TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
HOÀNG TÚ QUYÊN
TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN
TRÊN BIỂN ĐÔNG GIỮA VIỆT NAM
VỚI MỘT SỐ NƢỚC TRONG ASEAN
(1975 – 2015)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN VĂN DŨNG
HÀ NỘI – 2017
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn Văn Dũng, Trưởng khoa
Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội 2, người thầy đã tận tình hướng dẫn em hoàn
thành tốt khóa luận này.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong và ngoài Khoa Lịch Sử, Đại học
Sư phạm Hà Nội 2 cũng chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình làm khóa luận và đặc
biệt đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn em trong suốt bốn năm học đại học tại
trường.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn gia đình, tất cả người thân, bạn bè đã ở bên
sẻ chia giúp đỡ động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện khóa luận.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 13 tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Hoàng Tú Quyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu
được sử dụng có nguồn gốc rõ ràng, những đánh giá nhận định trong khóa luận do
cá nhân tôi nghiên cứu dựa trên những tài liệu xác thực và chưa được công bố ở bất
kì công trình nào.
Hà Nội, ngày 27 tháng 3 năm 2017
Người thực hiện
Hoàng Tú Quyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ....................................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 3
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................... 4
6. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 5
7. Bố cục của khóa luận: ................................................................................... 5
Chương 1. TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN TRÊN BIỂN ĐÔNG GIỮA VIỆT
NAM VỚI MỘT SỐ NƯỚC TRONG ASEAN GIAI ĐOẠN 1975-1995 ....... 6
1.1. Một số nét khái quát về Biển Đông và quá trình xác lập chủ quyền của
Việt Nam trên Biển Đông ................................................................................. 6
1.1.1. Khái quát về Biển Đông........................................................................... 6
1.1.2. Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông ................. 12
1.2. Tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam với một số nước trong ASEAN
trước năm 1975 ............................................................................................... 18
1.3. Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Việt Nam với một số nước
trong ASEAN giai đoạn 1975 – 1995 ............................................................. 23
1.4. Một số nhận xét ........................................................................................ 33
Chương 2. TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN TRÊN BIỂN ĐÔNG GIỮA VIỆT
NAM VỚI MỘT SỐ NƯỚC TRONG ASEAN GIAI ĐOẠN 1995-2015 ..... 40
2.1. Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Việt Nam với một số nước
trong ASEAN giai đoạn 1995 – 2002 ............................................................. 40
2.1.1. Việt Nam gia nhập ASEAN.................................................................... 40
2.1.2. Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Việt Nam với một số nước
trong ASEAN ................................................................................................... 42
2.2. Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Việt Nam với một số nước
trong ASEAN giai đoạn 2002 – 2015 ............................................................. 50
2.2.1. Tranh chấp với Philippines ................................................................... 51
2.2.2. Tranh chấp với Malaysia ...................................................................... 57
2.2.3. Tranh chấp với Brunei .......................................................................... 59
2.2.4. Tranh chấp với Thái Lan....................................................................... 61
2.2.5. Tranh chấp với Indonesia ..................................................................... 62
2.3. Một số nhận xét ........................................................................................ 64
2.3.1. Tác động của tranh chấp Biển Đông đối với các bên tranh chấp ........ 64
2.3.2. Một số nhận xét ..................................................................................... 65
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 74
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biển Đông là khu vực có tầm quan trọng chiến lược đối với Việt Nam cũng
như các nước trong khu vực về địa - chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và
kinh tế. Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái
Bình Dương - Ấn Độ Dương, châu Âu - châu Á, Trung Đông - châu Á và là khu
vực biển nằm tiếp giáp với Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Việt Nam và
Trung Quốc. Do đó, vấn đề Biển Đông luôn nóng trên các diễn đàn khu vực cũng
như quốc tế, trở thành chủ đề bàn luận chính trên các phương tiện truyền thông và là
một trong những vấn đề mang tính cấp thiết quốc gia, thu hút nhiều sự quan tâm từ
dư luận thế giới.
Cuộc tranh chấp giữa các quốc gia trên khu vực Biển Đông diễn ra dưới mọi
hình thức đấu tranh, từ đấu tranh chính trị, ngoại giao đến đấu tranh vũ lực. Các
quốc gia tranh chấp cũng thay đổi tùy theo thời cuộc. Ngày nay, từ khi nhận thức
được tầm quan trọng của Biển Đông thì số quốc gia tham gia tranh chấp ngày càng
tăng lên. Sóng Biển Đông tưởng chừng đã được xoa dịu khi các bên cùng ngồi lại,
đàm phán và nhất trí thông qua Quy tắc hướng dẫn thực thi Tuyên bố về ứng xử của
các bên ở Biển Đông. Thế nhưng, khi Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông chưa kịp hình
thành thì hàng loạt sự kiện đáng tiếc đã diễn ra khiến tình hình tranh chấp Biển
Đông thêm căng thẳng và việc giải quyết mâu thuẫn càng trở nên khó khăn. Trong
thời gian gần đây, các nước tranh chấp trong khu vực liên tục có những động thái
nhằm khẳng định chủ quyền của nước mình. Việc tranh chấp Biển Đông giữa các
nước lúc này cũng đang trở thành tâm điểm trong quan hệ khu vực và quốc tế.
