có khác ít nhiều. Thời tiết chính trị là tiền đề cho sự xuất hiện một loạt tác phẩm viết theo phong cách “cởi trói”. Không đơn điệu, một chiều, dám đối mặt với thực tế đời sống, văn chương thực sự đã phản ánh đúng thực trạng tâm lý phức tạp của con người, qua đó can dự trực tiếp vào đời sống xã hội. Để thấy rõ được sự đổi mới của văn học Việt Nam nói chung, truyện ngắn nói riêng, việc nhìn lại nền văn học nước nhà trước 1975 là một việc làm cần thiết. Tính từ sau Cách mạng tháng Tám, được sáng tác dưới ánh sáng của lý tưởng cộng sản, trong dung môi của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, văn học Việt Nam đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. "Về đặc điểm loại hình, đó là nền văn học theo khuynh hướng sử thi, được thể hiện trong sự thống nhất trên quan điểm sử thi" [40,135]. Nền văn học sử thi của ba mươi năm ấy có những đóng góp riêng cho tiến trình văn học dân tộc. Nền văn học 1945-1975 là sự kết tinh chín muồi của lý tưởng thẩm mĩ, rung cảm nghệ thuật về cái cao cả, phi thường. Cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ đã tiếp nguồn cảm xúc, tác động mạnh đến thế giới tinh thần của người sáng tác. Văn học thể hiện tinh thần, khí phách cách mạng mà ở đó một thế hệ nhà văn "vừa là chiến sĩ, vừa là nghệ sĩ". Tròn 30 năm chiến tranh (1945-1975), hình tượng chiến tranh và người lính đã trở thành hình tượng trung tâm xuyên suốt quá trình vận động của nền văn học ấy. Bên cạnh những yếu tố tích cực, yếu tố tiêu cực vẫn tồn tại, chi phối mạnh mẽ bước đi của văn học thời kỳ này. Là một nền văn học 11 với tư duy sử thi, và sau này được đánh giá là văn học minh họa, ở thời kỳ 19451975 các cây bút thường quan tâm đến "viết cái gì?" hơn là "viết như thế nào?". Bởi thế, sau 1975 khi chính các nhà văn nhận thức được lối tư duy ấy không còn phù hợp thì việc "viết như thế nào?" trở thành mối quan tâm lớn của họ. Lúc này người ta có điều kiện để tái hiện cuộc chiến đấu trên cái nhìn bao quát một chiến trường theo suốt chiều dài thời gian lịch sử, hoặc đưa ra ánh sáng những cuộc chiến đấu thầm lặng trong lòng địch... Chiến tranh được nhận thức lại từ sự tác động ghê gớm của nó đến tính cách và số phận con người, với bao nhiêu nỗi éo le, bi kịch, xót xa, nỗi buồn dai dẳng. Nguyễn Minh Châu, một nhà văn chiến sĩ từng thành công với nhiều tác phẩm viết về chiến tranh, là người tiên phong trong công cuộc đổi mới lớn lao này. Ngay từ những năm tháng trong chiến tranh, nhà văn đã nhận thức ra những bất cập và hạn chế của văn học cách mạng. Ông từng viết: "Hình như cuộc chiến đấu sôi nổi hiện nay đang được văn xuôi và thơ ca đôi khi tráng lên một lớp men trữ tình hơi dày cho nên ngắm nghía nó thấy mỏng manh, bé bỏng, óng chuốt quá khiến người ta phải ngờ vực" [5,127] . Đặc biệt là trong bài viết Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa, Nguyễn Minh Châu đã gay gắt chỉ ra những tồn tại của giai đoạn văn học 1945 - 1975, đồng thời ông nói lên niềm mong ước về một nền văn học mới: "muốn văn học phải có cái gì của văn học, chứ không muốn văn học chỉ là một sự minh họa" [4,130]. Bên cạnh Nguyễn Minh Châu, nhiều nhà văn và nhà nghiên cứu khác cũng chỉ ra những hạn chế của nền văn học 1945 - 1975. Nguyễn Khải gọi các sáng tác văn học của mình giai đoạn trước 1975 là "cái thời lãng mạn", Hoàng