http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, khi các doanh nghiệp ngày càng
COM
có điều kiện được thành lập với nhiều hình thức khác nhau và trong nhiều ngành
nghề khác nhau thì việc liên kết, hợp tác hay thậm chí là cạnh tranh nhau đang ngày
càng trở nên phổ biến. Bên cạnh những hợp đồng hợp tác, những giao kết “thuận
buồm xuôi gió” vẫn còn tồn tại khá nhiều những mâu thuẫn, bất đồng thậm chí vi
phạm quyền lợi lẫn nhau giữa các doanh nghiệp. Từ đó gây ra những thiệt hại cho
các bên và cho cả nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, thuật ngữ “tranh chấp
KS.
thương mại” hay “tranh chấp kinh doanh” đã là thuật ngữ quen thuộc trong đời
sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới và mới được sử dụng rộng rãi, phổ biến
ở nước ta trong mấy năm gần đây.
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra
BOO
trong hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như
hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền
kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định
đến hoạt động này, cũng như các phương thức giải quyết nó thể hiện thông qua các
quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật.
Ngay từ năm 1994, hệ thống pháp luật Việt Nam về thương mại cũng đã đưa
KIL
O
ra một số khái niệm khác nhau để biểu đạt loại tranh chấp này. Tuy không xây
dựng được một khái niệm chuẩn mực về tranh chấp kinh tế nhưng cũng đã liệt kê
được các tranh chấp được coi là tranh chấp kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của
tòa án kinh tế và trọng tài kinh tế. Đến năm 1999, khái niệm tranh chấp thương mại
lần đầu tiên được đề cập đến trong Luật thương mại ngày 10/5/1999. Năm 2003,
Pháp lệnh trọng tài thương mại được ban hành ngày 25/2/2003 tuy không đưa ra
định nghĩa về tranh chấp thương mại nhưng thông qua khái niệm về “hoạt động
thương mại” đã tạo được sự tương đồng trong quan niệm về “thương mại” và
“tranh chấp thương mại” của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp
1
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
luật và thông lệ quốc tế; từ đó mở màn cho việc xem xét tiếp theo của các văn bản
pháp luật khi đề cập đến lĩnh vực thương mại, tranh chấp thương mại – một lĩnh
vực đầy sôi nổi và phức tạp. Tiếp đó, đến năm 2004, điều 29 Bộ luật Tố tụng Dân
COM
sự 2004 đã đưa ra khái niệm “tranh chấp về kinh doanh, thương mại” và liệt kê
những nội dung của loại tranh chấp này, thực chất là các tranh chấp thương mại
theo hướng tiếp cận của Luật thương mại 2005. Tuy có sự khác nhau về cách thức
biểu đạt và ngôn ngữ sử dụng nhưng nhìn chung quan niệm về tranh chấp thương
mại được thể hiện qua các quy định trong các văn bản pháp luật thời gian gần đây
là khá nhất quán.
KS.
Tóm lại, có thể hiểu: Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng
hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt
động thương mại. Các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát
sinh giữa các thương nhân với nhau; ngoài ra trong những trường hợp nhất định,
BOO
các cá nhân, tổ chức (không phải là thương nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh
chấp thương mại như: tranh chấp giữa công ty và thành viên công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau...
Tìm hiểu về tranh chấp thương mại là cơ sở quan trọng để tìm hiểu và áp
dụng các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. Trên thế giới cũng như ở
KIL
O
Việt Nam tồn tại 4 phương thức giải quyết tranh chấp thương mại cơ bản, bao gồm:
• Thương lượng;
• Hòa giải;
• Trọng tài thương mại;
• Tòa án.
Cả 4 phương thức này đều có những ưu điểm và tầm quan trọng riêng của nó.
Nhưng trong phạm vi bài nghiên cứu này, em xin phép tìm hiểu riêng về hình thức
trọng tài thương mại, từ đó nghiên cứu sâu thêm về thẩm quyền của trọng tài
thương mại trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại theo pháp luật Việt
Nam hiện hành.
2
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về trọng tài thương mại
COM
1. Khái niệm trọng tài thương mại
Khi xảy ra tranh chấp trong kinh doanh, doanh nghiệp sẽ cần đến việc phân
xử. Hiện nay có 2 phương pháp giải quyết bằng tài phán là tòa án và trọng tài
thương mại. Trên thế giới, tại các nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thường
sử dụng phương pháp trọng tài để giải quyết tranh chấp.
Vậy chúng ta cần phải hiểu trọng tài thương mại là gì? Pháp luật Việt Nam
KS.
hiện hành không đưa ra một khái niệm cụ thể về trọng tài thương mại nhưng ta có
thể hiểu: Trọng tài thương mại là hình thức tài phán mà quyền lực của nó được tạo
nên bởi chính các bên trong quan hệ tranh chấp thương mại. Tôn trọng quyền tự
định đoạt của các đương sự, pháp luật quy định nguyên tắc loại trừ thẩm quyền của
BOO
tòa án khi các bên đã lựa chọn trọng tài.
2. Các hình thức trọng tài thương mại:
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc (trọng
tài ad-hoc) và trọng tài thường trực.
2.1. Trọng tài vụ việc
Có thể định nghĩa rằng, trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên
KIL
O
tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng
tài vụ việc sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Đây là hình
thức trọng tài xuất hiện sớm nhất và được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới.
Từ định nghĩa trên, ta có thể rút ra được một số đặc điểm của trọng tài vụ việc như
sau:
• Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự
chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
• Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều
hành và không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên
3
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
chọn hoặc được chỉ định có thể là người có tên hoặc ngoài danh sách trọng
tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào.
• Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà
COM
quy tắc tố tựng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây
dựng. Thông thường, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ
một quy tắc tố tụng phổ biến nào, thường là quy tắc tố tụng của các trung
tâm trọng tài có uy tín ở trong nước và quốc tế.
Ở Việt Nam, hình thức trọng tài vụ việc lần đầu tiên được quy định tại Pháp lệnh
trọng tài thương mại một cách cụ thể, rõ ràng về cách thức hình thành, quy trình tố
KS.
tụng cũng như giá trị của pháp quyết và cơ chế đảm bảo thi hành quyết định của
trọng tài vụ việc. Có thể khẳng định rằng, diện mạo của trọng tài vụ việc ở Việt
Nam được khắc họa rõ nét kể từ khi ban hành Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.
2.2. Trọng tài thường trực
BOO
Ở các nước trên thế giới, trọng tài thường trực thường được tổ chức dưới
những hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các
viện trọng tài nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng các trung tâm
trọng tài.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các
KIL
O
trung tâm trọng tài. Ta có định nghĩa: Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ,
có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định.
Từ khái niệm về trung tâm trọng tài trên, ta có thể đưa ra một số đặc trưng cơ bản
về hình thức trọng tài này như sau:
• Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong
hệ thống cơ quan nhà nước. Thể hiện:
- Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên
sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chứ không phải được
thành lập bởi Nhà nước. Do đó, nó không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà
nước cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử Nhà nước.
4
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
- Hoạt động của trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không
được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách Nhà nước.
- Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực
COM
nhà nước mà nhân danh người thứ ba độc lập ra phán quyết.
- Dù không được thành lập bởi Nhà nước nhưng trung tâm trọng tài vẫn luôn
đặt dưới sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước, thông qua các hoạt động như: ban
hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động
của trung tâm trọng tài; cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập, giấy
đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài; hỗ trợ trung tâm trọng tài trong việc
KS.
hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài, hỗ trợ trong việc cưỡng chế thi hành
quyết định trọng tài...
• Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với
nhau. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên,
BOO
cấp dưới.
• Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ.
Cơ cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên
của trung tâm. Cụ thể:
- Ban điều hành gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng
KIL
O
tài và có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử.
- Các trọng tài viên trong danh sách trung tâm trọng tài có thể tham giai vào
việc giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định.
• Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có
quy tắc tố tụng riêng. Thể hiện:
- Tùy theo khả năng chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên, mỗi trung tâm
trọng tài có quyền tự xác định về lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời có thể mở
rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động trên cơ sở sự chấp thuận của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền.
5
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
- Mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng
riêng được xây dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm và
không trái với quy định của pháp luật về trọng tài thương mại. Khi giải quyết tranh
COM
chấp, hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ quy tắc tố tụng
này.
- Việc xây dựng quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường dựa trên
cơ sở là một số bản quy tắc trong tài hay một số công ước quốc tế có liên quan
cũng như bản quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín.
• Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các
KS.
trọng tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia
giải quyết tranh chấp chỉ được giới hạn trọng danh sách trọng tài viên của
trung tâm. Vì vậy, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến
hành bởi các trọng tài viên của chính trung tâm.
BOO
3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương
mại
Trọng tài thương mại là một trong 4 hình thức giải quyết tranh chấp thương
mại. Đây là một hình thức giải quyết tranh chấp khá đơn giản, nhanh chóng và có
nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, để áp dụng hình thức này trong việc giải quyết tranh
tắc cơ bản sau:
KIL
O
chấp, các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp cần tuân thủ một số những nguyên
3.1. Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài
Nguyên tắc này được hiểu như sau: tranh chấp thương mại chỉ được giải
quyết tại trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài đó có
hiệu lực. Theo điều 54 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, nếu không có thỏa
thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu mà hội đồng trọng tài vẫn giải
quyết thì quyết định của hội đồng sẽ bị hủy. Đây là nguyên tắc quan trọng và có
tính quyết định đối với việc có hay không áp dụng hình thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Nếu không có nguyên tắc này thì những nguyên tắc sau cũng trở
6
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
thành vô nghĩa và không cần thiết. Chính vì vậy mà nó được đưa lên làm nguyên
tắc đầu tiên và cũng là nguyên tắc cần áp dụng trước tiên khi tiến hành xem xét một
COM
vụ tranh chấp bằng hình thức trọng tài thương mại.