Đối với Việt Nam, từ năm 1995 cho đến hiện nay chúng ta đã cùng một số đối
tác ASEAN khác có chung lợi ích và quan điểm có thể làm việc cùng nhau bắt tay
hình thành các cơ chế tạm thời nhằm giải quyết các vấn đề an ninh khẩn cấp, đặc
biệt là liên quan tới tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên, trên thực tế việc tranh chấp
chủ quyền Biển Đông giữa Việt Nam và một số nước trong ASEAN lại chưa được
đi sâu vào nghiên cứu và chưa thu hút được sự quan tâm, chú ý của giới nghiên cứu
1
khoa học trong và ngoài nước. Do đó khi nghiên cứu về vấn đề này thì sẽ đem lại ý
nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Tranh chấp chủ quyền Biển Đông không phải là một vấn đề mới nhưng với
diễn biến phức tạp mang tính thời sự quốc tế cùng những thách thức và nguy cơ ẩn
chứa thì Biển Đông đang nổi những hồi chuông cảnh tỉnh, hối thúc những hành
động khẩn trương, phù hợp nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia.
Chính vì những lý do trên, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài "Tranh chấp chủ
quyền trên Biển Đông giữa Việt Nam và một số nước trong ASEAN (1975-2015)”
cho bài khoá luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngày nay, vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông (tên gọi của Việt Nam)
hay South China Sea (tên gọi quốc tế) đã có nhiều công trình đề cập tới cả trong và
ngoài nước. Đã có nhiều quỹ liên quan tới Biển Đông được thành lập, có nhiều học
giả đầu tư tiền bạc, trí tuệ để tìm hiểu về vấn đề Biển Đông. Trong những năm gần
đây, đã có khá nhiều luận văn, luận án tiến sĩ, công trình nghiên cứu khoa học đã
tìm hiểu, khai thác, nghiên cứu các vấn đề liên quan tới biển, đảo; tranh chấp biển,
đảo; các biện pháp giải quyết tranh chấp biển, đảo hay chủ quyền của Việt Nam trên
Biển Đông ... Đó là những bài báo, những bài tham luận, những công trình được
các tác giả thực hiện. Và cũng có một số bài viết, tác phẩm nhắc đến sự tranh chấp
trên Biển Đông của Việt Nam với các nước, đặc biệt trên quần đảo Trường Sa
như:“Tranh chấp quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam và các bên liên quan từ năm
1909 đến nay” – Luận văn Th.S Vương Quốc Khanh; “Tranh chấp chủ quyền trên
Biển Đông của các nước từ năm 2000 đến năm 2014” – Luận văn Th.S Bùi Đức
An;“Quần đảo Trường Sa giữa các mối căng thẳng ở Châu Á về xung đột ở Biển
Đông” - Virginie Raisson; “Công Ước Liên Hợp Quốc về luật biển và các tranh
chấp trên biển tại Biển Đông” – Robert Beckman; Vũ Hữu San “Địa lý Biển Đông
với Trường Sa và Hoàng Sa”, Ủy ban bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, xuất
bản năm 1995 tác giả đã trình bày một cách chi tiết về địa lý Biển Đông, địa lý quần
đảo Trường Sa và Hoàng Sa, tài nguyên thiên nhiên và khái quát thực trạng tranh
2
chấp của các quốc gia có liên quan ở khu vực này, “Vấn đề khai thác chung giữa
Việt Nam và các nước trong khu vực Biển Đông” - Luận văn Th.S Đỗ Quốc Quyền,
“Khai thác chung trong luật biển quốc tế và thực tiễn trong quan hệ giữa Việt Nam
với các nước”- Luận văn Th.S Nguyễn Thị Lan Hương. Tuy vậy, cho đến nay vẫn
chưa có công trình nào nghiên cứu diễn biến tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông
giữa Việt Nam và một số nước trong ASEAN giai đoạn 1975 – 2015 một các đầy
đủ. Để hoàn thành đề tài này, tác giả đã ít nhiều kế thừa những công trình đi trước
để làm rõ hơn tình hình tranh chấp, giải pháp, kết quả của các tranh chấp chủ quyền
trên Biển Đông này, đồng thời đưa ra những nhận xét, đánh giá đặc điểm chung và
tác động chung đến các nước liên quan.
3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu nhằm mục đích cung cấp thêm các nội dung và cái nhìn
khách quan hơn về vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông giữa Việt Nam và một
số nước ASEAN cụ thể như Philippines, Malaysia, Brunei, Thái Lan, Campuchia,..
trong giai đoạn từ 1975-2015.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài phải làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, trình bày cụ thể tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa
Việt Nam và một số nước trong ASEAN từ năm 1975 - 2015
Thứ hai, trình bày một số nhận xét, đánh giá, tác động quan điểm về tình hình
tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông từ năm 1975 - 2015
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trên Biển Đông đang tồn tại rất nhiều quan điểm, bất đồng về việc xác lập chủ
quyền của các quốc gia cũng như còn khá nhiều mâu thuẫn trong việc phân chia lợi
ích từ biển. Chính vì vậy, nghiên cứu này không hướng tới việc tìm hiểu và giải
quyết cụ thể từng tranh chấp, bất đồng mà chỉ tập trung nghiên cứu một cách chung
nhất, khái quát nhất về những tranh chấp giữa Việt Nam và một số nước trong
ASEAN như Philippines, Malaysia, Thái Lan, Campuchia,…
3
Thời gian nghiên cứu: khóa luận nghiên cứu về vấn đề tranh chấp chủ quyền
Biển Đông giữa Việt Nam và một số nước trong ASEAN từ 1975-2015
Không gian nghiên cứu: khóa luận tập trung nghiên cứu ở địa bàn Biển Đông,
cụ thể tại các vùng biển chồng lấn và các thực thể địa lý tồn tại trên Biển Đông như
đảo, quần đảo, đá,… giữa Việt Nam và một số nước trong ASEAN
Trong đề tài này, người viết tập trung nghiên cứu những tình hình, biểu hiện,
cơ chế, hành động giải quyết, tác động đối với tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông
giữa Việt Nam và một số nước trong ASEAN từ 1975-2015.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Khóa luận được thực hiện dựa trên những nguồn tư liệu mà tôi đã thu thập
được trong quá trình nghiên cứu như:
- Tham khảo một số công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước gồm các
nhóm tài liệu như: các báo cáo kết quả công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên
khảo, các luận án, luận văn, các bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí
chuyên ngành về vấn đề tranh chấp Biển Đông.
- Tham khảo các cuốn sách như: Tranh chấp Biển Đông: Luật pháp, địa chính
trị và hợp tác quốc tế, Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông,…
- Tham khảo trung tâm dữ liệu trên các trang web chính thống.
- Tham khảo nguồn tài liệu nước ngoài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng các nguyên tắc, phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, của tư tưởng Hồ Chí
Minh kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học khác. Quá trình nghiên
cứu được bắt đầu bằng phương pháp thu thập thông tin qua sách báo, tài liệu để
chọn ra những khái niệm và tư tưởng cơ bản làm cơ sở lý luận của đề tài, tiếp đó tác
giả tiến hành việc phân tích các tài liệu đã thu thập được và tổng hợp chúng để xây
dựng thành một hệ thống khái niệm, phạm trù mới cũng như các quan điểm, nhận
định mang ý kiến cá nhân. Trong quá trình thực hiện đề tài này người viết đã sử
4
dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như thống kê, sưu tầm, xử lí tư liệu,
phân tích, so sánh, tổng hợp… nhưng chủ đạo vẫn là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic.
6. Đóng góp của đề tài
Những kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần tổng hợp, khái quát để đưa ra
cái nhìn toàn diện đối với vấn đề tranh chấp Biển Đông và chủ quyền của các quốc
gia trên biển nói chung. Qua đó, bổ sung và nâng cao hơn tầm nhìn và sự hiểu biết
về cơ sở pháp lý xác lập và thực hiện chủ quyền của Việt Nam trên biển cũng như
thực trạng và giải pháp đối với tranh chấp của Việt Nam với một số nước trong
ASEAN tại Biển Đông. Với những luận điểm, luận cứ đưa ra, khóa luận cũng góp
phần làm phong phú hơn hệ thống tài liệu nghiên cứu về biển, đảo của Việt Nam.
Mặc dù các kết luận đưa ra theo quan điểm cá nhân nhưng có tham khảo ý kiến, bài
viết của các chuyên gia về luật biển nên khóa luận có thể được sử dụng như tài liệu
tham khảo cho các cá nhân đang quan tâm và có mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu
vấn đề Biển Đông trên góc độ lý luận và khoa học.
Qua việc biểu dương sức mạnh pháp lý và tinh thần hòa bình trong vấn đề giải
quyết tranh chấp Biển Đông của Việt Nam, nghiên cứu cũng thêm lần nữa khẳng
định lập trường tôn trọng pháp luật quốc tế của Việt Nam, cùng mong muốn hợp tác
hữu nghị với các nước láng giềng cũng như hi vọng được đón nhận thêm nhiều sự
ủng hộ từ cộng đồng quốc tế.
7. Bố cục của khóa luận:
Theo yêu cầu chung của một nghiên cứu khoa học, khóa luận có bố cục gồm
ba phần chính: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Trong đó, phần nội dung được chia
thành 2 chương:
Chương 1: Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Việt Nam với một số
nước trong ASEAN giai đoạn 1975 - 1995
Chương 2: Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Việt Nam với một số
nước trong ASEAN giai doạn 1995 - 2015
5
Chƣơng 1
TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN TRÊN BIỂN ĐÔNG GIỮA VIỆT NAM
VỚI MỘT SỐ NƢỚC TRONG ASEAN GIAI ĐOẠN 1975-1995
1.1. Một số nét khái quát về Biển Đông và quá trình xác lập chủ quyền của
Việt Nam trên Biển Đông
1.1.1. Khái quát về Biển Đông
Biển Đông là khu vực có tầm quan trọng chiến lược đối với Việt Nam cũng
như các nước trong khu vực về địa - chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và
kinh tế. Theo quy định của Ủy ban Quốc tế về biển, tên của các biển rìa lục địa
thường dựa vào địa danh của lục địa lớn, nằm gần nhất hoặc mang tên của một nhà
khoa học phát hiện ra chúng. Do nằm ở phía Nam đại lục Trung Hoa nên Biển Đông
có tên gọi là “South China Sea”.
Hình 1.1: Toàn cảnh khu vực Biển Đông
(Nguồn: http://tulieu.violet.vn/document/show/entry_id/114674)
6
“South China Sea” cũng là thuật ngữ tiếng Anh phổ biến nhất và là tên gọi
quốc tế của vùng biển này, được ra đời vì thời bấy giờ Trung Quốc là nước rộng lớn
nhất, phát triển nhất, nổi tiếng nhất trong khu vực và đã có giao thương với các
nước phương Tây qua con đường tơ lụa. Tuy nhiên, tên gọi này chỉ mang ý nghĩa về
mặt thuật ngữ mà không có ý nghĩa về mặt chủ quyền. Chính vì vậy, các quốc gia
còn có nhiều cách gọi khác nhau để phản ánh chủ quyền lịch sử của mình với khu
vực biển này như: “Biển Đông” theo cách gọi của Việt Nam, “Nam Hải” hay “Nam
Trung Quốc Hải” theo cách gọi của Trung Quốc, còn Philippines gọi là biển Luzon
theo tên hòn đảo lớn Luzon của nước này[62].
1.1.1.1. Vị trí địa lý, các địa danh và các quốc gia liên quan tới Biển Đông
Địa lý Biển Đông
Biển Đông nằm ở phía Tây của Thái Bình Dương, là một biển kín được bao
bọc bởi đảo Đài Loan, quần đảo Philippines ở phía đông, các đảo Indonesia và bán
đảo Malaysia ở phía nam và đông nam, bán đảo Đông Dương ở phía tây và lục địa
Nam Trung Hoa ở phía Bắc. Diện tích Biển Đông khoảng 3.400.000 km2, độ sâu
trung bình khoảng 1.140m và độ sâu cực đại khoảng 5.016m [70, tr.1]. Theo Ủy ban
Thủy văn học quốc tế, đường ranh giới cực bắc của Biển Đông là đường nối điểm
cực bắc của đảo Đài Loan đến Thanh đảo của Trung Hoa, gắn vị trí vĩ độ 25010‟N,
ranh giới phía cực nam của biển là vùng địa hình đáy bị nâng lên giữa đảo Sumatra
và Borneo (Kalimantan) gần vĩ độ 3000‟S [70, tr.1].
Các địa danh trên Biển Đông
Biển Đông có các vịnh lớn như: Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái Lan, các nhóm đảo
lớn: quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, các đảo, đá nhỏ cùng nhiều bãi cạn, bãi ngầm
và các vùng biển khác. Trong đó, Vịnh Bắc Bộ là vịnh nước mặn, diện tích khoảng
160.000km2, chu vi 1.950km, với khoảng 2.300 hòn đảo lớn nhỏ, tập trung chủ yếu
ở phía bờ Việt Nam. Đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam nằm khoảng giữa vịnh với
diện tích 2,5km2, cách bờ biển Việt Nam khoảng 110km[70, tr.2]. Theo Hiệp định
Phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và CHND
Trung Hoa thì: “Vịnh Bắc Bộ là vịnh nửa kín được bao bọc ở phía Bắc bởi bờ biển
7
lãnh thổ đất liền của hai nước Việt Nam và Trung Quốc, phía Đông bờ biển bán
đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam của Trung Quốc, phía Tây bởi bờ biển đất liền Việt
Nam và giới hạn phía Nam bởi đoạn thẳng nối liền từ điểm nhô ra nhất của mép
ngoài cùng của mũi Oanh Ca – đảo Hải Nam của Trung Quốc có tọa độ địa lý là vĩ
tuyến 18030’19’’ Bắc, kinh tuyến 1080 41’17’’ Đông qua đảo Cồn Cỏ của Việt
Nam đến một điểm trên bờ biển của Việt Nam có tọa độ địa lý là vĩ tuyến
16057’40’’ Bắc và kinh tuyến 107008’42’’ Đông”.
Vịnh Thái Lan (còn gọi là vịnh Xiêm) nằm sâu vào phía bờ tây nam của Biển
Đông là kết quả miền địa động học tách giãn, cắt trượt tạo địa hào, dọc kinh tuyến.
Vịnh dài khoảng 2.300km và có diện tích khoảng 293.000km2, được bao bọc bởi bờ
biển của Việt Nam, Campuchia, Thái Lan và Malaysia[70, tr.2]. Đây là một vịnh
nông với độ sâu trung bình khoảng 60m, không có nhiều đảo nhỏ như Vịnh Bắc Bộ
nhưng lại có nhiều đảo lớn như đảo Phú Quốc rộng hơn 568km2. Tài nguyên thiên
nhiên của vùng biển này bao gồm hai loại: một bên là tài nguyên sinh vật biển với
khoảng hơn 100 loài cá, trong số đó có khoảng 20 loài cá có tầm quan trọng về kinh
tế, và bên kia là tài nguyên khoáng sản chứa trong các trầm tích của thềm lục địa.
Quần đảo Hoàng Sa có nghĩa là "cát vàng" (tiếng Anh: Paracel Islands), nằm ở
tọa độ: từ 15°45′ đến 17°15′ Bắc, từ 111°00′ đến 113°00′ Đông, là một nhóm
khoảng 30 đảo và bãi đá cạn nằm trong một vùng rộng khoảng 14.000km2. Quần
đảo nằm cách Đà Nẵng khoảng 170 hải lý về phía đông, cách Cù lao Ré (đảo Lý
Sơn) khoảng 120 hải lý và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc ở điểm gần nhất
khoảng 140 hải lý[70, tr.3]. Quần đảo gồm hai nhóm đảo là An Vĩnh (nhóm đảo
phía Đông) và Lưỡi Liềm (nhóm đảo phía Tây), cùng nhiều bãi đá ngầm.
Quần đảo Trường Sa (tiếng Anh: Spratly Islands; tiếng Trung Quốc: Nam Sa
quần đảo; tiếng Tagalog: Kalayaan; tiếng Malaysia và tiếng Indonesia:
KepulauanSpratly) là nhóm gồm hơn 100 đảo, bãi đá và rạn san hô phân bố trên
một diện tích rộng 160.000 km2 đến 180.000 km2 [70, tr.3]. Nằm trong Biển Đông,
quần đảo Trường Sa được bao quanh bởi những vùng đánh cá trù phú và giàu có về
tài nguyên dầu mỏ, khí đốt. Mặc dù Trường Sa đã thuộc chủ quyền của Việt Nam từ
8
nhiều thế kỷ đến nay nhưng hiện tại có nhiều quốc gia khác cũng đang tuyên bố chủ
quyền tại quần đảo này.
Các quốc gia liên quan tới Biển Đông
Biển Đông được bao quanh bởi bờ biển của 9 quốc gia là: Việt Nam, Trung
Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Singapore, Thái Lan và
Campuchia[70]. Hầu hết các quốc gia có biên giới với vùng biển này đều đang tranh
cãi và có những yêu sách khác nhau về chủ quyền cũng như các nguồn tài nguyên
trên Biển Đông. Luật biển năm 1982 của Liên Hiệp quốc cho phép các nước có
vùng đặc quyền kinh tế mở rộng vùng biển của mình ra 200 hải lý từ lãnh hải của
họ, chính điều đó đã tạo lên những vùng biển chồng lấn trên Biển Đông [19].
Biển Đông có thể thông thương được với các biển Ấn Độ Dương, Thái Bình
Dương và khu vực lân cận qua các eo biển. Chính điều này đã tạo sự gắn kết và
quan hệ mật thiết giữa Biển Đông và các quốc gia ngoài khu vực qua con đường
giao thương hàng hải quốc tế.
1.1.1.2. Vai trò của Biển Đông đối với đời sống cộng đồng quốc tế
Không chỉ là tuyến đường huyết mạch trong giao thương hàng hải, Biển
Đông còn chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng về chủng loại, phong
phú về trữ lượng, đặc biệt quan trọng cho sự phát triển và thịnh vượng của các nước
trong khu vực. Có lẽ vậy mà không có một vùng biển nào trên Thế giới với diện tích
tương đương lại chiếm một vị thế quan trọng về phương diện giao thông, kinh
tế,chính trị, quân sự như Biển Đông.
Vai trò trong giao thông hàng hải
Trên bản đồ giao thông vận tải thế giới, tất cả các tuyến đường hàng không và
hàng hải quốc tế nối liền hai khu vực Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương hay
tuyến đường huyết mạch nối liền Tây Âu, qua Trung Đông - Ấn Độ Dương đến
Đông Nam Á đều đi qua Biển Đông. Với sự góp mặt của hai cảng lớn thế giới là
cảng Hong Kong ở phía bắc và cảng Singapore ở phía nam, Biển Đông cũng được
coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của Thế giới. Khối lượng hàng
hóa vận chuyển qua tuyến đường này rất lớn, chỉ riêng dầu lửa đã có hơn 90% nhu
9
cầu của Nhật Bản, hơn 50% lượng hàng xuất khẩu của Trung Quốc vận chuyển qua
Biển Đông [70, tr.2].
Nhiều nước ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con
đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung Quốc.
Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương
mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Nằm trên lộ trình năng lượng trọng yếu với nhiều thương vụ buôn bán dầu Thế giới
đi qua, Biển Đông được ví như một van điều tiết dòng chảy dầu thô giữa vùng Vịnh
và các nền kinh tế ở Đông Nam Á. Như vậy, Biển Đông đang nắm giữ vị trí chiến
lược trong giao thương hàng hải của các quốc gia khu vực nói riêng và cộng đồng
quốc tế nói chung. Nếu các loại tàu biển không chạy qua Biển Đông mà vòng qua
Nam Australia hoặc đi theo đường mới thì cước phí vận tải sẽ tăng lên gấp nhiều
lần, khi đó thiệt hại về kinh tế càng chứng tỏ tầm quan trọng của Biển Đông đối với
đời sống cộng đồng quốc tế.
Vai trò trong phát triển kinh tế quốc gia
Biển Đông là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho
đời sống và sự phát triển kinh tế của các quốc gia ven biển, đặc biệt là tiềm năng
sinh vật biển và khoáng sản phong phú, đa dạng. Với trữ lượng tương đối lớn cùng
đối tượng khai thác đa dạng, nhiều sinh vật có giá trị sử dụng, xuất khẩu cao, hoạt
động khai thác có thể tiến hành quanh năm, Biển Đông đã đem lại nguồn lợi kinh tế
lớn cho các quốc gia khu vực. Chính vì vậy, các nước như Trung Quốc, Thái Lan,
Việt Nam, Indonesia và Philippines đều phát triển và trở thành những quốc gia đánh
bắt và nuôi trồng hải sản đứng hàng đầu Thế giới.
Biển Đông cũng được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất
Thế giới với hầu hết các nước trong khu vực đều là những nước khai thác và sản
xuất dầu khí từ biển như Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái
Lan … trong đó Indonesia đã là thành viên của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu khí
(OPEC). Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có
triển vọng dầu khí với tổng trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn
10
dầu quy đổi, trữ lượng khai thác khoảng 02 tỷ tấn và trữ lượng dự báo của khí
khoảng 1.000 tỷ mét khối [9,10]. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự
trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỷ thùng với khả năng sản xuất 2,5
triệu thùng mỗi ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển
Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể
lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng
18,5 triệu tấn mỗi năm, duy trì được trong vòng 15 đến 20 năm tới. Các khu vực có
tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh
Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Ngoài ra, theo các
chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa đựng tài
nguyên khí đốt đóng băng, trữ lượng loại tài nguyên này trên thế giới ngang bằng
với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong
tương lai gần. Chính tiềm năng dầu khí chưa được khai thác được coi là một nhân tố
quan trọng làm tăng thêm các yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa và các vùng biển quanh hai quần đảo.
Cùng với khu hệ sinh vật biển phong phú, Biển Đông còn có cảnh quan thiên
nhiên, các hệ sinh thái biển đa dạng với vùng triều cửa sông, rừng ngập mặn, rạn
san hô, đầm phá ven biển, các đảo ven bờ và vùng khơi. Chính điều này cũng tạo
cho các nước khu vực Biển Đông một lợi thế về phát triển du lịch sinh thái biển.
Ngành du lịch biển có khả năng mang lại nguồn thu lớn cho nền kinh tế của các
quốc gia ven biển nên đang giữ vai trò quan trọng và trở thành mũi nhọn phát triển.
Vai trò với chính trị và an ninh quốc phòng
Phía tây nam Biển Đông giao lưu với Ấn Độ Dương qua eo biển Karimata và
eo biển Malaca. Phía bắc và phía đông Biển Đông giao lưu thuận lợi với Thái Bình
Dương qua các eo biển sâu rộng như eo biển Đài Loan rộng 100 hải lý, sâu 70m và
eo biển Bashi sâu hơn 1.800m[70, tr.2-3]. Chính khả năng trao đổi với các vùng
biển lân cận qua các eo biển này của Biển Đông đã tạo nên vị trí chiến lược quan
trọng trong an ninh quốc phòng khu vực. Các đảo và quần đảo trong Biển Đông
cũng có ý nghĩa phòng thủ quan trọng đối với nhiều nước. Trong đó, hai quần đảo
11
Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược, có thể dùng để kiểm soát các tuyến
hàng hải qua lại Biển Đông và dùng cho mục đích quân sự như đặt trạm ra đa, các
trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè. Các nhà
chiến lược phương Tây cho rằng quốc gia nào kiểm soát được quần đảo Trường Sa
sẽ khống chế được cả Biển Đông.
1.1.2. Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông
Biển đảo là một phần lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc. Trong quá trình xây
dựng và bảo vệ đất nước, từ rất sớm cha ông ta đã có nhiều biện pháp thực thi
chủ quyền trên biển, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam có
đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý về chủ quyền trên Biển Đông đặc biệt với hai
quần đảo này.
Ngày 18/12/2003, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số
70161/2003/NĐ-CP về Quy chế khu vực biên giới biển gồm 5 chương, 37 điều –
quy định hoạt động của người, tàu thuyền Việt Nam, tàu thuyền nước ngoài trong
khu vực biên giới biển nhằm quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên biển, duy trì an
ninh trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới biển. Trước đó, ở mỗi thời kỳ,
trong mỗi lĩnh vực, Đảng và Nhà nước cũng đã có những biện pháp và hành động
cụ thể,thiết thực để thực hiện và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên biển.
Những hành động đó phần nào làm cho thế giới hiểu rằng vùng biển tranh chấp xưa
đã là của Việt Nam, đến nay vẫn thuộc chủ quyền của Việt Nam nên chúng ta sẽ
kiên quyết bảo vệ nó tới cùng.
Trong xây dựng cơ sở pháp lý
Trước khi các nước khác tranh cãi chủ quyền với Việt Nam tại quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, theo pháp luật quốc tế thời đó thì sự xác lập chủ quyền của
Việt Nam là thật sự, liên tục, hòa bình, phù hợp với cơ sở pháp lý quốc tế là Tuyên
bố của Viện pháp luật quốc tế Lausanne 1888[68]. Việt Nam đã xác lập chủ quyền
trên biển dựa trên nguyên tắc quyền phát hiện và chiếm hữu thực sự đối với lãnh
thổ vô chủ mà không vấp phải sự phản đối của bất kỳ quốc gia nào.
12
Trong thời kỳ Pháp thuộc, khi chiếm cứ các đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa chính
quyền Pháp đã tuyên bố chủ quyền của mình thông qua các thông báo trong Công
báo của Cộng hòa Pháp và Công báo Đông Dương. Khi Nhật chiếm đóng Trường
Sa, Pháp cũng gửi công hàm phản đối các hành động quân sự của Nhật và khẳng
định quần đảo này là một phần lãnh thổ của An Nam.
Vào thời chính quyền Bảo Đại, Việt Nam cũng đã có những tuyên bố chính
thức khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là
tuyên bố của thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Trần Văn Hữu, đại diện cho Việt
Nam trong phiên họp thứ 7 tại Hội nghị hòa bình San Francisco vào ngày
07/09/1951. Khi các nước cùng có tham vọng bá quyền và đưa ra yêu sách trên hai
quần đảo này. Trước sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Cộng bằng quân sự
trên quần đảo Hoàng Sa, ngày 14 tháng 2 năm 1974 Chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa đã tuyên bố rằng: “Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần
không thể cắt rời của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ và toàn dân Việt
Nam Cộng Hòa sẽ không khuất phục trước bạo lực và bác bỏ tất cả hoặc một phần
chủ quyền của họ trên những quần đảo này”. “Chính phủ Việt Nam cũng long trọng
tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên các hải đảo ngoài khơi miền
Trung và Nam phần Việt Nam, đã luôn luôn được chấp nhận như một phần lãnh thổ
của Việt Nam Cộng Hòa trên căn bản không thể chối cãi được về địa lý, lịch sử,
chứng cứ hợp pháp và bởi vì những điều thực tế”.
Nhà nước cũng nhiều lần công bố “Sách trắng” (năm 1979, 1981, 1980) về
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định
hai quần đảo này là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam và chúng
ta có đầy đủ chủ quyền đối với hai quần đảo này. Trong các công hàm gửi các bên
liên quan hoặc tại bàn đàm phán trong các Hội nghị, Việt Nam liên tục khẳng định
chủ quyền của mình. Bên cạnh đó, trước hành động chiếm đóng của Trung Quốc,Bộ
ngoại giao cũng có những tuyên bố lên án Trung Quốc xung đột vũ trang và chiếm
đoạt một số bãi đá ngầm tại Trường Sa.
13
Nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ chủ quyền cũng như tạo
nền tảng cho việc giải quyết tranh chấp, Việt Nam đã tiến hành đàm phán, gia nhập
Công ước Luật biển 1982 và thương lượng, ký kết Hiệp định với các quốc gia láng
giềng cũng như tiến hành soạn thảo, ban hành nhiều văn bản pháp lý quốc gia. Việc
xây dựng hệ thống pháp lý không những tạo điều kiện tiền đề cho Việt Nam xác lập
chủ quyền mà còn tạo cơ sở vững chắc để chúng ta thực hiện và bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ quốc gia.
Trong quản lý hành chính
Trước những năm 1975, chính quyền Việt Nam cũng đã có những hoạt động
cụ thể trong quản lý hành chính để thực hiện chủ quyền của mình trên Biển Đông.
Có thể kể đến như việc sát nhập quần đảo Hoàng sa vào tỉnh Thừa Thiên (năm
1938), vào tỉnh Quảng Nam (năm 1961), sát nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa (năm
1933), vào tỉnh Phước Tuy (năm 1973); tiến hành các hoạt động cắm cờ, lập bia chủ
quyền, cấp phép khai thác...
Từ năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã đề ra các chủ trương, chính sách và biện pháp quan trọng nhằm tăng cường
quản lý Nhà nước về biển, xây dựng cho được thế và lực vững mạnh, đủ sức đấu
tranh lâu dài, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển đồng thời phát triển kinh tế biển.
Năm 1976, trong Nghị Quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, Đảng ta có đưa ra chủ
trương: “… Phát triển nhanh đội tàu biển, xây dựng, mở rộng, quản lý tốt hệ thống
cảng biển”. Năm 1982, Chính phủ quyết định thành lập huyện đảo Trường Sa thuộc
tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Sau
nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Hoàng Sa giờ đã thuộc thành phố
Đà Nẵng còn huyện Trường Sa thì thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1987 trong Nghị quyết số 06/NQ/TƯ ngày 30/11/1987 của Bộ chính trị
“Về bảo vệ chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tăng
cường sự có mặt của Việt Nam ở Biển Đông và quần đảo Trường Sa” đã khẳng định
hai quần đảo này từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam, giữ vị trí hết sức quan trọng về mặt
quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Việc Việt Nam đóng
14
giữ trên quần đảo Trường Sa và thường xuyên có mặt trên Biển Đông là sự kiện có
ý nghĩa to lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, các vùng biển, thềm lục địa nhạy cảm
dễ bị các quốc gia khác yêu sách, tranh chấp, thì vùng ven biển, các đảo xa bờ là
khu vực cần được ưu tiên hàng đầu. Hiện khu vực đó cũng đã được củng cố vị trí
vững chắc, nâng cao sức mạnh phòng thủ, đồng thời đầu tư thích đáng xây dựng cơ
sở hạ tầng, cơ sở dịch vụ hậu cần nhằm thu hút các hoạt động kinh tế biển, góp phần
củng cố thế và lực của Việt Nam trên các vùng biển này.
Nghị quyết 03-NQ/TW ngày 5/6/1993 của Bộ chính trị đã nhấn mạnh: “Vị trí
và đặc điểm địa lý của nước ta cùng với bối cảnh phức tạp trong vùng vừa tạo điều
kiện, vừa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tang
cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, bảo vệ tài nguyên và môi
trường sinh thái biển, phấn đấu trở thành một nước mạnh về kinh tế biển”. Mục
tiêu chiến lược mạnh về kinh tế biển này đã được triển khai thực hiện theo chỉ thị số
399-CT/CT của Thủ tướng Chính phủ.
Năm 1996, Đại hội lần thứ VIII lại tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của
biển và phát triển kinh tế biển với mục tiêu “khai thác tối đa tiềm năng biển và lợi
thế vùng biển, ven biển, kết hợp với an ninh quốc phòng”. Tại Đại hội Đảng lần thứ
IX năm 2001, kinh tế khu vực biển và hải đảo lần đầu tiên được quy định trong mục
riêng biệt: với mục tiêu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển và hải đảo, phát
huy thế mạnh đặc thù của hơn 1 triệu km2 thềm lục địa. Kết hợp chặt chẽ phát triển
kinh tế biển với bảo vệ an ninh vùng biển. Hội nghị lần 4 Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa X năm 2007 về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 có nêu rõ
mục tiêu: “đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển,
làm giảu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên
biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm
cho đất nước giàu, mạnh”.
Tháng 4 năm 2007, Chính phủ Việt Nam quyết định thành lập thị trấn
Trường Sa, xã Song Tử Tây và xã Sinh Tồn thuộc huyện Trường Sa. Năm 2008,
15
- Xem thêm -