Ngọc Hiến thì gọi đó là "nền văn học phải đạo", Lê Lựu gọi những tác phẩm của mình 12 trong thời kỳ văn học kháng chiến là "văn học công việc", "văn học sự vụ" và nhà văn tự bảo: "không thể viết như trước được nữa". Ở những nhà văn lớp trước, nhu cầu đổi mới ngòi bút còn mạnh mẽ như vậy thì sự phản ứng của lớp nhà văn trẻ nhiều khi hơi thái quá là lẽ dĩ nhiên. Mỗi nhà văn một hướng đổi mới, có người lặng lẽ, có người ồn ào, song tất cả đều đi đến sự đổi mới sáng tác bằng chính những tác phẩm của mình. Sáng tác trước đây của Lê Lựu là Người về đồng cói, Mở rừng thì bây giờ là Thời xa vắng. Ở Ma Văn Kháng trước đó là Xa phủ, Đồng bạc trắng hoa xòe thì bây giờ là Đám cưới không có giấy giá thú, Côi cút, Heo may. Và Nguyễn Minh Châu thời trước là Miền cháy thì sau này là Cỏ lau, Phiên chợ Giát... Là thể loại xung kích trong đời sống văn học, truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới đã đem đến nhiều mới lạ, đáp ứng nhu cầu phản ánh hiện thực và sự đổi mới văn học nước nhà trong quá trình hội nhập Nền kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến việc hình thành lối sống đa chiều, nó không còn thuần khiết, giản đơn, trong trẻo, vô tư như thời kỳ trước đây. Nó phức tạp, nhiêu khê và rối rắm. Phản ánh hiện thực ấy đòi hỏi truyện ngắn cũng như các thể lọai văn học khác phải gồ ghề, góc cạnh, phải bung mở, đa phương. Truyện ngắn giai đoạn đổi mới đã làm được điều hợp lý ấy. Đọc truyện ngắn thời đổi mới không khó khăn để nhận ra được một điều: các tác giả đã trung thực trong việc phân tích, mổ xẻ các mối quan hệ phức tạp, những mối quan hệ chằng chịt cùng nhiều vấn đề mới nảy sinh, mang vẻ mới lạ, điều mà trước đây, do nhiều nguyên cớ chưa phản ánh được, hay đúng hơn chưa có điều kiện suy ngẫm. Bởi vậy truyện ngắn thời kỳ này mạnh bạo, nói thật; ý thức cảnh báo, dự báo rõ ràng. Đây không gì khác hơn, chính là ý thức phản tỉnh, 13 thái độ nhận thức lại lịch sử và thái độ sòng phẳng với quá khứ, dám đối mặt với những vấn đề sai trái của thực tại. Truyện ngắn thời kỳ đổi mới được đón đọc bởi trước hết, nó có thái độ sòng phẳng, quyết liệt, rõ ràng với cái ác. Thiên hướng vuốt ve, lấy lòng, cầm chừng, nửa vời đang dần dà mất chỗ đứng ở truyện ngắn. Đây là xu thế tất yếu trong quá trình nhận thức. Truyện ngắn đòi hỏi được phát triển tự nhiên, thay đổi phù hợp với sự thay đổi của đời sống xã hội. Không nên rào chắn cản trở sự phát triển hợp quy luật đó. Càng không nên có vùng cấm. Chủ trương khuyến khích mọi tìm tòi sáng tạo phải được thể hiện bằng hành động trong những trường hợp cụ thể, và phải được kiểm chứng chứ không phải chỉ là chủ trương chung chung và hô khẩu hiệu. Không ai khác mà thời gian sẽ là người làm vườn mẫn cán và sòng phẳng, biết đốn tỉa, chặt bỏ những gì không cần thiết và giữ lại những gì hữu ích. Đó là quy luật tự nhiên. Các nhà văn Việt Nam lúc này đang viết trong xu hướng dân chủ thẩm mỹ. Trong giai đoạn hiện nay có thể thấy vô vàn những quan niệm văn chương. Được tự do làm chủ ngòi bút, các nhà văn không ngừng đưa ra những ý kiến cá nhân trong sáng tác văn học. Từ xưa tới nay, quan niệm về cái đẹp không tuyệt đối, bất biến mà luôn luôn thay đổi theo thời gian, hoàn cảnh. Tuy nhiên, dù có phong phú đến đâu văn chương luôn có một mẫu số chung, đó là tính nhân bản, lấy việc phục vụ con người và vì con người làm mục đích. Trong xu thế đổi mới của truyện ngắn đương đại, những truyện viết về chiến tranh từ cái nhìn hậu chiến đã có những thay đổi căn bản. Từ vai trò là người cổ vũ cho cuộc chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp, giờ đây khi thắng lợi thuộc về dân ta, nhà văn trở thành người đào sâu trực tiếp vào hiện thực cuộc chiến để trình bày, phát hiện mọi mặt của nó. Nếu như chất giọng sử thi tràn ngập trong 14 những tác phẩm văn học trước 1975 thì sau 1975 chất giọng ấy đã dần dần trở nên ít hơn. Truyện ngắn viết về chiến tranh thời hậu chiến có thêm những giọng điệu mới : từ giọng điệu thâm trầm, khắc khoải trong Họ đã trở thành đàn ông (Phạm Ngọc Tiến), Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (Nguyễn Minh Châu) đến chất giọng xót xa trong Xưa kia chị đẹp nhất làng (Tạ Duy Anh), Người sót lại của rừng cười (Võ Thị Hảo)…Văn học không chỉ tập trung nói về những niềm vui, sự lạc quan tin tưởng mà còn nói đến cả những mất mát, đau thương. Trong số những nhà văn viết về chiến tranh thời kì hậu chiến cả ở trên lĩnh vực tiểu thuyết và truyện ngắn, Bảo Ninh có thể coi là một cây bút tiêu biểu. Bảo Ninh nhìn về chiến tranh không phải ở mặt trước của tấm huân chương mà là một cuộc chiến đầy đau thương và mất mát. Trước đây, với tiểu thuyết đầu tay, Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã cho chúng ta gặp một cuộc chiến đầy đớn đau, khắc khoải qua những trang hồi ức của người lính mang trong mình vết thương chiến tranh. Nay trong truyện ngắn Bảo Ninh hình ảnh cuộc chiến đó một lần nữa lại trở về. Trong truyện ngắn của mình, Bảo Ninh xây dựng những con người lớn dậy trong chiến tranh hoặc tha hóa, biến chất trong hoàn cảnh đó. Con người mới ở đây là kiểu con người chuyển từ cái ta cộng đồng sang cái tôi riêng biệt, là con người với những trạng thái tâm hồn: khi khổ đau, khi vui sướng, khi hạnh phúc, và cả bất hạnh nữa... Bảo Ninh đã dựng lên những đời người không bằng phẳng. Những gai góc, gồ ghề của cuộc sống bám chặt vào đời lính, họ đi ra từ chiến tranh nhưng nặng trĩu nỗi buồn (Lá thư từ Quý Sửu), họ đi ra từ chiến tranh nhưng không quên nổi những oán thù cá nhân để rồi mang tư tưởng không đẹp (Hữu khuynh), ở đó còn có những người giữ mãi lời thề mà bắt mình 15 cứ mãi cô đơn (Trại "bảy chú lùn")... Chiến tranh đã "phạt ngang cuộc đời của họ". Độ lùi của thời gian là một lợi thế của Bảo Ninh để nhìn lại những gì đã diễn ra trong chiến tranh. Thời gian tạo cho nhà văn có cơ hội nhìn chiến tranh như một hiện tượng xã hội tổng thể và nhất là cho phép nhà văn kiểm chứng những hậu quả xã hội của nó. Văn học hậu chiến của bất kỳ dân tộc nào cũng có trách nhiệm lớn lao là bằng tư duy nghệ thuật nhận thức lại, đo lại những "chấn động" về mọi mặt xã hội do chiến tranh để lại cho dân tộc mình. Xét ở phương diện đó, cùng với tiểu thuyết, truyện ngắn Bảo Ninh có một ý nghĩa lớn lao. Đọc những tác phẩm đó, ta thấy thấm thía hơn sự tàn phá của chiến tranh đối với con người không chỉ trong cuộc chiến mà cả trong hòa bình, bởi chiến tranh đã qua những kí ức về nó, những vết thương nó để lại vẫn đeo đẳng con người. Truyện ngắn Bảo Ninh còn thể hiện những thủ pháp của văn học hiện đại như sự dịch chuyển, gấp bội điểm nhìn, nhân vật của Bảo Ninh đem đến sự độc đáo qua những đặc điểm ngoại hình hay nội tâm được miêu tả đặc sắc. Bên cạnh đó vốn ngôn từ đặc trưng và một giọng điệu trần thuật đặc sắc cũng đem lại sự thành công cho truyện ngắn Bảo Ninh. Như vậy với những tập truyện đã ra đời, Bảo Ninh không chỉ đã cống hiến một cái nhìn mới về chiến tranh mà còn hấp dẫn độc giả bởi những thủ pháp nghệ thuật lôi cuốn. Truyện ngắn Bảo Ninh vì vậy chiếm một vị trí quan trọng trong khuynh hướng đổi mới của văn học dân tộc. 1.3. Quan niệm nghệ thuật của Bảo Ninh Tìm hiểu tầm vóc và đóng góp của một nhà văn đối với nền văn học nước nhà không thể không tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của họ, vì quan niệm nghệ thuật thuộc phạm vi ý thức của văn học. Nó là nguyên tắc cắt nghĩa thế giới và 16 con người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho nó khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó. Như vậy, nói tới quan niệm nghệ thuật là nói tới sáng tạo về chất trong cảm thụ và miêu tả đời sống. Văn học là nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con người là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật, hoặc đơn giản là miêu tả các nhân vật, văn học đều thể hiện con người. Mặt khác, người ta không thể miêu tả về con người, nếu không hiểu biết, cảm nhận và có các phương tiện, biện pháp nhất định. Điều này tạo thành chiều sâu, tính độc đáo của hình tượng con người trong văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó. Quan niệm con người chính là sự khám phá về con người. Nó phản ánh cấu trúc của nhân cách con người và các hình thức phức tạp tương ứng trong quan hệ con người đối với thế giới. Quan niệm nghệ thuật về con người tất nhiên cũng mang dấu ấn sáng tạo của cá tính nghệ sĩ, gắn liền với cái nhìn nghệ sĩ. Đây là điều đã được phổ biến công nhận. Chẳng hạn, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt trong quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nam Cao so với Vũ Trọng Phụng hoặc Ngô Tất Tố. Quan niệm con người tạo thành cơ sở, thành nhân tố vận động của nghệ thuật, thành bản chất nội tại của hình tượng nghệ thuật. Sự vận động của thực tế làm nảy sinh những con người mới, và miêu tả những con người ấy sẽ làm văn học đổi mới. Nhưng còn một khía khác là đổi mới cách giải thích và cảm nhận con người cũng làm cho văn học thay đổi căn bản. trong lịch sử văn học sử dụng lại các đề tài, cốt truyện, nhân vật truyền thống là rất phổ biến. Vẫn là con người 17 đã biết, nhưng hôm qua được nhìn ở một góc độ, hôm nay nhìn sang góc độ mới cũng tạo thành sáng tác văn học mới. Xem xét quan niệm nghệ thuật của Bảo Ninh có thể thấy nhà văn đã thể hiện cách nhìn nhận, khám phá đời sống chiến tranh từ cái nhìn hậu chiến, qua đó góp phần khắc họa nỗi cô đơn, bi kịch của con người trong chiến tranh và sau chiến tranh. 1.3.1. Chiến tranh từ cái nhìn hậu chiến Chiến tranh trong truyện ngắn Bảo Ninh chủ yếu được nhìn từ cái nhìn hậu chiến. Trong Truyện ngắn Bảo Ninh do Nxb Công an Nhân dân ấn hành năm 2002 có tất thảy là 16 truyện ngắn thì có đến 13 truyện viết về đề tài chiến tranh chống Mỹ: Trại "Bảy chú lùn", Ba lẻ một, Bên lề cuộc tấn công, Lá thư từ Quý Sửu, Bí ẩn của làn nước, Ngôi sao vô danh, Rửa tay gác kiếm, Mây trắng còn bay, Khắc dấu mạn thuyền, Thời tiết của ký ức, Hữu khuynh, Hà Nội lúc không giờ, La- mác-xâye. Trong 13 truyện ngắn viết về