Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi – thực trạng và các biện pháp trợ giúp....

Tài liệu Trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi – thực trạng và các biện pháp trợ giúp.

.DOCX
16
165
109

Mô tả:

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM MỞ ĐẦU Trẻ em, đối tượng cần được quan tâm đặc biệt do sự non nớt về mặt thể chất và tinh thần, chúng cần được sự bảo vệ của những người trong gia đình và xã hội. Bên cạnh đó trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn có nhiều thiệt thòi hơn vì chúng có khuyết tật về mặt thể chất và tinh thần so với trẻ em cùng lứa tuổi khác, chính vì điều đó chúng cần được sự quan tâm đặc biệt hơn. Bài viết xin được tìm hiểu khái quát nhất về Trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi – Thực trạng và các biện pháp trợ giúp. NỘI DUNG I. Những quy định chung của pháp luật 1. Khái niệm trẻ em - Theo công ước về quyền trẻ em : “ trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em có qui định tuổi thành niên sớm hơn” - Pháp luật Việt Nam chưa có các qui định thống nhất về khái niệm trẻ em trong từng ngành luật cụ thể. Theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2005 của Việt Nam : “trẻ em qui định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Theo BLDS 2005 thì trẻ em là những người dưới 15 tuổi…. - Theo pháp luật liên bang của Hoa kỳ thì “trẻ em là người dưới 18 tuổi” Nhìn chung mỗi nước có qui định khác nhau về độ tuổi để được coi là trẻ em. Việc qui định độ tuổi ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý của trẻ em ở mỗi quốc gia. Do đó có những quốc gia qui định độ tuổi thành niên sớm hơn hoặc trể hơn 18 tuổi như được xác định trong công ước về quyền trẻ em. HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 1 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM Tuy độ tuổi được coi là trẻ em ở mỗi quốc gia khác nhau nhưng nhìn chung trẻ em ở tất cả các quốc gia đều có các đặc điểm sau: - Thể chất và trí tuệ chưa trưởng thành. - Cần có sự chăm sóc, giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội cả về mặt pháp lý. 2. Trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi 2.1. Những quy định của pháp luật  Pháp luật quốc tế Cơ sở pháp lý: Điều 20 và 21 Công ước quốc tế về quyền trẻ em . Nội dung: “Trẻ em tạm thời hoặc hoàn toàn không được sống trong môi trường gia đình hoặc vì lý do ảnh hưởng đến lợi ích của một cá nhân không được quyền tiếp tục sống trong môi trường gia đình sẽ có quyền được nhận sự trợ giúp và bảo vệ đặc biệt của Nhà nước” (k1 Đ 20 Công ước về quyền trẻ em) Nguyên nhân khiến trẻ em mồ côi, không nơi nương, bị bỏ rơi tựa là do cha mẹ chết trong tai nạn, bệnh tật, chết trong thiên tai, chiến tranh hay mất tích trong các vụ thiên tai, lũ lụt, hay cha mẹ vì lý do nào đó không nuôi dưỡng chúng, vứt bỏ chúng, hoặc bị thất lạc…. Theo điều 20 qui định, “Các nhà nước thành viên tùy theo luật pháp của quốc gia mình đảm bảo việc chăm sóc bảo vệ cho những trẻ em như vậy.” Tại khoản 3 của điều 20 cũng đưa ra các phương thức giúp đỡ đối với nhóm trẻ em này: “Việc chăm sóc trẻ em bao gồm các hình thức trong đó có hình thức nuôi dưỡng kafalah theo luật pháp của đạo Hồi, nhận làm con nuôi hoặc nếu cần thiết đưa vào các trung tâm chăm sóc trẻ em thích hợp. Trong quá trình xem xét lựa chọn phương án, cần phải tính đến nguyện vọng được giáo dục, dạy dỗ lien tục và cơ sở nền tảng về ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo và dân tộc của trẻ em”. HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 2 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM Một trong những phương thức giúp đỡ hữu hiệu đối với nhóm trẻ em này việc cho nhận con nuôi và điều đó đã được Điều 21 của Công ước đã điều chỉnh bằng cách quy định thẩm quyền cho phép nhận con nuôi, điều kiện mà người nhận con nuôi phải tuân thủ…  Pháp luật Việt Nam Cơ sở pháp lý: Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được quy định tại điều 51 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, điều 65 Hiến pháp 1992. Nội Dung: Tại điều 51 Luật bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em nói về việc giáo dục, chăm sóc nhóm trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa với nội dung như sau: 1. Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi được Uỷ ban nhân dân địa phương giúp đỡ để có gia đình thay thế hoặc tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ giúp trẻ em công lập, ngoài công lập. 2. Nhà nước khuyến khích gia đình, cá nhân nhận nuôi con nuôi; cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận đỡ đầu, nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi. 3. Nhà nước có chính sách trợ giúp gia đình, cá nhân hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em ngoài công lập nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi. Quy định trên đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nêu trên. Luật đã quy định cụ thể cơ quan có trách nhiệm trong việc giúp đỡ trẻ em tìm nơi nương tựa. Bên cạnh đó, Nhà nước còn có các chính sách trợ giúp các cơ sở chăm sóc trẻ em nhằm mục đích bảo đảm cho nhóm trẻ em này được chăm sóc, giáo dục với những điều kiện tốt nhất. Như vậy Việt Nam đã nội luật hóa các qui định pháp luật của luật quốc tế. 2.2. Định nghĩa, đặc điểm tâm lý của trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 3 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM a. Định nghĩa: Từ những quy định của pháp luật, ta có định nghĩa về trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi như sau: Trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi là những trường hợp trẻ không có được sự chăm sóc, giáo dục của gia đình và người giám hộ như: - Trẻ mất cả cha lẫn mẹ hoặc chỉ mất mẹ hoặc cha, nhưng cha (mẹ) mất tích, hoặc không đủ năng lực pháp luật để nuôi dưỡng (bị tâm thần, đang trong thời kỳ chấp hành án...) theo quy định của pháp luật - Sau khi sinh con, cha mẹ bỏ con không chăm sóc, nuôi dưỡng. - Cha mẹ, người giám hộ bỏ mặc trẻ tự sinh sống, không quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em, để trẻ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. b. Đặc điểm tâm sinh lý - Niềm tin bị hủy hoại - Trầm cảm - Mặc cảm - Hay giận dữ - Không nói thật. 3. Những quy định của pháp luật nhằm bảo vệ, chăm sóc trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi Tại Điều 51 Luật giáo dục và bảo vệ chăm sóc trẻ em quy định, “Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi được Uỷ ban nhân dân địa phương giúp đỡ để có gia đình thay thế hoặc tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ giúp trẻ em công lập, ngoài công lập”.Tinh thần của khoản 1 điều này được thể hiện rõ trong các Luật chuyên ngành, đơn cử như Luật Hôn nhân gia đình dành hẳn chương 8 để quy định về nuôi con nuôi, các thủ tục pháp lý, quyền và nghĩa vụ cụ thể của cha mẹ nuôi. Quy định trong Bộ luật Hôn nhân gia đình tạo cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền giải HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 4 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM quyết việc nuôi con nuôi cho các cá nhân, cặp vợ chồng nuôi con nuôi mà trong số đó trẻ mồ côi chiếm tỷ lệ cao. Tại khoản 2 điều này quy định “Nhà nước khuyến khích gia đình, cá nhân nhận nuôi con nuôi; cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận đỡ đầu, nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi.”Ta thấy việc khuyến khích này thể hiện trong điều 36 nghị định 68/2002 của chính phủ quy định chi tiết về quan hệ Hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài và điều 9 nghị định 69/2006 của Chính phủ sửa đổi một số điều trong nghị định 68. Các điều khoản của nghị định này quy định về đối tượng trẻ em được nhận làm con nuôi là trẻ em sống tại các cơ sở nuôi dưỡng thành lập hợp pháp tại Việt Nam trong đó có trẻ em mồ côi.Nếu người nước ngoài nhận trẻ em mồ côi làm con nuôi thì được khuyến khích hơn so với trẻ em sống cùng cha mẹ, thủ tục pháp lý nhận trẻ em mồ côi cũng đơn giản hơn. “ Nhà nước có chính sách trợ giúp gia đình, cá nhân hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em ngoài công lập nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi.”