3.2. Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan
Một số tổ chức trọng tài yêu cầu trọng tài viên xác nhận bằng văn bản rằng
họ đang và sẽ độc lập với các bên và yêu cầu trọng tài viên trình bày bất kỳ sự kiện
hoặc chi tiết nào có thể khiến các bên nghi ngờ về tính độc lập của họ. Điều này
KS.
cho thấy, việc giải quyết tranh chấp một cách công bằng, tính độc lập của các trọng
tài viên đối với các bên là vấn đề được quan tâm đặc biệt. Trọng tài viên phải có đủ
cách điều kiện nhất định để đảm bảo rằng họ độc lập, vô tư, khách quan trong việc
giải quyết tranh chấp. Để trở thành một trọng tài viên của một trung tâm trọng tài,
lệnh trọng tài thương mại.
BOO
công dân Việt Nam cần hội tụ đầy đủ những điều kiện quy định tại điều 12 Pháp
Khi tham gia giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài viên phải thật sự là
người thứ ba độc lập, vô tư, không liên quan đến các bên có tranh chấp cũng như
không có bất kỳ lợi ích nào dính dáng đến vụ tranh chấp đó. Nếu vi phạm những
quy định trên, trọng tài viên phải từ chối giải quyết vụ tranh chấp hoặc các bên có
KIL
O
quyền yêu cầu đổi trọng tài viên vụ tranh chấp.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài viên phải căn cứ vào các tình
tiết của vụ tranh chấp, xác mình sự việc nếu thấy cần thiết và phải căn cứ vào các
chứng cứ mà mình thu thập được chứ không thể bị chi phố bởi bất kỳ tổ chức, cá
nhân nào. Không ai có quyền can thiệp, chỉ đạo vào việc giải quyết tranh chấp của
trọng tài viên. Quyết định của trọng tài viên phải đúng với sự thật khách quan.
Tại điều 54 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 còn quy định: Nếu trọng tài
viên không vô tư, không khách quan trong việc giải quyết tranh chấp thương mại,
7
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
vi phạm nghĩa vụ của trọng tài viên thì quyết định của hội đồng trọng tài có trọng
tài viên đó sẽ bị hủy bỏ.
3.3. Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật
COM
Đây được coi là một nguyên tắc rất quan trọng trong mọi thủ tục tố tụng
cũng như giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội trong điều kiện nhà nước pháp
quyền. Vì vậy, để giải quyết tranh chấp thương mại một cách công bằng, hợp lý,
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên; trọng tài viên – người được các
bên có tranh chấp lựa chọn để giải quyết tranh chấp phải căn cứ theo pháp luật.
Nếu trọng tài viên không căn cứ vào pháp luật, nhận hối lộ hoặc có hành vi
KS.
vi phạm đạo đức trọng tài viên thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi trọng tài. Tư
tưởng chỉ đạo đối với trọng tài viên là pháp luật, chỉ có căn cứ vào pháp luật, trọng
tài viên mới giải quyết được các tranh chấp một cách vô tư, khách quan. Có như
vậy mới được các nhà kinh doanh tín nhiệm.
BOO
3.4. Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên
Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan
đến thủ tục giải quyết tranh chấp mà trọng tài viên phải tôn trọng, nếu không sẽ dẫn
đến hậu quả là quyết định của hội đồng trọng tài sẽ bị tòa án hủy theo yêu cầu của
các bên.
Có thể thấy rằng, thông qua thỏa thuận trọng tài, quyền hạn của hội đồng
KIL
O
trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp là do các bên giao cho họ. Cụ thể như:
• Các bên thỏa thuận chọn trung tâm trọng nào nào, hình thức trọng tài nào thì
chỉ có trung tâm trọng tài đó và hình thức trọng tài đó có thẩm quyền giải
quyết.
• Các bên lựa chọn trọng tài viên nào thì trọng tài viên đó có quyền giải quyết.
• Các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một trọng tài viên duy nhất giải quyết
thì chỉ có trọng tài viên duy nhất đó có quyền giải quyết.
• Các bên có quyền thỏa thuận địa điểm giải quyết vụ tranh chấp.
8
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
• Các bên có quyền thỏa thuận thời hạn thực hiện các thủ tục cần thiết cho việc
giải quyết.
chấp.
COM
• Các bên có quyền thỏa thuận thời gian mở phiên họp giải quyết vụ tranh
Như vậy, có thể thấy nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tham gia tranh
chấp là một trong những nguyên nhắc tiên quyết của việc áp dụng hình thức trọng
tài thương mại. Và chỉ có trong tố tụng trọng tài – hình thức giải quyết tranh chấp
do các bên lựa chọn, các bên mới có quyền thỏa thuận nhiều vấn đề như vậy và
trọng tài viên bắt buộc phải tuân theo.
KS.
3.5. Nguyên tắc giải quyết một lần
Một trong những mục đích quan trọng nhất của việc giải quyết tranh chấp
thương mại là nhanh chóng, tránh dây dưa kéo dài, làm ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy mà ngày nay, để các tranh chấp
BOO
thương mại giữa các nhà kinh doanh có thể được giải quyết nhanh chóng và dứt
điểm, các tổ chức trọng tài phi chính phủ đã ra đời để đáp ứng yêu cầu đó của các
nhà kinh doanh.
Với tư cách là một tổ chức phi chính phủ, trọng tài thương mại không có cơ
quan cấp trên nên phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng
KIL
O
cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như bản án sơ thẩm của tòa án, cũng không
có thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tố tụng trọng tài chỉ có một trình tự giải quyết,
tức là các tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết một lần tại trọng tài.
Nếu quyết định của trọng tài không bị tòa án hủy bỏ theo đơn yêu cầu của
một trong các bên mà bên phải thi hành không tự nguyện thi hành thì sau thời hạn
30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài, bên được thi hành
quyết định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có
trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết định
trọng tài.
II. Thẩm quyền của trọng tài thương mại
9
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Trọng tài thương mại được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương
mại. Nhưng tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết
của trọng tài thương mại nếu các bên có tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa
COM
thuận trọng tài này có hiệu lực.
Khác với thẩm quyền của tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền
vụ việc, nếu được các bên có “vụ việc” lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân
định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa
thuận của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài. Thẩm quyền của
trọng tài không được phân định theo lãnh thổ, vì các bên có tranh chấp có quyền
KS.
thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho
họ, không phụ thuộc vào nơi ở cũng như trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, cũng
không phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có một cấp trọng tài và lại càng không
phân định theo sự lựa chọn của nguyên đơn, vì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải
BOO
quyết nếu các bên có thỏa thuận trọng tài.
Khi các bên đã thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng con đường
trọng tài, tức là họ đã trao cho hội đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp
và phủ định thẩm quyền xét xử đó của tòa án trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu
hoặc các bên hủy thỏa thuận trọng tài.
Nói tóm lại, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
KIL
O
nào được pháp luật quy định là tranh chấp thương mại, tranh chấp này phát sinh
trong hoạt động thương mại giữa cá nhân kinh doanh và tổ chức kinh doanh và các
bên có thỏa thuận trọng tài. Nếu thiếu 1 trong 2 điều kiện trên, vụ việc sẽ không
thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại.
Sau đây, trên cơ sở Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 và các văn bản pháp
luật hiện hành có liên quan, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sâu hơn về thẩm quyền của
trọng tài thương mại thông qua 2 điều kiện trên:
1. Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại phải là
tranh chấp thương mại giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh
10
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Như ta đã biết, trong hoạt động giao kết hợp đồng giữa 1 bên là thương nhân
với một bên là các cá nhân, tổ chức (không phải là thương nhân), nếu có phát sinh
tranh chấp thì Luật thương mại 2005 cho phép bên có hoạt động không nhằm mục
COM
đích sinh lợi (bên có hành vi dân sự) có thể chọn áp dụng Luật thương mại để giải
quyết.
Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong
giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần túy nhưng
bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng Luật thương mại thì quan hệ
này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ này
KS.
phải được quan niệm là tranh chấp thương mại. Ví dụ như: tranh chấp giữa công ty
với thành viên công ty hay tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau thực
chất là tranh chấp thương mại hiểu theo nghĩa rộng vì tranh chấp này phát sinh từ
hoạt động đầu tư với mục đích sinh lợi.
BOO
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, loại tranh chấp nói trên
không thuộc thẩm quyền của trọng tài vì không thỏa mãn điều kiện các bên tranh
chấp là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh (điều 2 Nghị định số
25/2004/NĐ – CP ngày 15/01/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của pháp lệnh trọng tài thương mại) và cũng không thuộc loại tranh chấp về
kinh doanh, thương mại theo điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Bởi vậy, tranh
KIL
O
chấp này theo pháp luật Việt Nam hiện hành thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa
dân sự, song bên có hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi có thể chọn áp dụng
Luật thương mại để giải quyết. Tương tự, các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, chuyển
giao công nghệ cũng chỉ thuộc thẩm quyền của trọng tài khi các bên tranh chấp là
cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh.
Tóm lại, trọng tài thương mại Việt Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các bên là cá nhân kinh
doanh hoặc tổ chức kinh doanh. Như vậy, so với pháp luật một số nước trên thế
11
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
giới, pháp luật Việt Nam ta không mở rộng hoàn toàn thẩm quyền của trọng tài
thương mại.1
2. Giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài hợp lệ
COM
2.1. Thỏa thuận trọng tài
Trước hết, có thể hiểu thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc
giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong
hoạt động thương mại. Như vậy, các bên có thể thỏa thuận trọng tài trước khi có
tranh chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Khác với việc giải quyết tranh chấp tại tòa
án – cơ quan tài phán nhà nước, khi có tranh chấp phát sinh, bên có quyền và lợi
KS.
ích hợp pháp bị vi phạm có quyền đệ đơn yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết
mà không cần có sự thỏa thuận trước, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đòi
hỏi phải có sự thỏa thuận của các bên. Nguyên tắc chung là “không có thỏa thuận
giải quyết bằng phương thức trọng tài, không có tố tụng trọng tài”.
BOO
Thỏa thuận trọng tài có thể là một thỏa thuận riêng hoặc là thỏa thuận trong
hợp đồng và phải được lập thành văn bản. Các hình thức thỏa thuận qua thư, điện
báo, Telex, Fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện ý chí của các bên
giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài đều được coi là thỏa thuận trọng tài. Ngay
cả khi hợp đồng giữa các bên không được thể hiện bằng văn bản thì thỏa thuận
trọng tài vẫn phải lập thành văn bản. Khi nộp đơn kiện cho trung tâm trọng tài,
KIL
O
nguyên đơn phải nộp kèm theo thỏa thuận trọng tài. Nếu không có thỏa thuận trọng
tài, trung tâm trọng tài sẽ không có thẩm quyền giải quyết.
2.2. Thỏa thuận trọng tài hợp lệ
Thỏa thuận trọng tài hợp lệ là thỏa thuận trọng tài đó không bị vô hiệu. Điều
này có nghĩa là, ngay cả khi có thỏa thuận trọng tài nhưng nếu thỏa thuận trọng tài
đó vô hiệu thì trọng tài cũng không có thẩm quyền giải quyết. Các trường hợp thỏa
1
Pháp luật về trọng tài của Ailen quy định trọng tài có thẩm quyền giải quyết mọi tranh chấp hợp đồng nếu các bên
có thoả thuận, trừ hợp đồng lao động. Thậm chí trọng tài còn có thẩm quyền giải quyết đối với những yêu cầu đòi
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
12
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
thuận trọng tài vô hiệu được quy định tại điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương mại
2003.
Sau đây, trên cơ sở điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, chúng ta sẽ
COM
cùng tìm hiểu về các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu, từ đó kéo theo việc
loại trừ thẩm quyền của trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp trong những
trường hợp này:
- Thứ nhất, tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại (ví dụ: tranh
chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa văn phòng luật sư hoặc công ty luật sư với
doanh nghiệp. Pháp luật Việt Nam không quan niệm đây là tranh chấp kinh doanh,
KS.
thương mại).
Với cách quy định này dường như nhà làm luật có sự trùng lặp giữa thỏa
thuận trọng tài không có hiệu lực với vụ việc không thuộc thẩm quyền của trọng
tài? Bản thân lí do tranh chấp không thuộc hoạt động thương mại đã loại trừ thẩm
BOO
quyền của trọng tài. Như vậy, quy định thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu trong trường
hợp này thực sự không có ý nghĩa.
- Thứ hai, người kí thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền kí kết. Quy định này
cần được hiểu ở hai khía cạnh.
Ở khía cạnh thứ nhất, một bên kí thỏa thuận trọng tài không có năng lực chủ
thể (ví dụ: chi nhánh, văn phòng đại diện).
KIL
O
Ở khía cạnh thứ hai, người kí thỏa thuận trọng tài không phải là người đại
diện hợp pháp cho pháp nhân hoặc kí thay cá nhân không được ủy quyền.
- Thứ ba, một bên kí thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
(người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự).
- Thứ tư, thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ về đối tượng
tranh chấp hay tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó
các bên không có thỏa thuận bổ sung. (ví dụ: Điều khoản trọng tài ghi chung chung
như “Tranh chấp giữa các bên được giải quyết tại cơ quan trọng tài Việt Nam”).
13
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Cốt lõi của thỏa thuận trọng tài là phải thể hiện rõ ý chí và sự thống nhất ý
chí của các bên trong việc lựa chọn tổ chức trọng tài có thẩm quyền. Còn những sai
sót về mặt kỹ thuật trong soạn thảo điều khoản trọng tài không làm sai lệch ý chí
COM
của các bên thì sẽ không không làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu. (ví dụ: Trong
hợp đồng giữa một bên là doanh nghiệp của Việt Nam với một bên là doanh nghiệp
nước ngoài có ghi: “Mọi tranh chấp phát sinh giữa các bên được giải quyết tại tòa
án trọng tài Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam”.
Thỏa thuận trọng tài này không bị coi là vô hiệu mặc dù khái niệm “tòa án trọng
tài” không phù hợp với tên gọi thực của hình thức trọng tài mà các bên hướng tới.
KS.
Đó là sai sót về mặt kỹ thuật nhưng không làm sai lệch ý chí của các bên trọng việc
lựa chọn tổ chức trọng tài, đó là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên canh
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. Vì vậy, thỏa thuận này hoàn toàn có
hiệu lực.
BOO
- Thứ năm, thỏa thuận trọng tài không được lập thành văn bản (ví dụ: Các bên thỏa
thuận miệng, trao đổi qua điện thoại...)
- Thứ sáu, bên kí kết thỏa thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe dọa và có yêu cầu tuyên
bố thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu.
Như vậy, thỏa thuận trọng tài bị coi là vô hiệu khi thỏa thuận đó không thể hiện đầy
đủ, thể hiện không đúng ý chí của các bên hoặc ý chí của các bên không phù hợp
KIL
O
quy định của pháp luật. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu không tạo ra thẩm quyền cho
trọng tài. Khi đó vụ việc sẽ thuộc thẩm quyền của tòa án.
* Những vấn đề cần lưu ý trong việc xác định thẩm quyền của trọng tài
thương mại trong hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại:
Nhằm hướng dẫn nghiệp vụ cho các thẩm phán trong việc phân biệt thẩm
quyền giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại giữa
trọng tài và tòa án, từ đó thực hiện các biện pháp hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động
của trọng tài, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 05/2003/NQ –
HĐTP ngày 31/7/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
14
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
thi hành một số quy định của Pháp lệnh trọng tài thương mại. Theo đó trong hoạt
động thụ lí giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của tòa án, người có
thẩm quyền thụ lí cần lưu ý những vấn đề sau trong hoạt động nghiệp vụ:
COM
- Thứ nhất, khi có người khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết vụ tranh chấp phát
sinh trong hoạt động thương mại, tòa án phải yêu cầu người khởi kiện cho biết
trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài hay không.
Đồng thời, tòa án phải kiểm tra, xem xét các tài liệu gửi kèm theo đơn kiện để xác
định. Cụ thể, tòa án phải kiểm tra trong hợp đồng có điều khoản trọng tài không
hoặc có văn bản nào đó ghi nhận sự thỏa thuận của các bên về việc lựa chọn trọng
KS.
tài giải quyết tranh chấp không. Thao tác này sẽ giúp cho người thụ lí, ngay từ đầu
đã có thể xác định được vụ việc có thỏa thuận trọng tài chưa, tránh trường hợp thụ
lí rồi mới phát hiện vụ tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài.
- Thứ hai, kiểm tra thỏa thuận trọng tài có bị vô hiệu không. Để kiểm tra thỏa thuận
BOO
trọng tài bị vô hiệu, người có thẩm quyền thụ lí cần dựa vào điều 10 Pháp lệnh
trọng tài thương mại 2003 để xem xét. Tuy nhiên, cần chú ý một số trường hợp sau:
● Thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền kí không bị vô hiệu
nếu được người có thẩm quyền chấp nhận. Vì vậy, khi phát sinh tranh chấp mà một
bên yêu cầu tòa án giải quyết, tòa án cần yêu cầu người có thẩm quyền kí kết thỏa
thuận trọng tài cho biết ý kiến bằng văn bản có chấp nhận thỏa thuận trọng tài do
KIL
O
người không có thẩm quyền kí kết không. Nếu người có thẩm quyền kí kết đó
không chấp nhận thì vụ việc mới thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.
Quy định này được xây dựng trên cơ sở kế thừa Nghị quyết số 04/2003/NQ –
HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế. Theo
Nghị quyết này, hợp đồng do người không có thẩm quyền kí không bị vô hiệu nếu
người có thẩm quyền biết và không phản đối. Cũng cần lưu ý đó là sự kế thừa trong
xây dựng pháp luật, không phải vì hợp đồng không bị vô hiệu nên hệ quả là điều
khoản trọng tài cũng không bị vô hiệu theo. Điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với
15
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản
trọng tài.
● Thỏa thuận trọng tài không xác định rõ đối tượng tranh chấp hoặc tổ chức
COM
trọng tài cụ thể nào có thẩm quyền cũng không bị vô hiệu nếu sau đó các bên có
thỏa thuận bổ sung. Vì vậy, người thụ lí cần kiểm tra giữa các bên có thỏa thuận bổ
sung về việc xác định đối tượng tranh chấp hoặc hội đồng trọng tài cụ thể có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp không. Ví dụ: Trong hợp đồng các bên quy định vụ
việc thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài mà không ghi rõ tổ chức trọng tài cụ
thể nào có thẩm quyền nhưng sau đó các bên có văn bản thỏa thuận chỉ định rõ tổ
KS.
chức trọng tài có thẩm quyền là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.
Thỏa thuận bổ sung có thể được thể hiện ở một văn bản độc lập như phụ lục
hợp đồng, văn bản ghi nhớ giữa hai bên hoặc thể hiện trong công văn, tài liệu trao
BOO
đổi qua lại trong quá trình thực hiện hợp đồng.
- Thứ ba, cần kiểm tra khi được nguyên đơn cho biết bằng văn bản sẽ khởi kiện tại
tòa án hoặc khi được tòa án thông báo về việc nguyên đơn đã nộp đơn khởi kiện
yêu cầu tòa án giải quyết vụ tranh chấp thì trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ
ngày nhận được văn bản của nguyên đơn hoặc thông báo của tòa án, bị đơn có văn
bản phản đối không; có xuất trình được tài liệu chứng minh rằng trước đó các bên
KIL
O
đã có thỏa thuận trọng tài không.
Sở dĩ như vậy bởi, mặc dù các bên đã có thỏa thuận trọng tài nhưng nếu
nguyên đơn kiện ra tòa án mà bị đơn không phải đối thì coi như các bên có thỏa
thuận mới là lựa chọn tòa án giải quyết thay cho thỏa thuận trọng tài hoặc bị đơn có
phản đối nhưng không chứng minh được giữa các bên đã có thỏa thuận trọng tài thì
được coi như là không có thỏa thuận trọng tài.
- Thứ tư, cần kiểm tra các bên có thỏa thuận nào khác không, có quyết định của tòa
án hủy quyết định trọng tài không.
16
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Khi quyết định trọng tài bị hủy thì quyết định trọng tài đó không có giá trị thi
hành. Các bên có thể thỏa thuận lại để vụ tranh chấp tiếp tục được giải quyết bởi
một hội đồng trọng tài tại trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài do các bên
COM
thành lập. Nếu các bên không đạt được sự thỏa thuận thì một bên có thể kiện ra tòa
án, khi đó tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết vụ việc này. Tuy nhiên, vấn đề chưa
rõ là thời hiệu được xác định như thế nào, thời gian theo kiện tại trọng tài có tính
vào thời hiệu khởi kiện hay không? Đây là vấn đề cần được Tòa án nhân dân tối
cao có hướng dẫn cụ thể.
KS.
III. Ưu điểm và nhược điểm của trọng tài thương mại so với tòa án trong việc
giải quyết các tranh chấp thương mại
1. Ưu điểm
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài có một số ưu thế
về những ưu thế này:
BOO
so với giải quyết bằng con đường tòa án, sau đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cụ thể
- Thứ nhất, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại không mang ý chí quyền lực nhà nước (không nhân danh quyền lực nhà nước
như phán quyết của tòa án) mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự
định đoạt của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên thứ ba độc lập (được các
KIL
O
bên lựa chọn) theo thủ tục linh hoạt mềm dẻo, từ đó đảm bảo tối đa quyền định
đoạt của các bên tranh chấp mà không bị ràng buộc nghiêm ngặt, chặt chẽ bởi thủ
tục tố tụng như giải quyết tại tòa án.
- Thứ hai, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mai còn
đảm bảo tối đa uy tín cũng như bí mật (xử kín) của các bên tranh chấp, góp phần
củng cố và duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa các bên. Điều này là rất quan
trọng với các doanh nghiệp vì nó liên quan đến uy tín, thương hiệu của doanh
nghiệp.
17
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
- Thứ ba, các trọng tài viên là những chuyên gia hàng đầu. Ví dụ như Trung
tâm trọng tài quốc tế Việt Nam có tới 117 trọng tài viên trong nước và 6 trọng tài
viên quốc tế là những chuyên gia đầu ngành của hầu hết các ngành trọng yếu. Trình
COM
độ của các trọng tài viên thường là tiến sĩ, thấp cũng là cao học và hầu hết đều được
đào tạo ở nước ngoài.
- Thứ tư, việc xét xử bằng cơ chế trọng tài tuân theo nguyên tắc xét xử một
lần nên quyết định của trọng tài thương mại có giá trị chung thẩm. Quyết định của
trọng tài thương mại buộc các bên phải thi hành ngay, nếu không sẽ được chuyển
sang cơ quan thi hành án dân sự thi hành. Quyết định của trọng tài thương mại
KS.
không bị kháng cáo kháng nghị. Điều này có nghĩa là ngay sau khi hội đồng trọng
tài công bố quyết định trọng tài, các bên phải thi hành quyết định trọng tài, trừ
trường hợp một trong các bên làm đơn yêu cầu tòa án hủy quyết định trọng tài đó.
2. Nhược điểm
BOO
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế, phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài thương mại cũng có những khó khăn, trở ngại khó tránh
khỏi, đó là:
- Thứ nhất, sự thành công của quá trình giải quyết tranh chấp bằng con
đường trọng tài thương mại chủ yếu phụ thuộc vào thái độ thiện chí và hợp tác của
các bên tranh chấp. Mà các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn chưa thực sự
KIL
O
quan tâm nhiều đến việc lường trước các tranh chấp sẽ phát sinh nên vẫn còn tình
trạng mơ hồ về hình thức trọng tài thương mại nói riêng, cũng như các phương thức
giải quyết tranh chấp khác nói chung.
- Thứ hai, việc thực thi các kết quả đã đạt được trong quá trình giải quyết
tranh chấp bằng con đường trọng tài phần lớn phụ thuộc vào sự tự nguyện thi hành
của bên có nghĩa vụ thi hành mà không có cơ chế pháp lý vững chắc để đảm bảo thi
hành và nếu có thì việc thực thi đó thường phức tạp và tốn kém.
IV. Thực trạng việc áp dụng hình thức trọng tài thương mại trong việc giải
quyết các tranh chấp thương mại ở Việt Nam
18
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả và khá
thông dụng trên thế giới, song tại Việt Nam trọng tài thương mại lại rất mờ nhạt.
Con đường tài phán này hiện không nhận được sự quan tâm của doanh nghiệp.
COM
Điểm qua hoạt động của các trung tâm trọng tài trong thời gian gần đây, ta có thể
rút ra được một số thực trạng tiêu biểu về tình hình áp dụng hình thức trọng tài
thương mại trong việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam ta hiện nay, đó là:
- Thứ nhất, về phía các trung tâm trọng tài: Theo kết quả nghiên cứu về sự
cần thiết và việc sử dụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại Việt
Nam do Bộ tư pháp tiến hành mới đây cho thấy có đến 75% ý kiến cho rằng cần
KS.
thiết thành lập trung tâm trọng tài, tuy nhiên, hiện nay trên cả nước mới có 6 trung
tâm trọng tài (3 trung tâm tại Hà Nội, 2 trung tâm tại Thành phố Hồ Chí Minh, 1
trung tâm tại Cần Thơ). Thực ra trước đó cũng có 1 trung tâm trọng tài tại Bắc
Giang, tuy nhiên trung tâm này thành lập ra do khó khăn về trụ sở rồi cũng giải tán.
BOO
Tuy nhiên, ngoài Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (bên cạnh Phòng Thương
mại và công nghiệp Việt Nam) là còn có doanh nghiệp gõ cửa, các trung tâm trọng
tài khác hầu như “ngồi chơi xơi nước”.
Bên cạnh đó, theo thứ trưởng Bộ tư pháp Hoàng Tiến Liên: Trung tâm trọng
tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) mỗi năm chỉ xử lý được 20 – 25 vụ. Các trung tâm
trọng tài khác khoảng 5 đến 7 vụ, thậm chí có trung tâm trọng tài không có vụ nào.
KIL
O
Như vậy, trước vận hội mới, khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức của WTO thì các trung tâm trọng tài thương mại đang đứng trước tình hình
“nước sôi lửa bỏng”. Các tổ chức trọng tài thương mại hiện nay thực sự yếu cả về
tổ chức, chất lượng cũng như năng lực trọng tài viên. “Nếu không có sự hỗ trợ của
Nhà nước, cứ để các trung tâm trọng tài tự “bơi” trong hoạt động như các văn
phòng luật sư hoặc các trung tâm, câu lạc bộ... thì sẽ đến ngày... sập tiệm”2.
2
Theo luật sư Nguyễn Hồng Khởi phát biểu trong cuộc họp toạ đàm về sử dụng trọng tài thương mại tại Việt Nam
do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 20/12/2006.
19
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
- Thứ hai, về phía các doanh nghiệp: Theo tài liệu thống kê, có tới 84%
doanh nghiệp không biết đến việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Điều này
cũng dễ hiệu bởi còn nhiều doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh theo lối cũ, khi xảy
COM
ra tranh chấp thì “nhờ” cơ quan chủ quản hoặc Bộ chủ quản giải quyết.
Bên cạnh đó, theo thông kê của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, trong
khoảng 2 năm trở lại đây, trong các vụ tranh chấp thương mại, có đến gần 60% vụ
việc xảy ra giữa các doanh nghiệp trong nước với các đối tác nước ngoài. Và doanh
nghiệp Việt Nam thường thua thiệt trước các doanh
nghiệp nước ngoài do thiếu kinh nghiệm thương trường và kém hiểu biết về trọng
hiểu biết về trọng tài thương mại3):
KS.
tài thương mại. Có thể xem qua 2 ví dụ sau đây như một điển hình cho việc thiếu
• Ví dụ 1: VIAC đã từng phải từ chối giải quyết tranh chấp mua bán hàng hóa
giữa một công ty Đài Loan và chi nhánh công ty A có trụ sở tại Bà Rịa –
BOO
Vũng Tàu với lý do điều khoản về cơ quan giải quyết tranh chấp trong hợp
đồng ghi rất chung chung là “nếu có tranh chấp sẽ nhờ trọng tài Việt Nam
giải quyết”. Do mất nhiều thời gian để nhờ trọng tài phân xử, cuối cùng vụ
việc được đưa ra Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giải quyết nhưng
cũng bị đình chỉ vì đã quá thời hiệu khởi kiện.
KIL
O
• Ví dụ 2: Vừa qua, công ty Dâu tằm tơ Việt Nam đã bị trọng tài Geneva
(Thụy Sĩ) buộc phải thanh toán gần nửa triệu USD cho công ty Kyunggi Silk
(Hàn Quốc) trong một vụ tranh chấp kéo dài 3 năm, kèm theo đó Công ty
Dâu tằm tơ Việt Nam phải thanh toán gần 40.000 USD tiền phí trọng tài.
Thông thường, các điều khoản về giá cả, chất lượng hàng hóa, thời gian giao
hàng, phương thức thanh toán... vẫn được các doanh nghiệp chú trọng hơn là các
điều khoản về giải quyết tranh chấp. Chính tâm lý đó đã tạo ra những sai sót không
đáng có cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trong nhiều hợp
3
Theo lời phát biểu của ông Nguyễn Minh Chí - Chủ tịch trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) trong cuộc
phỏng vấn với phóng viên báo Hải quan
20
- Xem thêm -