chiến tranh, chỉ có một truyện đứng ở thời điểm quá khứ (Bên lề cuộc tấn công) và hai truyện đứng ở thời điểm hiện tại (Mây trắng còn bay, La-mác-xây e) còn lại là truyện đan xen giữa hiện tại và quá khứ. Trong 13 truyện ngắn ấy có 9 nhân vật chính là người lính. Đó là các truyện: Trại "bảy chú lùn", Ba lẻ một, Là thư từ Quí Sửu, Ngôi sao vô danh, Rửa tay gác kiếm, Khắc dấu mạn thuyền, Bên lề cuộc tấn công, Hữu khuynh, Hà Nội lúc không giờ (trong đó có 8 nhân vật chính là người lính trở về). Trong cuốn Lan man trong lúc kẹt xe có 28 truyện ngắn thì có đến 22 truyện viết về chiến tranh và đề tài người lính gồm các truyện: Trại "Bảy chú lùn", Ba lẻ một, Bên lề cuộc tấn công, Lá thư từ Quý Sửu, Bí ẩn của làn nước, Ngôi sao vô danh, Rửa tay gác kiếm, Mây trắng còn bay, Khắc dấu mạn thuyền, Thời tiết của ký ức, Hữu khuynh, Hà Nội lúc không giờ, La- mác-xâye, Thách 18 đấu, Tình thư, Tiếng vĩ cầm của quân xâm lăng, kì ngộ, Cũ xưa, Giang, Mùa khô cuối cùng, Gọi con, Hỏa điểm cuối cùng. Sáu truyện ngắn còn lại viết về đề tài khác trong cuộc sống hiện tại trong chiến tranh. Trong 22 truyện ngắn viết về chiến tranh đó chỉ có ba truyện được kể ở thời điểm hiện tại: La- mác-xâye, Ngàn năm mây trắng, Kì ngộ còn lại là truyện xen lẫn giữa quá khứ và hiện tại. Trong tập truyện mới nhất Chuyện xưa kết đi, được chưa ? gồm 14 truyện ngắn, trong đó có 7 truyện ngắn được biết đến trước đó là : Mắc cạn, Bội phản, Gọi con, Thách đấu, Cũ xưa, Giang, Hữu khuynh. Còn lại 7 truyện ngắn mới là: Sách cấm, Cái Búng, Mối ngờ, Bằng chứng, Chuyện xưa kết đi, được chưa? Đêm trừ tịch, Quay lưng thì chỉ có Cái búng là không viết về chiến tranh. Tập truyện mang dáng vẻ giản đơn, là những kí ức nho nhỏ của thời đi học, những câu chuyện gia đình,… thực chất lại là những câu hỏi lớn của người lính hậu chiến, bước ra khỏi cuộc chiến tranh và hòa nhập cùng cộng đồng. Thống kê như thế để thấy rằng Bảo Ninh nhìn nhận cuộc chiến hầu hết là từ hơn hai mươi sau. Tác giả đã cố gắng thoát ra khỏi khuôn khổ sáo mòn của đề tài chiến tranh. Nhìn từ hậu chiến, cuộc sống chiến tranh trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Bảo Ninh hầu hết được hiện lên dưới góc độ của nỗi buồn. Toàn bộ tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh như chính tên gọi của mình tràn ngập cảm giác buồn đau. Dưới cái nhìn hồi ức của nhân vật Kiên, Bảo Ninh đã viết lên một hiện thực về chiến tranh. Chiến tranh qua cách cảm, cách nghĩ của một người lính, chiến tranh qua những mẩu ký ức xé vụn. Bằng thứ ngôn ngữ đa thanh, cái nhìn đa chiều, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh đem lại cho người đọc một âm hưởng mới của chiến tranh, một câu chuyện về chiến tranh với những nốt nhạc trầm buồn ám ảnh. Nếu như chiến tranh trước đây được viết trong khói lửa, bom đạn chiến tranh, viết theo yêu cầu của hoàn cảnh, viết theo quan điểm ta phải 19 thắng mà chưa phơi bày những mặt trái còn khuất lấp của chiến tranh thì bây giờ chiến tranh được viết trong thời hậu chiến đã được nhận thức lại. Hiện thực chiến tranh trong tiểu thuyết mà Bảo Ninh mô tả đó là những năm tháng buồn bã của đám trinh sát qua sự hồi tưởng của Kiên. Đó là những ngày mưa liên miên, những ngày im tiếng súng- trinh sát dựng lán ở ngay trên bờ suối, họ đốt nỗi buồn chiến tranh bằng những cuộc vui chơi: "đi săn, đặt bẫy, tổ chức duốc cá và tối tối chơi bài", còn kỳ quái hơn: "đám trinh sát bọn Kiên ngồi rỗi bày trò phơi sấy, thái nhỏ hoa, lá và rễ hồng ma trộn với sợi thuốc rê" nhờ khói hồng ma tạo ra ảo giác, tạo ra mộng mị, "có thể nhờ khói hồng ma mà quên mọi nông nỗi đời lính, quên đói khổ, chết chóc, quên béng ngày mai". Đó là những ngày: "trong mưa đại bác vang rền nặng nề thúc dội ra ngoài trăm dặm điềm báo trước một mùa khô hung gở đang áp tới bên trời". Rồi những mùa thu não nề, đời sống mục ra. Theo Kiên: "chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người". Đó là nỗi buồn kéo từ năm này qua năm khác trong cõi lòng nhà văn Kiên, nỗi buồn bước qua chiến tranh mà dư âm của nó như vết thương lại đau mỗi khi gió trở mùa. Bảo Ninh viết: "đau buồn là một thể nguyên khối suốt cuộc đời, liền một mạch từ thủa thơ ấu, qua chiến tranh đến bây giờ"[48;192]. Nỗi buồn chiến tranh, nỗi buồn về tình yêu theo năm tháng lớn đầy trong ký ức của Kiên, mà ám cảnh nhất là nỗi buồn đau về cái chết: "theo dần năm tháng những luồng sinh khí chết ấy đã đậm lại trong lòng anh, hòa vào trong tiềm thức trở thành bóng tối của tâm hồn anh. Dằng dặc trôi qua trong hồi ức của Kiên vô vàn những hồn ma thân thiết, lẳng lặng âm thầm kéo lê mãi trong đời anh nỗi đau buồn của chiến tranh". Kiên phải chứng kiến bao nhiêu là cái chết của đồng đội, đó là Can, Hòa, 20 là Thịnh "con", Thịnh "nhớn"... bao con người sống bên anh nhưng phút chốc trở thành những hồn ma bóng quỷ bởi chiến tranh. Cũng vậy, trong các truyện ngắn của mình, Bảo Ninh cũng khơi lên bao nỗi buồn của chiến tranh. Mỗi truyện ngắn để lại một dư vị nỗi buồn. Truyện ngắn Trại "bảy chú lùn" là một ví dụ về nỗi buồn cô độc: "Cơ ngơi của Y Nua lớn dần lên nhưng gian khổ còn lớn mau hơn. Nhưng nặng nề nhất, khổ nhất là cảnh cô độc... Cô độc kinh người giữa bốn bề rừng già vây bọc", " thật não nề... Như bị bỏ quên". Nỗi buồn ấy bàng bạc, lan tỏa cả câu chuyện về một người lính hậu cần. Hay nỗi buồn sầu thảm của ông Phúc trong Thời tiết của ký ức, một nỗi buồn kéo dài đằng đẵng bao nhiêu năm trời. Trong Rửa tay gác kiếm, phần lớn tác giả thể hiện nỗi đau buồn của anh em binh lính khi chiến tranh đã đi qua, nỗi ám ảnh bi thương về quá khứ... Hầu hết các truyện ngắn Bảo Ninh thường đưa ra những cảm nhận, suy nghĩ về nỗi đau buồn của chiến tranh. Nhà văn viết: "Nếu rồi đây không may phải sống đời bất hạnh thì chúng tôi sẽ tự nhủ lòng rằng không sao cả, bởi có nỗi khổ nào của ngày hôm nay sánh bằng những đau khổ đã trải qua trong chiến tranh"(Rửa tay gác kiếm). Chiến tranh từ cái nhìn hậu chiến mang đậm những hoàn cảnh éo le, bi kịch. Đó là hình ảnh của một người cha trốn chạy quá khứ, trốn chạy khỏi quê hương khi cuộc sống đã yên bình (Ba lẻ một), đó là nỗi éo le của người bố cứu con người khác mà không thể cứu được vợ con mình (Bí ẩn của dòng nước), đó là nỗi nuối tiếc về một lá thư không kịp bóc (Lá thư từ Quý Sửu). Hay nỗi ngậm ngùi về một ông già mất trí, mãi xót xa vì một chuyến hỏa xa không bao giờ trở lại (Ngôi sao vô danh). Và nỗi buồn của người lính sau chiến tranh trở về quê hương với cảm giác "lạc loài" (Hữu khuynh). Nỗi buồn chiến tranh còn thể hiện lớn hơn trong sự đau buồn, thương nhớ của người mẹ già trong lần giỗ thứ ba
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất