ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI:
TRIỀU NGUYỄN VỚI VẤN ĐỀ THA
GIẢM THUẾ (1802-1883)
Sinh viên thực hiện
: Huỳnh Thị Mận
Chuyên ngành
: Sƣ Phạm Lịch Sử
Lớp
: 15SLS
Giáo viên hƣớng dẫn
: T.S Trƣơng Anh Thuận
Đà Nẵng, tháng 01 năm 2019
LỜI CẢM ƠN
Đƣợc sự hƣớng dẫn của quý thầy cô khoa Lịch Sử, Trƣờng Đại Học Sƣ
Phạm - Đại Học Đà Nẵng, sau gần 5 tháng nghiên cứu em đã hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp với đề tài “Triều Nguyễn với vấn đề tha giảm thuế (1802-1883)”.
Để hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực học hỏi của bản thân em đã nhận
đƣợc rất nhiều sự quan tâm, hƣớng dẫn tận tình của quý thầy cô, gia đình và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin gởi lời cảm ơn chân thành đến qúy thầy cô
giáo trƣờng Đại học Sƣ phạm – Đại học Đà Nẵng đã tận tình giảng dạy và truyền
đạt kiến thức cho em trong suốt thời gian học tập tại trƣờng đại học, đặc biệt là
Thầy TS Trƣơng Anh Thuận, ngƣời đã hƣớng dẫn cho em trong suốt thời gian làm
bài. Mặc dù thầy rất bận trong công tác giảng dạy nhƣng không ngần ngại chỉ dẫn
cho em, tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để em có thể hoàn thành
bài luận văn tốt nghiệp một cách tốt nhất. Một lần nữa em chân thành cảm ơn thầy
và chúc thầy dồi dào sức khoẻ.
Ngoài ra, em cũng xin gởi tới lời cảm ơn đến những ngƣời bạn thân thiết đã
đóng góp ý kiến bổ ích giúp em hoàn thành đề tài này.
Tuy nhiên, vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và bản thân còn thiếu nhiều
kinh nghiệm nên nội dung của bài không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong
nhận đƣợc sự góp ý, chỉ bảo thêm của quý thầy cô để bài luận văn đƣợc hoàn thiện
hơn.
Xin chúc qúy ban lãnh đạo, qúy thầy cô giáo trƣờng Đại học Sƣ phạm – Đại
học Đà Nẵng lời chúc sức khỏe, thành công và thịnh vƣợng trong cuộc sống cũng
nhƣ trong công tác.
Đà Nẵng, ngày 09 tháng 01 năm 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................... 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 4
4.1. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 4
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................. 4
6. Nguồn tƣ liệu và đóng góp của đề tài .............................................................. 4
6.1. Nguồn tƣ liệu ............................................................................................... 4
6.2. Đóng góp của đề tài ..................................................................................... 5
7. Bố cục của đề tài ............................................................................................. 5
NỘI DUNG ............................................................................................................... 6
Chương 1: CƠ SỞ CỦA VIỆC THA GIẢM THUẾ DƢỚI TRIỀU NGUYỄN ........ 6
1.1. Hoạt động tha giảm thuế trƣớc triều Nguyễn .................................................. 6
1.2. Tình hình Việt Nam dƣới triều Nguyễn (1802 -1883) ................................... 10
1.2.1. Kinh tế .................................................................................................... 10
1.2.2. Chính trị .................................................................................................. 13
1.1.3. Xã hội – văn hóa ..................................................................................... 17
Chƣơng 2: TRIỀU NGUYỄN VỚI VẤN ĐỀ THA GIẢM THUẾ GIAI ĐOẠN
1802-1883 ............................................................................................................... 19
2.1. Tha giảm thuế dƣới triều Nguyễn (1802-1883) ............................................. 19
2.1.1. Dƣới triều Gia Long............................................................................... 19
2.1.2. Dƣới triều Minh Mạng ............................................................................ 29
2.1.3. Dƣới triều Thiệu Trị................................................................................ 40
2.1.4. Dƣới triều Tự Đức .................................................................................. 45
2.2. Đánh giá việc tha giảm thuế dƣới triều Nguyễn (1802-1883) ....................... 50
2.2.1. Ý nghĩa, tác dụng của việc tha giảm thuế dƣới triều Nguyễn.................. 50
2.2.2. So sánh chính sách tha giảm thuế của triều Nguyễn với một số triều đại
trƣớc đây ........................................................................................................... 54
2.2.3. Bài học kinh nghiệm đối với chính sách thuế của nhà nƣớc ta hiện nay . 56
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 59
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Triều Nguyễn với vấn đề tha giảm thuế (18021883)” xuất phát từ một số lý do sau:
Thứ nhất, niềm đam mê nghiên cứu khoa học lịch sử đã là một trong những
động lực quan trọng nhất khiến tôi bắt tay tìm hiểu đề tài này. Tôi đã ấp ủ dự định
nghiên cứu một đề tài lịch sử Việt Nam, với hi vọng có thể làm sáng tỏ một vấn đề
nhỏ trƣớc đây chƣa đƣợc đề cập đến hoặc mới chỉ đƣợc khảo cứu một cách khái
quát. Bên cạnh đó, tôi cũng muốn tích lũy những kiến thức và kĩ năng cần thiết
trong việc nghiên cứu và trình bày một vấn đề lịch sử dƣới dạng một luận văn hoàn
chỉnh, từ đó giúp tôi có thêm tự tin và mạnh dạn hơn để có thể tham gia nhiều đề tài
nghiên cứu khoa học hơn nữa. Và đề tài “Triều Nguyễn với vấn đề tha giảm thuế
(1802-1883)” hoàn toàn thỏa mãn những mong muốn trên của bản thân tôi.
Thứ hai, công trình nghiên cứu của tôi khảo cứu chuyên sâu về một vấn đề lịch
sử, công việc này vô cùng khó khăn. Vì những nội dung nghiên cứu nhỏ thƣờng
không có nhiều tài liệu tái hiện. Vấn đề tha giảm thuế của triều Nguyễn là một phần
trong chính sách thuế khóa và là một phƣơng diện rất nhỏ trong toàn bộ chính sách
về kinh tế của triều Nguyễn, nên số lƣợng thành quả nghiên cứu cho đến hiện tại
vẫn còn tƣơng đối khiêm tốn. Trong khi đó, đây lại là một vấn đề khá hấp dẫn. Việc
làm sáng tỏ các nội dung trọng tâm trong đề tài nhƣ cơ sở của việc tha giảm thuế,
việc thực thi công việc này của các hoàng đế triều Nguyễn cũng nhƣ ý nghĩa tác
dụng của nó đối với đời sống của nhân dân thời bấy giờ.... thực sự đã mang lại cho
tôi niềm cảm hứng nghiên cứu sâu sắc.
Thứ ba, nghiên cứu đề tài “Triều Nguyễn với vấn đề tha giảm thuế (1802-1883)”
còn để giúp có cái nhìn toàn diện và khách quan hơn trong quá trình đánh giá vƣơng
triều này. Hiện nay, những nhận thức mới về triều Nguyễn đã giúp giới nghiên cứu
có cái nhìn công bằng hơn trong việc “luận công tội” của vƣơng triều này. Những
việc làm tích cực trên nhiều phƣơng diện của các hoàng đế triều Nguyễn đã đƣợc
thừa nhận. Trong đó, việc tha giảm thuế là một trong những biểu hiện của sự quan
tâm đến đời sống nhân dân, đồng thời là một biểu hiện sinh động của việc vận dụng
1
tƣ tƣởng “khoan thƣ sức dân” của các hoàng đế Nguyễn - một kế sách để giữ cho
vƣơng nghiệp sâu rễ bền gốc nhƣ đúc kết của các triều đại đi trƣớc.
Thứ tƣ, “Triều Nguyễn với vấn đề tha giảm thuế (1802-1883)” - một vấn đề lịch
sử đã diễn ra trong quá khứ nhƣng những bài học mà nó để lại cho hiện tại và tƣơng
lai thì vẫn còn nguyên giá trị. Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này không
những có ý nghĩa trên phƣơng diện học thuật mà còn giúp lãnh đạo chính quyền các
cấp nhìn từ góc độ lịch sử để có sự hoạch định chính xác chính sách thuế đối với
ngƣời dân trong hiện tại và tƣơng lai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến hiện tại, việc nghiên cứu về triều Nguyễn đƣợc đánh giá là tƣơng đối
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Điều đó đã khiến cho số lƣợng các công trình
khoa học đƣợc công bố là khá phong phú. Trong các giáo trình, sách chuyên khảo,
tham khảo, chuyên đề về lịch sử Việt Nam nói chung và triều Nguyễn nói riêng
đƣợc biên soạn trƣớc và sau năm 1975, khi nghiên cứu kinh tế Việt Nam dƣới triều
Nguyễn đều ít nhiều đề cập đến chính sách thuế khóa của vƣơng triều này. Tuy
nhiên, đi sâu vào vấn đề tha giảm thuế thì cho đến hiện tại, số lƣợng bài viết liên
quan là tƣơng đối ít. Một vài công trình bƣớc đầu khái quát hoặc liệt kê một số
trƣờng hợp đƣợc tha giảm thuế dƣới triều Nguyễn nhƣ bài viết “Chính sách giảm
thuế dưới triều vua Gia Long, Minh Mệnh qua Châu bản triều Nguyễn” của
tác giả Hoàng Nguyệt. Bài viết đã trình bày khái quát một số lệ hay các lĩnh vực
thuộc hạng tha giảm thuế dƣới hai triều vua Gia Long và Minh Mệnh dựa trên
chiếu, dụ đƣợc vua ban xuống. Thông qua châu bản, tác giả đã chứng minh đƣợc
đứng trƣớc những khó khăn về kinh tế ở nửa đầu thế kỉ XIX, các vua Gia
Long và Minh Mệnh đã đƣa ra và thực thi chủ trƣơng miễn giảm thuế và chẩn
cấp cho dân. Ngƣời nghèo có thể vay gạo, thóc sang vụ sau trả hoặc mua gạo
với giá rẻ hơn bình thƣờng không giới hạn về số lƣợng. Tác giả cũng nêu lên
việc vua Gia Long đã phân ra nhiều thứ thuế kèm theo các biện pháp quản lý
và miễn trừ thích hợp. Điển hình nhƣ Châu bản tờ 93, tập 2 năm Gia Long 12
(1813): “… Nay chuẩn ban xuống cho trong 7 năm từ Nhâm Tuất, Quý Hợi,
Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, phàm các loại thuế ruộng
đất, các loại tiền thuế thóc, cũng với những sản vật nộp riêng khác của dân
2
đinh mà bị thiếu, thì cho dân được xá miễn để hưởng ân mưa móc, vỗ về nạn
dân”. Ngoài ra, thuế sẽ đƣợc giảm tùy theo mức độ tổn thất do thiên tai địch
họa ở địa phƣơng. Bên cạnh đó, nhà nào có ngƣời đi làm đƣờng, đào sông,
xây thành… cũng thuộc vào diện đƣợc miễn giảm thuế. Nếu đã nộp thuế sản
vật thay vào đó sẽ cho miễn thuế đinh. Thuế dành cho các thƣơng thuyền
nƣớc ngoài cũng đƣợc tính dựa trên kích thƣớc thuyền đánh cá to hay bé để
tạo cơ sở tính thuế. Đến thời vua Minh Mệnh cũng có những chính sách miễn
giảm thuế tƣơng tự thời vua Gia Long. Ngƣời dân có thể nộp thuế bằng các
hình thức khác nhau, chẳng hạn nếu giá thóc gạo lúc bấy giờ quá đắt đỏ thì
có thể nộp thuế bằng tiền; Căn cứ vào từng thời điểm để thu và miễn giảm
thuế cho thích hợp. Cùng với đó, tác giả cũng đã giới thiệu việc cho thực
hiện chính sách giảm thuế trong nhiều dịp khác nhau dƣới thời Gia Long và
Minh Mệnh nhƣ: nhân dịp đất nƣớc mừng đại lễ, vua ban chính sách giảm
thuế cho dân để dân cùng chung niềm vui của đất nƣớc hoặc thời tiết không
thuận lợi; Thiên tai dịch họa xảy ra, triều đình cũng thực hiện chính sách
giảm thuế cho dân bớt đi một phần khó khăn…
Hai là bài viết “Một số chính sách của Nguyễn nh – Gia ong ở h
với triều Tây Sơn từ 13 – 6 – 1801 đến 01 – 12 – 1802” của tác giả
uân đối
u nh Đình
ết. Trong phần “Nghiêm cấm việc giết hại bừa bãi, ban bố các chính sách an dân”
tác giả có đề cập đến việc vua Gia Long ban chiếu đại xá, giảm thuế cho nhân dân
cả nƣớc: Trong chiếu đại xá, vua Gia Long tha hết thuế thiếu cho dân thiếu từ năm
trƣớc, các loại thế sản vật cũng đƣợc giảm từ ba đến bốn phần,…Trong công trình
này cũng có nhắc đến việc giảm thuế cho các thuyền buôn ngoại quốc.
Mặc dù đã xuất hiện một số công trình đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề
tha giảm thuế dƣới triều Nguyễn, tuy nhiên, nhìn chung các bài viết này hoặc chỉ
khảo cứu một vài triều vua, hoặc chỉ là phần nội dung minh họa cho việc nghiên
cứu một vấn đề khác. Cho đến hiện tại, vẫn chƣa có bất kì công trình chuyên sâu
nào đề cập đến vấn đề tha giảm thuế dƣới triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1883.
3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu trong đề tài này là việc tha giảm thuế của triều Nguyễn.
Đề tài nghiên cứu việc tha giảm thuế của triều Nguyễn trên phạm vi toàn quốc
trong thời gian là từ năm 1802 đến năm 1883, trải qua bốn đời vua Gia Long, Minh
Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm “khôi phục” lại “bức tranh toàn cảnh” về chính
sách tha giảm thuế của triều Nguyễn ở thế kỉ XIX. Trên cơ sở đó, bƣớc đầu đánh
giá ý nghĩa, tác dụng của nó cũng nhƣ cung cấp thêm cơ sở khoa học cho việc đánh
giá triều Nguyễn khách quan và toàn diện hơn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, tác giả luận văn cần phải thực hiện một số nhiệm vụ
nghiên cứu liên quan đến nội dung đề tài nhƣ sau:
Thứ nhất, trên cơ sở tham khảo nhiều nguồn tƣ liệu khác nhau, tác giả khái quát
tình hình Việt Nam dƣới triều Nguyễn và làm rõ cơ sở đề ra tha giảm thuế của
vƣơng triều này.
Thứ hai, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu tƣ liệu để làm rõ nguyên nhân,
thời điểm tha giảm thuế cũng nhƣ việc thực hiện chính sách này dƣới bốn triều vua
Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức. Từ đó, làm rõ ý nghĩa tác dụng của nó
đối với đời sống của nhân dân và rút ra các bài học quý giá cho việc hoạch định
chính sách thuế hiện nay của nhà nƣớc ta.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng hai phƣơng pháp chủ đạo trong
nghiên cứu sử học là phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp lôgic. Ngoài ra, chúng
tôi còn sử dụng một số phƣơng pháp khác phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá, hệ
thống và các phƣơng pháp liên chuyên ngành khác.
6. Nguồn tƣ liệu và đóng góp của đề tài
6.1. Nguồn tƣ liệu
Nguồn tƣ liệu chính đƣợc sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài là các thƣ
tịch của triều Nguyễn nhƣ Đại Nam thực lục,
4
hâm định Đại Nam hội điển sự lệ,
Châu bản triều Nguyễn....Ngoài ra, các giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo,
chuyên đề về lịch sử Việt Nam nói chung và triều Nguyễn nói riêng cũng là một
trong những kênh tham khảo quan trọng nữa.
6.2. Đóng góp của đề tài
Đề tài “Triều Nguyễn với vấn đề tha giảm thuế (1802 - 1883)” đƣợc nghiên cứu
hoàn thành sẽ có một số đóng góp sau đây:
Thứ nhất, “phục dựng” chính xác nhất có thể vấn đề tha giảm thuế của triều
Nguyễn giai đoạn 1802 - 1883, góp phần bổ sung một nội dung quan trọng nữa để
làm cho việc nghiên cứu về triều Nguyễn càng thêm toàn diện và hệ thống, từ đó,
hy vọng có thể giúp cho giới nghiên cứu có đƣợc thêm một cơ sở khoa học, nhằm
khách quan và công bằng hơn trong đánh giá vai trò của vƣơng triều Nguyễn đối
với lịch sử dân tộc.
Thứ hai, việc nghiên cứu đề tài này sẽ cung cấp một tƣ liệu chuyên sâu có giá trị
tham khảo, phục vụ cho công việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập của giảng viên
cũng nhƣ sinh viên khoa hoạc xã hội và nhân văn nói chung cũng nhƣ chuyên ngành
khoa học lịch sử nói riêng.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, cấu trúc của luận văn đƣợc
cấu tạo gồm 2 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở của việc tha giảm thuế dƣới triều Nguyễn (1802-1883)
Chương 2: Triều Nguyễn với vấn đề tha giảm thuế giai đoạn 1802-1883
5
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ CỦA VIỆC THA GIẢM THUẾ DƢỚI TRIỀU NGUYỄN
(1802-1883)
1.1. Hoạt động tha giảm thuế trƣớc triều Nguyễn
Nƣớc ta là một nƣớc có nền kinh tế nông nghiệp, chính vì vậy mà nông dân là
lực lƣợng dân cƣ chiếm gần 80% dân số cả nƣớc, luôn đóng vai trò quan trọng trong
lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc chăm lo đảm bảo ổn định đời sống nhân
dân luôn đƣợc các triều đại quân chủ quan tâm, thông qua việc ban hành các chủ
trƣơng, chính sách nhằm giúp cho nhân dân có cuộc sống tốt hơn cũng nhƣ khắc
phục những khó khăn mà nhân dân gặp phải. Điển hình vào thời đầu nhà Lý, ngay
sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ) đã thực hiện việc xá thuế cho nhân
dân [35]. Thông thƣờng việc ban ân điển giảm thuế sẽ đƣợc nhà nƣớc tiến hành khi
nhân dân gặp khó khăn do thiên tai lũ lụt, hạn hán làm mùa màng thất bát, dân thiếu
ăn. Đối với vị vua đầu thời Lý cũng không phải là ngoại lệ. Xá thuế cho nhân dân vì
ông muốn tỏ lòng thông cảm với cuộc sống đang rất khó khăn của nhân dân. Ông đã
ban ân tha thuế cho toàn dân cả nƣớc suốt ba năm liền, điều này đƣợc thể hiện
trong Đại Việt sử ký toàn thư: “Mùa Đông, tháng 12… đại xá thuế cho thiên hạ 3
năm, những người mồ côi, góa chồng, già yếu, thiếu thốn đã lâu, đều tha cho
cả” [5, tr.243].
Sang thời Trần, để phát triển kinh tế và ổn định đời sống nhân dân, nhà Trần
luôn có những chính sách củng cố nền nông nghiệp nhƣ cho đắp đê và làm thủy lợi.
Có khá nhiều kênh và sông đƣợc đào trong thời kì này nhƣ kênh Trầm, kênh
ào,
…Đặc biệt dƣới thời Trần, cơ quan chuyên trách đê điều với tên gọi à đê sứ đƣợc
thành lập tại các lộ phủ. Việc chăm lo là thế, nhƣng vẫn có những năm mùa màng
kém thu, dân phải chịu khổ bởi nạn lụt, nạn khô hạn. Thƣờng mỗi khi không đƣợc
mùa thì giá gạo sẽ tăng cao, có những năm tăng đến nổi giá trị của một con ngƣời
chỉ mua đƣợc 3 thăng gạo, nhiều ngƣời vì đói mà phải bán ruộng đất, có những
ngƣời vì không có ruộng nên phải bán cả con cái vào làm nô t trong nhà vua quan.
Trƣớc tình hình khó khăn nhƣ vậy, để giúp đỡ ngƣời dân phần nào vƣợt qua khó
khăn, nhà nƣớc luôn có những chính sách hƣớng về nhân dân nhƣ phát kho thóc
công để giải quyết nạn đói trƣớc mắt của nông dân cũng nhƣ xuống chiếu miễn
6
giảm thuế khóa cho dân đỡ phần nào gánh nặng: “Canh Dần năm thứ 6 (1290), đói
to, 3 thăng gạo trị giá 1 quan tiền, nhân dân nhiều người phải bán ruộng đất và bán
con trai con gái làm nô tỳ cho người khác, một người trị giá 1 quan tiền. uống
chiếu phát thóc công để chẩn cấp dân nghèo và miễn thuế nhân đinh” [35].
Thậm chí, có những khi sự cứu trợ bằng thóc công nhà nƣớc cũng không đủ,
triều đình phải kêu gọi những nhà giàu đem thóc ra cứu dân. Thời Trần Dụ Tông
hoàng đế (Mậu Tuất), sử chép: “Đại Trị năm thứ 1 (1358). Từ tháng 3 cho đến mùa
thu tháng 7, đại hạn và sâu ăn l a; cá chết nhiều. Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu
khuyên các nhà giàu ở các lộ bỏ thóc ra chẩn cấp cho dân nghèo, quan tư sở tại
tính xem số thóc đã quyên ra bao nhiêu trả lại bằng tiền”[5, tr.585]. Nhà nƣớc còn
khuyến khích việc đó bằng cách ban tƣớc phẩm cho những ngƣời dâng thóc để phát
chẩn cho dân nghèo (năm 1361).
Trong qui định về thu thuế, nhà Trần qui định hai loại thế chính là thuế thân và
thuế điền. Trong thuế điền, nhà nƣớc có qui định những ai có ruộng dƣới một mẫu
thì không phải nộp thuế, dân đinh cùng khổ đều đƣợc ân điển miễn thuế. Theo nhƣ
ghi chép trong Lịch triều hiến chƣơng loại chí:“ Trần Thái Tông năm Thiên Ứng
Chính Bình thứ 11 (1242), định lệ điền ph . Nhân đinh người nào có ruộng thì nộp
tiền và thóc. Không có ruộng đất thì được miễn” [12, tr. 99].
Năm 1400, ồ Quý Ly giành đƣợc quyền lực từ tay nhà Trần. Lên ngôi sau một
năm thì
ngôi, Hồ
ồ Quý Ly truyền ngôi cho con trai thứ là Hồ
án Thƣơng. Sau khi lên
án Thƣơng xem xét vấn đề thu thuế của các vua trƣớc đó và đổi định lại
đối với những khoản thuế, để phù hợp với tình hình đất nƣớc bấy giờ. Trong việc
định lại thuế tô và thuế ruộng thì ông phân ra rõ từng hạng để thuận tiện khi thu
thuế; ông cũng xét thấy thuế thu lúc này khá cao, nhân dân không tránh khỏi khó
khăn nên ông đã cho giảm thế đối với thuế ruộng và thuế tô. Sử liệu có ghi chép:
“Năm 1402, định lại các loại thuế tô và thuế ruộng, trước thu mỗi mẫu 9 quan hoặc
7 quan tiền, nay thu hạng thượng đẳng mỗi mẫu 5 quan tiền giấy, hạng trung đẳng
mỗi mẫu 4 quan tiền giấy, hạng hạ đẳng mỗi mẫu 3 quan tiền giấy” [24, tr.42].
Trong nội dung định lại thuế ruộng và thuế tô, Hồ
án Thƣơng đã có nội dung
trong đó đã thể hiện đƣợc chính sách khoan hồng đối với nhân dân là những ngƣời
đinh nam không có ruộng, trẻ mồ côi và đàn bà góa có ruộng đều đƣợc miễn nộp
7
thuế [33]. Dƣới thời Hồ, một cải cách kinh tế quan trọng khác là đổi mới việc thực
hiện chính sách thuế. Xuất phát từ tình hình tài chính cuối triều Trần rất khó khăn,
do số lƣợng công điền giảm thiểu đáng kể nên nguồn thu nhập quốc dân từ thuế
cũng giảm xuống. Hồ Quý Ly đã ban hành “Thuế pháp”. Đây là chính sách thuế
xây dựng theo hƣớng “ hoan thƣ sức dân” tức là giảm thuế đối với ngƣời có ít
ruộng đất canh tác, trồng trọt; đối với loại đất trồng dâu và thuế đinh, đã có sự chi
tiết hơn trong mức thu thuế và cũng hoàn toàn thấp hơn mức thuế đƣợc thu dƣới
triều Trần. Chính sách thuế này của ông đã bắt đầu kích thích kinh tế nông nghiệp
phát triển hơn so với giai đoạn trƣớc.
Dƣới thời nhà Mạc cũng đã có sử liệu ghi chép về việc tha thuế cho dân chúng.
Vua Mạc thƣờng quan tâm đến những ngƣời dân phải chịu đau khổ do loạn lạc,
chiến tranh không có tải sản và dân lƣu tán- tức những ngƣời phải rời bỏ quê hƣơng
vì những lí do nào đó mà phải đi tha phƣơng, lƣu lạc. Trong Đại Việt sử ký toàn
thƣ có nghi rõ về vấn đề này: “Vua Mạc là Mạc Mậu Hợp, năm Quý Dậu (1573), đã
ban chiếu mệnh gồm sáu việc, trong đó có hai việc liên quan đến tha thuế: 1. Người
dân nào bị nạn binh lửa mà không có hằng sản đều tha tạp dịch; 2. Dân nghèo xiêu
giạt cho về bản quán, tha cho thuế dịch” [5, tr.609].
Nối tiếp các chính sách tha giảm thuế khóa của các triều đại trƣớc, khi Lê Lợi
lập nên nhà
ậu Lê, ngay từ năm đầu trị vì của mình (1428) ông đã xuống chiếu
ban ân tha thuế cho dân cả nƣớc. “Lê Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ nhất (1428),
xuống chiếu tha trong 2 năm các thứ thuế ruộng, đầm, bãi dâu, các lộ người già từ
70 tuổi trở lên được miễn sai dịch” [12, tr.99]. Dƣới thời Thái Tông, ông cũng
thƣờng xuyên thể hiện sự khoan hồng của mình trong việc định các ngạch thuế. Vào
năm 1441, vua Thái Tông nhận thấy nhân dân ở một số địa phƣơng đất đai khô cằn,
kém màu mỡ, gây khó khăn trong việc canh tác. Nhà vua đã cho ban hành các chính
sách tích cực: “Những nơi bãi dâu không cấy được l a thì cấp cho hạng quân mỗi
người 5 sào, hạng dân mỗi người 4 sào làm thường nghiệp, được miễn thuế”[12,
tr.99]. Chính sách miễn thuế phù hợp này đã góp phần giúp đời sống nhân dân trở
nên tốt hơn. Bên cạnh đó, việc cấp phát những bãi dâu không cày cấy đƣợc lúa cho
hạng quân và hạng dân giúp đất nƣớc ta tận dụng đƣợc triệt để những phần đất đai
kém màu mỡ, không phù hợp cho việc trồng lúa để phục vụ cho những mục đích
8
khác, không để phung phí. Việc ban hành những chính sách phát triển kinh tế tích
cực của vua Thái Tông không những cho thấy đƣợc nhà vua có tấm lòng cao cả,
biết yêu thƣơng, chăm lo cho đời sống của nhân dân, mà còn thể hiện đƣợc tầm
nhìn xa trông rộng, biến cái nhƣợc điểm trở thành cái ƣu điểm, phục vụ cho nền
kinh tế của nƣớc nhà.
Sang đến Lê Huyền Tông - vị hoàng đế thứ tám của nhà Lê Trung
ƣng, năm
1664, ông đã cho bãi bỏ các thuế tuần ty. Bấy giờ các tuần ty ở đƣờng thủy, đƣờng
bộ trong các xứ hạch sách tiền gạo của khách đi đƣờng quá lạm, mới sai triệt bỏ hết
cả không lấy thuế nữa. Vua Huyền Tông đã xác định rằng nơi quan ải và chợ chỉ
kiểm soát ngƣời qua lại chứ không đánh thuế, để cho buôn bán đƣợc lƣu thông, đi
lại đƣợc thuận tiện [12, tr.147]. Cũng trong thời gian trị vì của mình, vua Lê Huyền
Tông đã chuẩn định lệ thuế khóa rất kĩ càng. “Thuế thân chỉ thu với tráng hạng,
ngoài ra miễn cả, thì dân không đến nổi khổ vì sự cung nộp lên trên; thuế ruộng chỉ
thu ruộng công, không thu ruộng tư, thì dân được vui lòng với công việc đồng áng.
Thực là chính sách thương dân… [12, tr.104].
Ở Đàng Trong thế kỷ XVII-XVIII, về lệ thu thuế thóc ở xứ Thuận óa đƣợc qui
định rất rõ ràng, ngoài thuế thóc tô dân phải nộp, từ năm Cảnh
ƣng Quí Tỵ trở về
trƣớc có ghi về số thuế thóc đƣợc miễn trừ không phải nộp. Sử liệu trong Phủ biên
tạp lục có ghi: Huyện Hương Trà, thóc tô theo lệ là 52 vạn 7 nghìn 670 thưng 6
cáp, trừ được miễn thóc thực thu 46 vạn, 9 nghìn, 459 thưng 9 cáp;lại thóc thu thêm
57 thưng và Huyện Quảng Điền, thóc tô theo lệ là 49 vạn 6 nghìn, 670 thưng 1 cáp,
trừ được miễn, thóc thực thu còn 48 vạn 1 nghìn 591 thưng 1 cáp,... [3, tr.166].
Cũng nhƣ trƣớc đó, các hạng ruộng bỏ hoang, đất mạ, đất nhà ở, đất bị cát lấp…. thì
sẽ đƣợc liệt vào hạng miễn thuế. Nhƣ vậy, tất cả đất đƣợc miễn trừ ở Thuận Hóa là
514 mẫu 2 sào 5 tấc, còn lại là 5.980 mẫu 1 sào 12 thƣớc 4 tấc,...[3, tr.166].
Trong năm
ỷ Sửu, về lệ nộp cót của các huyện xứ Thuận Thóa, các ruộng cấp
lƣơng sẽ đƣợc miễn không phải nộp thuế nhƣ huyện
ƣơng Trà, trừ ruộng cấp
lƣơng đƣợc miễn còn thu 296 tấm,..hay huyện Quảng Điền, trừ ruộng cấp lƣơng
đƣợc miễn còn thu 189 tấm....[3, tr.182]. Cũng ở xứ Thuận Hóa, lệ cũ của k duyệt
tuyển làm sổ phân biệt rất rõ ràng gồm có chính hộ và khách hộ. Trong đó, chính hộ
thì thuế nhẹ, khách hộ thì thuế nặng. Đối với chính hộ, con cháu quan viên, mỗi
9
ngƣời nộp tiền sai dƣ 1 quan…, còn với khách hộ, con cháu quan viên, mỗi ngƣời
nộp tiền sai dƣ 3 quan....[3, tr.200]. Còn nhƣ các hạng lánh ngoại tiêu sai và các
hạng lão nhiêu, đật đốc, khách hộ phụ, cùng, đào, các tiền đều đƣợc miễn nộp thuế
[3, tr.201]. Xứ Thuận Hóa, chỉ có 5 huyện
ƣơng Trà, Quảng Điền, Phú Vinh,
Đăng Xƣơng, ải Lăng là các hạng chính hộ. Còn huyện Minh Linh đƣợc miễn tiền
tết. Hai huyện Khang Lộc, Lệ Thủy đƣợc miễn tiền thƣờng tân và tiền tết; về huyện
Khang Lộc thì lệ lại hơi giảm, hạng dân nộp tiền 1 quan 4 tiền, hạng lão 1 quan 6
tiền,....Châu Nam Bố Chính chỉ có tiền sai dƣ, đƣợc miễn các tiền gạo cƣớc, thƣờng
tân, tết, hạng đào không phải nộp vì phải đắp trƣờng lũy khó nhọc, cho nên đƣợc
khoan miễn [3, tr.203]. Với xứ Quảng Nam, trong việc nộp sƣu thuế thì có phần
nặng hơn ở Thuận Hóa. Tuy nhiên, ở nơi này cũng có những qui định về lệ miễn
sƣu thuế nhƣ ở phủ Gia Định đặt đội Ô Tất (sơn đen) 11 thuyền, các hạng cộng 500
ngƣời, chia làm 3 hạng: hạng quân, hạng lão, hạng mới về,..ba hạng ấy lúc không có
việc thì làm dân, nộp sƣu thuế, lúc có việc thì làm binh, đều đƣợc miễn sƣu thuế
[3, tr. 289].
1.2. Tình hình Việt Nam dƣới triều Nguyễn (1802 -1883)
1.2.1. Kinh tế
Nông nghiệp: Dƣới triều Nguyễn, nông nghiệp vẫn là nền kinh tế chủ yếu của
nƣớc ta lúc bấy giờ, nhƣng ruộng đất công còn lại rất. Năm 1804, vua Gia Long ban
phép quân điền nhƣng không mang lại hiệu quả. Năm 1839, Vua Minh Mạng thực
hiện chia lại ruộng đất ở Bình Định (yêu cầu những ngƣời có nhiều ruộng đất trả lại
cho nhà nƣớc) nhƣng kết quả mang lại cũng không khả thi. Để tăng diện tích canh
tác, giải quyết khó khăn cho hoạt động nông nghiệp, nhà Nguyễn bắt đầu quan tâm
đến công việc khai hoang, phục hóa xây ấp, lập đồn điền. Từ 1802 đến 1855, nhà
nƣớc ban hành nhiều quyết định về khai hoang với nhiều hình thức. Hình thức
doanh điền là kết hợp nhà nƣớc với nhân dân trong khai hoang, ruộng đất sau khi
khai hoang sẽ phân phối cho ngƣời có công. Hai công thần có có công lớn trong vấn
đề khai hoang lập ấp là Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phƣơng. Với chủ trƣơng
lập đồn điền nhằm “giữ giặc, yên dân” của Nguyễn Tri phƣơng, ông đã cho hàng
nghìn dân nghèo từ Quảng Nam trở vào đƣợc đến Nam K để khai hoang lập ấp.
Kết quả là “ tính đến 1854 ở đây đã xây dựng được 124 ấp, với 21 cơ. Cụ thể là Gia
10
Định 6 cơ, An Giang 2 cơ, Định Tường 3 cơ, Vĩnh ong 7 cơ, Hà Tiên 2 cơ. Riêng
An Giang năm 1858 đã lập được 23 ấp” [6, tr.18-19]. Ngoài ra, triều đình nhà
Nguyễn còn khuyến khích nhân dân tự do khai hoang kết hợp phục hóa. Việc đinh
điền cũng có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn. Tổng số đinh toàn quốc là
970.516 suất và 4.063.892 mẫu ruộng đất [6, tr.421]. Nhờ chính sách khai hoang mà
diện tích đất tăng lên nhanh chóng. “Nếu năm 1847, tổng diện tích đất trực trung đo
đạc được là 4,2 triệu mẫu thì đến giữa năm 1860 diện tích đó đã tăng đến 4,6 triệu
mẫu. Tính riêng ở Nam kỳ, trong khoảng 10 năm từ 1881 đến 1890 diện tích đất đã
tăng thêm khoảng 300.000 ha (tức từ 1.192.404 mẫu = 596.202 ha lên 932.000 ha)”
[6, tr 19-20].
Bên cạnh đó, công tác trị thủy đƣợc triều đình nhà Nguyễn rất quan tâm, nhiều
lần cấp kinh phí sữa chữa đê điều, đào vét sông và dƣới triều Nguyễn đã có đến 8
công trình trị thủy đƣợc xây dựng nhƣ trị thủy sông
ồng, sông đào Châu Đốc,
sông Vĩnh Điện… Trong “ hâm định Đại Nam hội điện sựlệ có ghi 60 lần các vua
triều Nguyễn ban hành chỉ dụ về đào sông, nạo vét sông ngòi. Các vua triều Nguyễn
cũng cho đặt các chức quan chuyên chăm lo việc đê điều, “năm 1809, Gia ong cho
đặt các chức Tổng lí và Tham lí đê chính lo việc đê điều ở Bắc thành; năm 1028
theo đề nghị các quan, Minh Mạng cho thành lập Nha Đê chính gồm nhiều quan
chức và thơ lại, phụ trách công tác thủy lợi” [29, tr.449]. Mặc dù những chính sách
của triều Nguyễn góp công to lớn cho nền nông nghiệp lúc bây giờ, nhƣng thiên tai
vẫn xảy ra thƣờng xuyên nên vỡ đê, hạn hán, lũ lụt vẫn cứ tiếp diễn. Để giúp đỡ cho
nhân dân phần nào khó khăn, triều đình thƣờng phải giảm thuế, miễn thuế và phát
chẩn. Vua Minh Mạng đã định lại phép quân cấp ruộng khẩu phần, quan lại, binh
lính, công tƣợng (thợ làm quan xƣởng) cùng các hạng dân đinh, phẩm trật cao thấp
đều có khẩu phần, nhƣng quan lại, cƣờng hào giành đƣợc những phần tốt hơn.
Ngƣời già, ngƣời tàn tật thì đƣợc nửa phần. Cô nhi, quả phụ đƣợc một phần ba
[1, tr.457].
Nhìn chung kinh tế nông nghiệp thời Nguyễn đã có bƣớc phát triển nhất định,
góp phần ổn định xã hội nhƣng vẫn không vƣợt qua phƣơng thức sản xuất cổ
truyền.
11
Thủ công nghiệp: Bộ phận thủ công nghiệp nhà nƣớc triều Nguyễn giữ vai trò
quan trọng trong việc chế tạo một số trang thiết bị cung cấp cho bộ máy nhà nƣớc
nhƣ: đóng thuyền, đúc súng, đúc tiền,….Một số nghề thủ công đã có xu hƣớng tách
khỏi nông nghiệp để hình thành những làng nghề hay phố nghề nhƣ: nghề gốm,
nghề dệt, nghề đúc, làm giấy….Vũ khố là cơ quan quản lí thủ công nghiệp nhà nƣớc
gồm 57 cục [40]. Các xƣởng thủ công nhà nƣớc đƣợc hình thành gọi là quan xƣởng,
thợ thủ công làm theo nghĩa vụ lao dịch. Triều Nguyễn đã có ý thức cho ngƣời đi ra
nƣớc ngoài để học tập kinh nghiệm và kĩ thuật tiên tiến của phƣơng Tây trong việc
đóng tàu và đúc vũ khí. Ngƣời có công lớn trong việc học tập kĩ thật nƣớc ngoài là
Đặng Huy Trứ, ông đã hai lần qua lại
ƣơng Cảng và Macao, bí mật mua súng và
vận động thợ Việt Nam đóng tàu chạy bằng hơi nƣớc [6, tr.24]. Năm 1839, các thợ
công xƣởng đã làm thành công thuyền chạy bằng hơi nƣớc. Vấn đề khai thác mỏ
cũng đƣợc nhà nƣớc quan tâm, giai đoạn này các mỏ tiếp tục đƣợc khai thác với
nhiều hình thức. Thời Minh Mạng xuất hiện một trƣờng hợp đáng lƣu ý là Chu
Mạnh Hổ.
Đặc biệt, chính sách của nhà nƣớc đối với thủ công nghiệp thể hiện sự tập trung
nhất trong chế độ công tƣợng nhằm thiết lập và điều hành các công xƣởng thủ công
và chế độ thuế với thủ công nghiệp tƣ nhân. Chế độ công tƣợng của triều Nguyễn
đã buộc chặt ngƣời thợ thủ công và con em của họ vào nghề nghiệp để phục triều
đình, tuy làm việc cực nhọc nhƣng trình độ tay nghề cao nên các sản phẩm làm ra
đều có chất lƣợng tốt. Nhìn chung nhà Nguyễn đã xây dựng đƣợc một hệ thống
công xƣởng, tiếp tục phát triển một số làng nghề thủ công trong nhân gian.
Thương nghiệp: Nửa đầu TK XIX, có những điều kiện thuận lợi cho sự giao lƣu
buôn bán trong các vùng trong nƣớc. Đất nƣớc thống nhất, yên bình, chất lƣợng
thuyền bè cùng ngày đƣợc nâng cao, tuyến đƣờng thông thƣơng từ Nam ra Bắc
thuận lợi hơn, vấn đề an ninh đảm bảo việc buôn bán trong các chợ làng, chợ huyện
đƣợc nhà nƣớc chăm lo và phát triển hơn trƣớc. Chính sách thƣơng nghiệp của nhà
Nguyễn trong thời kì này là “trọng nông ức thương”, vì vậy thƣơng nghiệp không
thể phát triển tự do, kèm theo đó là chính sách thuế khóa với thể lệ nghiêm ngặt
phức tạp. Chính vì vậy, thƣơng nghiệp bấy giờ bị hạn chế phát triển. Việc trao đổi
buôn bán với thƣơng nhân nƣớc ngoài cũng suy giảm, nhà Nguyễn nắm độc quyền
12
ngoại thƣơng, tổ chức các hoạt động buôn bán trong nƣớc. Trong hoạt động giao
thƣơng với các nƣớc phƣơng Tây, chỉ có một cửa biển ở Đà Nẵng cho tàu thuyền
phƣơng Tây vào buôn bán. So với các nƣớc trong khu vực thì qui mô hoạt động
ngoại thƣơng dƣới Triều Nguyễn còn nhiều hạn chế, mặt hàng chủ yếu đem bán là
gạo, đƣờng và lâm sản quí, mặt hàng mua về là vải vóc, đạn dƣợc và vũ khí.
1.2.2. Chính trị
Nhà Nguyễn ra đời vào năm 1802 khi Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn thiết lập nên
vƣơng triều Nguyễn. Đây đƣợc xem là sự kiện kết thúc và hoàn thành công cuộc
thống nhất đất nƣớc của dân tộc ta. Sau khi lên ngôi Nguyễn Ánh đặt niên hiệu Gia
long, chọn Phú Xuân làm kinh đô. Nhà nƣớc quân chủ tập quyền đƣợc củng cố từ
trung ƣơng đến địa phƣơng. Sự thống nhất quốc gia, sự củng cố quyền lực của triều
Nguyễn là điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc trong
một thời kì lịch sử với nhiều biến động. Chính vì vậy, trải qua các đời vua Gia Long
( 1802 – 1819), Minh Mạng (1820 – 1840), Thiệu Trị (1841 – 1847), Tự Đức (1848
– 1883), triều Nguyễn đã không ngừng xây dựng và củng cố nền thống trị, bảo vệ
chế độ quân chủ.
Về tổ chức bộ máy nhà nước: Ở chính quyền trung ƣơng, vua đứng đầu triều
đình, có quyền lực tối cao và trực tiếp giải quyết mọi công việc hệ trọng của đất
nƣớc. Có các cơ quan trợ giúp cho vua nhƣ có Văn thƣ phòng (năm 1829 đổi là Nội
các), chuyên về giấy tờ, văn thƣ và ghi chép. Tứ trụ Đại thần, đảm đƣơng những
việc quân cơ đại sự, tới năm 1834 gọi là viện Cơ mật. Bên cạnh đó còn có Tông
nhân phủ lãnh nhiệm các công việc của Hoàng tộc. Bên dƣới, triều đình lập ra sáu
bộ là Lại, Hộ, Lễ, Binh,
ình, Công. Thƣợng Thƣ đứng đầu mỗi bộ, có vai trò chỉ
đạo các công việc chung của Nhà nƣớc [25, tr.33].
Đến Minh Mạng, tổ chức bộ máy nhà nƣớc đƣợc hoàn thiện chặt chẽ hơn, ngoài
6 bộ còn có các viện. Đô sát viện (tức là Ngự sử đài bao gồm 6 khoa) mang trọng
trách thanh tra quan lại, Hàn lâm viện phụ trách các sắc dụ, công văn, phủ Nội vụ
trông coi các kho tàng, Quốc Tử giám quản lí mảng giáo dục, Thái Y viện thực hiện
việc chữa bệnh và thuốc thang,… cùng với một số Ti và Cục khác [36]. Đặc biệt để
kiểm soát quyền lực của quan lại từ các chức cao của chính quyền trung ƣơng đến
các tỉnh phủ huyện với mục đích “trong ngoài nhất thể”, Minh Mạng đã sai đình
13
thần biên soạn bộ sách lấy tên là Bách ty chức chế [36]. Chỉ dụ ban hành sách này
thể hiện quyết tâm của vua Minh Mệnh muốn tổ chức hoạt động hành chính nhà
nƣớc thành phép tắc, có tính chuyên trách và làm chuẩn mực cho đời sau: “Đường
lối trị nước phải có thể chế chủ yếu, nêu rõ điển tắc để giữ lấy mà theo mãi mãi. Bộ
sách này mới được sửa lại một lần dẫu chưa mười phần hoàn bị nhưng trong đó
phân từng ngành chia từng mối, cũng có thề đem thi hành được. Vậy ra lệnh cho bộ
lại sao chép cho các nha môn trong kinh ngoài trấn tuân theo” [36].
Đối với chính quyền địa phƣơng, thời Gia Long đất nƣớc đƣợc chia thành Bắc
Thành và Gia Định thành do các Tổng trấn thay mặt
oàng đế quyết định mọi việc
và các trực doanh triều đình trực tiếp quản lí. Lúc mới lên ngôi, Gia Long kế thừa
đơn vị hành chính và tên gọi của chúa Nguyễn ở Đàng Trong và Lê – Trịnh ở Đàng
Ngoài. “Chia nước ra làm 23 trấn, 4 dinh. Bốn dinh cho đất trực lệ kinh kì ở Quảng
Bình, Quảng Trị, Quảng Đức, Quảng Nam. Dinh (doanh) là tên gọi đơn vị hành
chính trực thuộc trung ương thời chúa Nguyễn. Bắc thành có 11 trấn là Sơn Nam
Thượng, Sơn Nam Hạ, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, Tuyên Quang, Hưng Hóa,
Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên. Trấn là đơn vị hành chính trực
thuộc chính quyền trung ương thời Lê – Trịnh. Gia Định thành có 5 trấn là Phiên
An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên. Trực thuộc triều đình trung ương
ngoài 4 dinh còn có 7 trấn ở miền Trung là Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nghĩa,
Bình Định, h Yên, Bình Khương và Bình Thuận” [2, tr.145-146]. Đứng đầu mỗi
thành là một Tổng trấn, đứng đầu mỗi trấn là trấn thủ, đứng đầu mỗi dinh là lƣu thu.
Năm 1831-1832, Minh Mạng thực hiện cuộc cải cách hành chính, vua cho đổi các
tổng trấn, dinh, trấn hợp nhất trong đơn vị tỉnh. Năm 1831, Minh Mạng đổi các trấn
từ Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh và vùng còn lại ở phía Nam đƣợc chia làm 12
tỉnh. Thừa Thiên, nơi có kinh đô Phú Xuân, trực thuộc Trung ƣơng. Toàn quốc bao
gồm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên [37]. Đứng đầu là tổng đốc, tuần phủ của triều đình.
Dƣới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã.
Minh Mạng đã xác định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm,
mỗi phẩm chia ra chánh và tòng 2 bậc. Lúc đất nƣớc ổn định quan võ phải
dƣới quan văn cùng phẩm với mình; còn khi có binh biến thì ngƣợc lại. Quan Tổng
đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa chỉ huy quân lính của tỉnh. Bộ máy quan lại không
14
quá nặng nề, nhƣng nhà Nguyễn vẫn đau đầu bởi nạn tham nhũng. Tổng đốc đứng
đầu tỉnh (mỗi ngƣời phụ trách 2 - 3 tỉnh và chuyên trách 1 tỉnh) và Tuần phủ (dƣới
Tổng đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh). Có các cơ quan hỗ trợ nhƣ Bố chánh sứ ti lo về thuế
khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát sứ ti lo về an ninh, luật pháp, còn lãnh binh đảm
đƣơng mặt quân sự [37]. Dƣới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của
triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do ngƣời dân tự lựa chọn cử
ra quản trị. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do
đồng
ội
dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.
Đối với miền núi và địa bàn sinh sống của những tộc ngƣời thiểu số, Minh Mạng
thực hiện nhất thể hóa hành chính đồng loạt với miền xuôi. Sau đó, Minh Mạng còn
đặt thêm một chức lƣu quan do ngƣời
inh nắm giữ để khống chế các vùng này tốt
hơn và tiến hành thu thuế nhƣ ở miền xuôi. Tuy nhiên, do phản ứng của ngƣời dân
địa phƣơng, vua Tự Đức đã bãi bỏ chế độ này [37].
Để đề cao hơn nữa quyền lực của nhà vua, nhà Nguyễn đặt lệ “tứ bất" (nhƣng
không ghi thành văn bản), tức là: không đặt tể tƣớng, không lập hoàng hậu, không
lấy trạng nguyên trong thi cử, không phong tƣớc vƣơng cho ngƣời ngoài họ vua.
Các chức tam Thái, tam Thiếu trở thành vinh hàm gia phong cho các đại thần.
Về luật pháp, với tình hình đất nƣớc bấy giờ đầy rẩy những loạn lạc, chƣa đƣợc
ổn định, vì vậy, yêu cầu trƣớc mắt và lâu dài buộc Gia Long phải nhanh chóng lập
lại trật tự, ổn định đất nƣớc.Sự ổn định đó phải đƣợc thực hiện bằng việc xây dựng
một bộ máy nhà nƣớc quân chủ chuyên chế cao độ với mọi quyền lực đều thuộc về
tay nhà Nguyễn và phải dùng pháp luật làm công cụ để thực hiện sự thống trị giai
cấp, một yếu tố không thể thiếu để đảm bảo sự tồn tại vững chắc của triểu Nguyễn.
Vì vậy, năm 1811, vua Gia Long lệnh cho tổng trấn Bắc Thành – Nguyễn Văn
Thành chủ trì biên soạn một bộ luật mới. Đến năm 1815, bộ luật mới đƣợc ban
hành, mang tên oàng Việt luật lệ (hay còn gọi là luật Gia Long). Bộ luật này gồm
398 điều chia làm 7 chƣơng và chép trong một bộ sách gồm 22 cuốn. Trong Lời tựa
của bộ luật oàng Việt luật lệ, Gia Long đã phải thừa nhận: “gặp l c phong hóa suy
đồi, kẻ gian giảo ngày một sinh sôi nảy nở, pháp luật trừng phạt không đủ để chế
ngự điều ác, các điều luật xử tội kẻ gian manh không đủ để ứng dụng. Cho nên luật
lệ, pháp lịnh, quy thức nay cần phải gia tăng nhanh chóng” [7, tr.2]. Nội dung của
15
oàng Việt Luật Lệ chủ yếu dựa trên bộ luật của nhà Thanh và tham chiếu, khảo
xét bộ luật
ồng Đức. Trong 398 điều thì có đến 397 điều chép lại Đại Thanh luật
lệ. Chƣơng “ ình luật” chiếm tỉ lệ lớn, đến 166 điều, trong khi những chƣơng khác
nhƣ “ ộ luật” chỉ có 66 điều còn “Công luật” chỉ có 10 điều. Trong bộ luật có một
số điều luật khá nghiêm khắc, nhất là về các tội phản nghịch, tội tuyên truyền “yêu
ngôn, yêu thƣ”, và tệ tham nhũng. Những vị vua sau này đã chỉnh sửa và cải tiến
luật Gia Long, đặc biệt là vua Minh Mạng. Bộ luật này nhìn chung dùng để củng cố
quyền lực, uy quyền của oàng đế cũng nhƣ triều đình, cách xử phạt khá hà khắc.
Quân đội của triều Nguyễn gồm nhiều binh chủng đƣợc cải cách nhất định và
khá mạnh so với nhiều nƣớc trong khu vực. Về số lƣợng, đội quân thƣờng trực của
nhà Nguyễn khá đông. Theo “Đại Nam thực lục”, số quân vào cuối thời Gia Long
(1820) là hơn 204.220 ngƣời đến cuối đời Minh Mệnh (1840) đã tăng 212.090
ngƣời [31]. “Ước tính các loại là 4 vạn bộ binh bảo vệ Triều đình Trung ương,
15.000 thủy binh và 10 vạn biền binh. Ngoài ra còn có một đạo tượng binh mạnh
(riêng ở kinh thành có 105 thớt voi với 500 quân, Bình Định có 15 thớt voi với 223
quân…) và một lực lượng pháo binh lớn (các thành, tỉnh đều có đại bác: Hà Nội
150 cỗ, Nam Định, Hải Dương, Sơn Tây, Bắc Ninh đều có 200 cỗ v.v… các thành
phủ, huyện cũng đặt đại bác…), thêm một số quân dùng súng tay.” [23, tr.440]. Vũ
khí tuy chƣa đạt trình độ kỹ thuật cao, còn các loại vũ khí cổ truyền – gƣơm, giáo,
cung tên, súng hỏa mai, song cũng có nhiếu cải tiến, nhất là tàu thuyền và đại bác.
Về thuyền máy chạy bằng hơi nƣớc và thuyền bọc đồng triều Nguyễn cũng đầu tƣ
trang bị nhiều loại khác nhau [31].
Về thủy binh, thời Nguyễn có 6 vệ thủy quân đóng ở kinh đô, ngoài ra còn có
thủy quân đƣợc trang bị đại bác đóng trong đồn lũy ở các tỉnh ven biển, nhất là ở
các hải cảng những nơi xung yếu. Chỉ riêng dƣới thời Gia Long số thủy quân đã lên
tới 17. 000 ngƣời với 3 chiến thuyền kiểu phƣơng Tây, 100 chiến thuyền lớn đƣợc
trang bị máy bắn đá và đại bác, 200 chiến thuyền nhỏ bọc đồng mội thuyền đƣợc
trang bị 16 – 20 đại bác; 500 chiến thuyền nhỏ hơn có máy bắn đá và một đại bác
[31].
Về bộ binh thì khá hoàn chỉnh. Đội quân thƣờng trực đông hàng mấy vạn ngƣời
đƣợc tuyển lựa theo chế độ binh dịch. Theo quy định, cứ 3 – 4 suất đinh thì lấy một
16
- Xem thêm -