.Quy định tại khoản 3 này được thực thi bằng các chế độ trợ cấp xã hội. Trong quyết định số 38/2004/QĐ-TTg (ngày 17/3/2004) của Thủ tướng Chính phủ về chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi đã quy định các mức trợ cấp cụ thể như sau: - Trẻ mồ côi, bị bỏ rơi sống tại cộng đồng mức trợ cấp là:120.000 - 180.000 - 240.000 đồng/tháng/trẻ tương ứng với trường hợp từ 18 tháng tuổi trở lên; dưới 18 tháng tuổi và từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật, bị nhiễm HIV/AIDS; dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật, bị nhiễm HIV/AIDS. - Trẻ mồ côi, bị bỏ rơi sống tại nhà xã hội chỉ có mức trợ cấp là 240.000đồng/tháng/trẻ; trẻ sống tại cơ sở bảo trợ xã hội mức trợ cấp là 240.000 - 300.000đồng/tháng/trẻ (từ 18 HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 5 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM tháng tuổi trở lên; dưới 18 tháng tuổi và từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật, bị nhiễm HIV/AIDS). - Với các gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng mức trợ cấp lần lượt là 240.000 - 300.000 360.000đ/tháng/ trẻ tương ứng với trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên; dưới 18 tháng tuổi và từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật, bị nhiễm HIV/AIDS; dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật, bị nhiễm HIV/AIDS. - Ngoài các chế độ trợ cấp hàng tháng, trẻ mồ côi còn được cấp thẻ bảo hiểm y tế; đang học văn hóa, học nghề thì được miễn, giảm học phí, được cấp sách vở, đồ dùng học tập theo quy định của pháp luật... Bên cạnh đó trong quyết định số 65/2005/QĐ-TTg (ngày 25/3/2005) của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt dựa vào cộng đồng giai đoạn 2005 - 2010 trong đó có trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi còn quy định như sau: Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc, nuôi dưỡng tại gia đình, gia đình thay thế hoặc tại cơ sở trợ giúp trẻ em công lập, ngoài công lập. Các bộ, các ngành có liên quan có trách nhiệm hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ đối với cơ sở trợ giúp trẻ em trong việc giải quyết, giảm nhẹ hoàn cảnh đặc biệt của trẻ em, phục hồi sức khoẻ, tinh thần và giáo dục đạo đức cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Việc quy định mức trơ cấp xã hội cũng như các kế hoạch hỗ trợ đã phần nào giúp trẻ em mồ côi vượt qua những khó khăn, tuy nhiên mức trợ cấp trên là quá thấp để đảm bảo cho trẻ phát triển một cách tốt nhất.Hơn nữa, đối tượng trẻ em mồ côi được hưởng trợ cấp mà Luật hướng tới là các trẻ mồ côi cà cha lẫn mẹ. Thiết nghĩ các trẻ em chỉ mồ côi mẹ hoặc cha nếu có hoàn cảnh thật sự khó khăn cũng cần được xem xét để hưởng trợ cấp. HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 6 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM II. Thực trạng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi ở Việt Nam  Các số liệu: Trên cả nước trong năm 2000 có 46443 trẻ em mồ côi được chăm sóc trên tổng số 124444 trẻ, chiếm tỷ lệ 37.32%. Trong năm 2003 có 90524 trẻ em mồ côi được chăm sóc trên tổng số 153800 trẻ, chiếm tỷ lệ58.86 %. Và trong năm 2004 có 88516 trẻ em mồ côi được chăm sóc trên tổng số trẻ, chiếm tỷ lệ 61.67 %. Trong năm 2000 tại Thành phố Hồ Chí Minh có 1658 trẻ em trên tổng số 10010 được chăm sóc, chiếm tỷ lệ 16.56 %. Năm 2003 là 4114 trẻ trên tổng số 8000 ,chiếm tỷ lệ 51.43%. Và số liệu từ năm gần đây nhất, năm 2004 là 3875 trẻ trên tổng số 4277 , đạt tỷ lệ 110.37%. Từ những số liệu trên, ta thấy rằng mặc dù trên cả nước có sự gia tăng về số lượng trẻ em mồ côi qua các năm thế nhưng tỷ lệ trẻ được chăm sóc tăng lên đáng kể. Đặc biệt tại Thành phố Hồ Chí Minh thì công tác chăm sóc trẻ em mồ côi được thực hiện khá tốt, tỷ lệ trẻ được chăm sóc từ năm 2000 đến 2003, từ 2003 đến 2004 đều tăng hơn gấp đôi. Tỷ lệ trẻ em mồ côi được hưởng sự chăm sóc giữa các tỉnh thành không đồng đều, nều như các thành phố lớn tỷ lệ này khá tốt ( năm 2004, Hải Phòng đạt tỷ lệ 200.30 %, Đà Nẵng là 98.54 %) thì ở các tỉnh vùng sâu vùng xa thì tỷ lệ này là rất thấp ( năm 2004, Tây Ninh là 7.86 %, Bạc Liêu là 0 %, Hưng Yên 15.52%). HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 7 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM Theo số liệu được Bộ LĐ-TB và XH công bố gần đây thì năm 2008 số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là 1.641.656 em, chiếm 6,55% tổng số trẻ em dưới 16 tuổi. Kết quả hoạt động của các ngành, các cấp trong thời gian qua được ghi nhận như sau: Đến cuối năm 2008 75% số trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi được chăm sóc, dưới nhiều hình thức. Có 6.429 trẻ em lang thang hồi gia được hỗ trợ giải quyết khó khăn; 4.673 trẻ em lang thang trở về gia đình được hỗ trợ học nghề, tạo việc làm; 5.967 trẻ em lang thang được hỗ trợ đi học.  Bên cạnh những kết quả khích lệ nêu trên công tác chăm sóc bảo vệ trẻ em cũng còn nhiều hạn chế: Thiếu các số liệu đáng tin cậy liên quan đến trẻ em cần được bảo vệ đặc biệt. Thiếu các quy trình tư pháp thân thiện với trẻ em. Vấn đề truyền thông giáo dục, việc phổ biến kỹ năng bảo vệ và chăm sóc trẻ em còn thiếu chiều sâu, đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Trẻ em chưa có nhiều kỹ năng để tự bảo vệ mình, đặc biệt các khuyến cáo của Nhà nước chậm đến từng gia đình, trẻ em. Kỹ năng làm việc với trẻ em của đội ngũ cán bộ làm việc liên quan tới trẻ em, đặc biệt trẻ em vi phạm pháp luật còn hạn chế.  Nguyên do của những hạn chế trên được nhiều cán bộ có trách nhệm và chuyên gia đánh giá gồm: Theo báo cáo trình bày tại cuộc họp năm 2008 của Thứ trưởng Phùng Ngọc Hùng thì các hạn chế trên một phần là do Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao trong bối cảnh tình hình trẻ em và công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em có khó khăn, thách thức. Kinh tế – xã hội nước ta tiếp tục biến động nhanh và phức tạp hơn do khủng hoảng tài chính – kinh tế thế giới và những tác động tiêu cực của quá trình hội nhập kinh tế, lạm phát tăng cao, thiên tai nặng nề, ảnh hưởng đến an sinh xã hội, trong đó trẻ em là đối tượng dễ bị tác động và để lại hậu quả lâu dài nhất. Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển, mức thu nhập bình quân đầu người thấp, tình trạng đói nghèo vẫn tồn tại ở diện rộng và còn khoảng cách đáng kể giữa các vùng miền HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 8 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM đang ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của trẻ em. Mặt trái của nền kinh tế thị trường cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã làm gia tăng hiện tượng trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt như: trẻ em lang thang, trẻ em sử dụng ma tuý, trẻ em bị lạm dụng và xâm hại, trẻ em bị buôn bán, trẻ em bị nhiễm hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, trẻ em bị tai nạn thương tích, trẻ em làm trái pháp luật… Nhận định sâu hơn một số chuyên gia cho là: Hệ thống luật pháp, chính sách và khung pháp lý để bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa đầy đủ, đồng bộ. Chế tài xử phạt các hành vi vi phạm quyền trẻ em chưa đủ mạnh. Một số nhóm đối tượng trẻ em đặc biệt chưa được đưa vào Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em, như trẻ em bị lạm dụng, bạo lực, trẻ em bị tai nạn thương tích, trẻ em bị ảnh hưởng từ các vụ ly hôn, con nuôi, trẻ em di cư, bị buôn bán, trẻ em sống trong các hộ nghèo... Thiếu các số liệu đáng tin cậy liên quan đến trẻ em cần được bảo vệ đặc biệt. Thiếu các quy trình tư pháp thân thiện với trẻ em. III. Các biện pháp trợ giúp để bảo vệ, chăm sóc trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi  Kiến nghị Pháp luật Việt Nam trong những năm gần đây đã có những đổi mới tích cực trong đường lối, chính sách nhằm chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền trẻ em tại Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Dựa trên việc xem xét các quy phạm pháp luật và phân tích tình hình thực tiễn về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em tại Việt Nam, nhóm tác giả chúng tôi xin đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trên. Thứ nhất: Hệ thống pháp luật phải ngày càng được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện các mục tiêu bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Cụ thể khái niệm “Trẻ em” và “Người chưa thành niên” phải được quy định thống nhất trong các văn bản quy HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 9 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM phạm pháp luật Việt Nam. Nghĩa là phải mở rộng độ tuổi của trẻ em từ 0 đến 18 tuổi trong Luật Bảo Vệ, chăm sóc và Bảo vệ trẻ em. Vấn đề nuôi con: Nhà nước cần xem xét để có những quy định bổ sung nhằm khắc phục những mặt bất cập của những văn bản hiện hành về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như: giấy tờ xin con nuôi ( xem xét lại thời hạn 6 tháng đối với một số giấy tờ trong hồ sơ xin nhận con nuôi), thơi hạn tạm trú trong thời gian làm thủ tục xin con nuôi của người nước ngoài, tình hình báo cáo của cha mẹ nuôi trong thời gian con nuôi chưa đến 18 tuổi. Ký kết hiệp định song phương về nuôi con nuôi đối với những nước có số lượng người nước ngoài nhận nhiều trẻ em Việt Nam làm con nuôi; ký gia nhập, phê chuẩn Công ước La Hay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác giữa các nước về nuôi con nuôi nước ngoài nhằm tạo cơ chế pháp lý Quốc tế để đảm bảo quyền lợi của trẻ em ngay ở nước ngoài, đồng thời góp phần hoàn chỉnh các quy định của pháp luật quốc gia trong lĩnh vực này. Thứ hai: Bộ giáo dục và đào tạo phải có trách nhiệm nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện hơn nữa các chương trình giáo dục, đặc biệt là chương trình giáo dục tiểu học cho phù hợp với sự phát triển cùa trẻ em; cần ban hành văn bản quy định cụ thể về dạy thêm và học thêm đối với học sinh tiểu học. Bởi vì hiện nay tình trạng về chứng rối loạn tâm thần ở lứa tuổi học sinh đang có chiều hướng gia tăng và kéo theo các vấn đề tiêu cực khác. Thứ ba: Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến bảo vệ, chăm sóc trẻ em nhằm phổ cập đồng đều trong các tầng lớp nhân dân nhận thức đúng đắn về quyền trẻ em thông qua việc huy động sự tham gia cùa các phương tiện truyền thông đại chúng, tài liệu, tập huấn, hội nghị, đảm bảo các quyền lợi, các nhu cầu chính đáng của trẻ em, làm cho mọi người biết đến hiểu biết thì tìm hiểu phải được; xóa bỏ dần các tư tưởng lạc hậu, phong kiến còn tồn tại trong xã hội có tác động xấu đến thực hiện quyền trẻ em. HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 10 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM Thứ tư: Tiếp tục tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm giữa các gia đình, các thành viên của xã hội về công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. Tuyên dương những trẻ em chăm ngoan, vượt khó học giỏi, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ. tăng cường công tác vận động phối hợp với các ban ngành, đoàn thể, các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước, các tổ chức phi Chính phủ tạo điều kiện về vật chất, tinh thần chăm lo cho trẻ em, đặc biệt là đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Thứ năm, để bảo vệ trẻ em một cách tốt nhất trước hết phải cho các em biết mình có những quyền gì? cách thức bảo vệ như thế nào?. Không có gì tốt nhất bằng cách các em tự bảo vệ chính bản thân các em. Do đó để trẻ em biết mình có những quyền gì? Cách bảo vệ như thế nào? Thì ngay từ khi các em bắt đầu biết tư duy phải cho các em biết các em có những quyền cơ bản nào. Từ đó nhóm tác giả chúng tôi thiết nghĩ, phải đưa vào chương trình giáo dục môn học về quyền trẻ em, nhằm mục đích tác động vào ý thức của các em một cách từ từ, để đến một khi các em thực sự hiểu rõ mình có những quyền cơ bản nào? Những người xung quanh có những hành động có xâm phạm đến quyền của mình hay không? Có thể bảo vệ bản thân bằng cách nào? Thứ sáu, để tạo ra cơ chế bảo vệ trẻ em một cách kịp thời, nhanh chóng nhất thì nên thành lập một cơ quan chuyên về bảo vệ trẻ em, khi tiếp nhận các hành vi tố cáo của trẻ em nếu có căn cứ thì cơ quan phải trực tiếp can thiệp ngay. Các cơ quan này phải đặt mục tiêu bảo vệ trẻ em một cách tốt nhất là hàng đầu, tôn trọng những ý kiến của trẻ em  Các biện pháp Trước tình hình mới, định hướng bảo vệ chăm sóc trẻ em đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2015 là: Phấn đấu thực hiện đạt cơ bản các mục tiêu liên quan đến trẻ em, đặc biệt là trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng, tạo cơ hội để thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em; giảm thiểu tình trạng trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, lang thang, lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Tạo cơ hội cho mọi trẻ HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 11 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM em đều được bảo vệ, chăm sóc dưới các hình thức khác nhau và thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em. Tạo sự chuyển biến cơ bản về cung cấp dịch vụ có chất lượng và công bằng cho mọi trẻ em. Từng bước thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt với trẻ em bình thường tại nơi cư trú; trẻ em dân tộc thiểu số với các nhóm trẻ em khác; trẻ em gái với trẻ em trai. Theo đó, chúng ta tiếp tục tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau: - Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Quyết định số 19/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Các bộ, ngành giám sát và thực hiện Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2006 – 2010. Triển khai Chương trình hành động phòng, chống HIV/AIDS cho trẻ em, khi Chương trình này được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em ngay sau khi văn bản được ban hành. Tiếp tục duy trì việc cấp thẻ khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi; giám sát việc khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Phát triển mạng lưới bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng và các mô hình bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hiệu quả, trên cơ sở có thử nghiệm, đánh giá, tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm từ thực tiễn. Phát triển các mô hình tư vấn cho trẻ em và từng bước hình thành các trung tâm công tác xã hội với trẻ em. - Đẩy mạnh các chiến dịch truyền thông, trên cơ sở hình thành chiến lược truyền thông với sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức quốc tế và trẻ em để tạo dư luận xã hội quan tâm hơn nữa đến công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và đặc biệt là lên án các hành vi xâm hại, ngược đãi và bạo lực đối với trẻ em. Chủ động huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực có thể được cho nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em. (Chẳng hạn, tỉnh Quảng Ninh hằng năm dành 1% ngân sách của tỉnh cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em). HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 12 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM - Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em từ trung ương đến xã, phường, trên cơ sở kiện toàn tổ chức, bộ máy, cán bộ, xây dựng mạng lưới cộng tác viên và hoàn thiện chương trình tập huấn/đào tạo theo các modul, đào tạo theo chứng chỉ và tiến tới cấp chứng chỉ nghề. - Rà soát, bổ sung thực trạng hệ thống pháp luật, chính sách, nhất là kiểm điểm việc thực hiện luật pháp, chính sách có liên quan đến trẻ em và việc thực hiện các chương trình, đề án đến năm 2010 có liên quan đến trẻ em. Nghiên cứu hoàn thiện luật pháp, chính sách liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em; xây dựng chính sách đối với cán bộ công tác xã hội với trẻ em. Nghiên cứu, xây dựng chương trình, mục tiêu bảo vệ, chăm sóc trẻ em giai đoạn 2010 – 2015 và chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2011 – 2020. - Chủ động hợp tác với các tổ chức quốc tế để học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật và có thêm nguồn lực phục vụ cho nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ngày càng hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ hội nhập quốc tế về vấn đề này, với quan điểm cởi mở, phong phú và mang tính chiến lược. Ngoài ra, phải kể đến sự hỗ trợ của UNICEF UNICEF hỗ trợ những nỗ lực của Chính phủ nhằm tăng cường bộ máy và chiến lược tổng thể về bảo vệ trẻ em và thiết lập một hệ thống công lý thân thiện với trẻ em. Sau đây là những biện pháp chiến lược và hoạt động chính của UNICEF về bảo vệ trẻ em: Tuyên truyền, vận động và xây dựng chính sách: UNICEF chia sẻ kiến thức chuyên môn, công cụ và những kinh nghiệm, tập quán hay cũng như hỗ trợ công tác nghiên cứu và theo dõi để giúp Chính phủ xây dựng mới và rà soát lại các bộ luật, chính sách và chiến lược về bảo vệ trẻ em. UNICEF cũng đã giúp Chính phủ khuyến khích xã hội dân sự và khu vực tư nhân tham gia cung cấp các dịch vụ bảo vệ trẻ em. HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 13 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM Xây dựng năng lực: UNICEF hỗ trợ thiết kế và xây dựng công tác xã hội, bộ máy bảo vệ trẻ em cũng như các quy trình, thủ tục và tiêu chuẩn chuyên môn trong lĩnh vực này. UNICEF cũng cho rằng việc đào tạo về công tác xã hội, bảo vệ và chăm sóc về mặt tâm lýxã hội cho trẻ em là một chiến lược quan trọng nhằm tăng cường việc công tác bảo vệ trẻ em nói chung. Trên tinh thần đó, UNICEF hỗ trợ xây dựng chương trình và giáo trình đào tạo, và tiến hành đào tạo các giảng viên dạy về công tác xã hội ở các trường đại học và cao đẳng. Ngoài ra, UNICEF hỗ trợ xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo ngắn hạn cho cán bộ ở các cơ quan chủ chốt của Chính phủ. Xây dựng mô hình và tăng cường nguồn lực phục vụ bảo vệ trẻ em: UNICEF hỗ trợ cả về kỹ thuật và tài chính cho việc xây dựng và thực hiện các mô hình bảo vệ trẻ em ở cấp cộng đồng. Sau này có thể nhân rộng và sử dụng những mô hình này làm cơ sở để xây dựng chính sách và luật pháp trong tương lai. Nâng cao nhận thức và tham gia: UNICEF góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề bảo vệ trẻ em, thay đổi ý thức, thái độ đối với trẻ em dễ bị tổn thương và tạo ra sự thay đổi hành vi trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị và xã hội; giới báo chí; các cộng đồng; và các gia đình. UNICEF còn nâng cao vị thế của trẻ em bằng cách khuyến khích chính các em tham gia vào các hoạt động bảo vệ trẻ em. Ngoài ra, UNICEF đã góp phần huy động và tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự và khu vực tư nhân trong sự nghiệp bảo vệ trẻ em. KẾT LUẬN Trẻ em có vai trò đặc biệt quan trọng đối với gia đình và xã hội. Trong giai đoạn đất nước đổi mới, cùng với nhiều chính sách kinh tế, xã hội được ban hành, Nhà nước ta đã phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em (ngày 20-2-1990), là quốc gia đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước này. Điều đó đã làm thay đổi khá nhanh nhận HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 14 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM thức và hành động đối với trẻ em và thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam. Chúng ta đã ban hành luật, chính sách, văn bản hướng dẫn các tiêu chuẩn, quy chuẩn, chương trình hành động, chương trình mục tiêu, các dự án, xây dựng tổ chức bộ máy, bố trí và đào tạo cán bộ quản lý, xây dựng và phát triển các tổ chức cung cấp dịch vụ liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Trong tương lai, Việt Nam sẽ có nhiều chương trình hộ trợ trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi nói riêng và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung, để làm sao có thể giảm thiểu tối đa những khó khăn cho trẻ em – tương lai của đất nước./. HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 15 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO * * * 1. Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. 2. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. 3. Bộ luật dân sự năm 2005. 4. Chuơng trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 - 2015. 5. QUYẾT ĐỊNH Phê duyệt Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 – 2015,- Số: 267/QĐ-TTg 6. “Về công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em” của TS Hoàng Văn Tiến. Bài viết được đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 11(179) năm 2009. 7. http://www.unicef.org/vietnam/vi/protection.html 8. Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em. “Tổng kết công tác năm 2008”. Molisa.gov.vn. 01.6.2009. 9. Hội thảo Chương trình Hợp tác giữa Liên Hợp quốc và Việt Nam về nội dung bảo trợ xã hội. “Trẻ em cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt”. vnmedia.vn. 11/12/08 10. Hoàng Văn Tiến. “TE va công tác CSBVTE”. Nhandan.com.vn. 01/6/2009. 11. Hoàng Văn Tiến. “Về công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em”. Tạp chí cộng sàn. 9/6/2009 12. Nguyễn trọng Đàm. “Phát biểu tại Đại hội lần thứ nhất Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam”. Baovequyenbtreem.vn. 01/7/09. 13. Thanh Vân. “Cần một cơ quan đầu mối”. VOVNew.vn. 14.6.09 14. Tống Thị Minh. “Mục tiêu chăm sóc và bảo vệ trẻ em của Ngành lao động Thương binh và Xã hội giai đoạn 2006 -2010”. 05.1.2007. HOÀNG THỊ HOA LIÊN – MSSV: 341310 Page 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan