Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Trách nhiệm pháp lý và đạo đức trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường b...

Tài liệu Trách nhiệm pháp lý và đạo đức trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ

.PDF
135
17
102

Mô tả:

ự\ PM ứ? Ç c *f ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUÂT • PHAN THỊ LAN PHƯƠNG TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG LĨNH ! v ư• c T R • T T ư• A N T O À N G IA O T H Ô N G ĐƯỜNG B Ô> (Q U A THỤC T IỄ N T Ạ I T ỈN H T H A N H H Ó A ) Chuyên ngành : LÝ LUẬN VÀ LỊCH s ử NHÀ N ước VÀ PHÁP LUẬT M ã số : 60 38 01 LUẬN VẢN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng T h ị K i m Q u ế ĐẠI HOC QUỐC GIA HA NỌ' TRUNG TÂM THÒNG TIN ĨHƯ VIỆN v - l ồ lA S ầ ù H À NỘI - 2007 CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN. Trách nhiệm pháp lý TNPL Trách nhiệm Hình sự: TNHS Trách nhiệm Dân sự: TNDS Trách nhiệm Hành chính TNHC Trách nhiệm Kỷ luật TNKL Trật tự an toàn giao thông đường bộ TTATGTĐB Trách nhiệm đạo đức TNĐĐ Vi phạm pháp luật VPPL Hành vi vi phạm HVVP Tai nạn giao thông TNGT Ý thức đạo đức YTĐĐ Bồi thường thiệt hại BTTH Vi phạm Hành chính VPHC Vi phạm đạo đức VPĐĐ Hành vi đạo đức HVĐĐ Quan hệ đạo đức QHĐĐ Ý thức đao đức YTĐĐ MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Các chữ viết tắt Mục lục PHẨN MỞ ĐẨU 1. Tính cấp thiết của Đề tài. 2. Tình hình nghiên cứu. 3. Mục đích của Đề tài. 4. Phương pháp nghiên cứu. 5. Kết cấu của Luận văn. PHẨN, NỘI DUNG Chương 1: NHŨNG VAN ĐẾ LÝ LUẬN c ơ BẢN VỂ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG LĨNH v ự c TRẬT T ự AN TOÀN GIAO THÔNG ĐUỒNG BỘ. 1.1. Trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 1.1.1. Khái niệm trật tự an toàn giao thông đường bộ. 1.1.2. Khái niệm trách nhiệm pháp lý. 1.1.3. Khái niệm trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 1.1.4. Các dấu hiệu đặc trưng của trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 1.1.5. Cơ sở trách nhiệm pháp lý, các hình thức trách nhiệm pháp lý trong trật tự an toàn giao thông đường bộ. 1.1.6. Các dạng trách nhiệm pháp lý cụ thể trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 1.1.6.1. Trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 1.1.6.2. Trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 1.1.6.3. 44 Mối quan hệ giữa các hình htức trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 1.2. 40 Trách nhiệm kỷ luật trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 1.1.7. 29 Trách nhiệm Dân sự trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bô. 1.1.6.4. 21 45 Trách nhiệm đạo đức trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 47 1.2.1. Khái niệm đạo đức. 47 1.2.1.1. Cấu trúc của đạo đức. 48 1.2.1.2. Chức năng của đạo đức. 50 1.2.1.3. Vai trò của đạo đức. 52 1.2.1.4. Mối quan hệ giữa đạo đức với pháp luật. 52 1.2.1.5. Các phạm trù của đạo đức. 57 1.2.2. Khái niệm trách nhiệm đạo đức. 60 1.2.3. Khái niệm trách nhiệm đạo đức trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 62 Chương 2: ! THỤb TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG LĨNH V ự c TRẬT T ự AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ HIỆN NAY QUA THỰC TIEN t ạ i t ỉ n h t h a n h h ó a . 2.1. 2.1.1. 67 Thực trạng pháp luật và chấp hành pháp luật trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 67 Thực trạng pháp luật nói chung. 67 2.1.1.1. Một số đặc điểm về pháp luật trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 67 2.1.1.2. Thực trạng chấp hành pháp luật vé trật tự an toàn giao thông đường bộ. 2.1.2. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng vi phạm trật tự an toàn giao thông và tai nạn giao thông đường bộ. 2.1.3. 72 80 Thực trạng về áp dụng biện pháp trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay. 2.2. 84 Thực trạng đạo đức trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 2.2.1. Thực trạng đạo đức của người tham gia giao thông. 2.2.2. Thực trạng đạo đức của người có thẩm quyền trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 86 87 89 Chương 3: M ộ f SÔ GIẢI PHÁP c ơ BẢN NHẰM GÓP PHAN h o à n THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT, NÂNG CAO ĐẠO ĐÚC TRONG LĨNH v ự c TRẬT T ự AN TOÀN GIAO THÔNG ĐUỒNGBỘ. 3.1. 91 Tính đồng bộ của các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật nâng cao dạo đức trong nính vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 3.2. 91 Các giảỉ pháp cụ thể nhầm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao đạo đức trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 3.2.1. Đổi mới hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ. 3.2.2. 93 93 Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ. 96 PHẦN M Ở ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Hệ thống giao thông vận tải nước ta bao gồm đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không, trong đó giao thông đường bộ là loại hình giao thông giữ vai trò quan trọng nhất trong sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng và an ninh quốc gia, đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân, đẩy mạnh giao lưu, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới...; An toàn giao thông là một phần quan trọng không thể thiếu ừong đời sống hiện nay vì bên cạnh những nhu cầu như: ăn, mặc, ở... con người còn có nhu cầu đi lại; việc đi lại đó cần đảm bảo về sự thuận tiện và an toàn cho các chủ thể khi tham gia giao thông; người dân Việt Nam hiện nay nhu cầu đi lại không còn là sự bó hẹp như trước đây mà bây giờ mở ra rộng ra; Đáp ứng yêu cầu đó Hiến pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định về việc tự do đi lại của công dân Việt Nam cụ thể tại điều 68: "Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ỏ trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật Việt Nam nói riêng, các nước đang phát triển, thậm chí ở cả những nước phát triển (nói chung), tai nạn giao thông (TNGT), ùn tắc giao thông gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng vẻ tính mạng, tài sản của nhà nước, của nhân dân, đây chính là vấn đề mang tính xã hội, tính toàn cầu. Theo thống kê của Hiệp hội an toàn đường bộ toàn cầu - GRSP (Global road safety partnership) hàng năm thế giới có khoảng hơn 1,2 triệu người chết, khoảng trên 50 triệu người bị thương, thiệt hại vể tài sản lên tới hơn 500 tỷ USD do TNGT đường bộ gây ra, Khoảng 75% vụ TNGT đường bộ xảy ra ở các nước đang phát triển mặc dù các nước này chỉ chiếm từ 32% phương tiện cơ giới đường bộ của thế giới, trong số TNGT đường bộ thì tai nạn do người đi xe máy gây ra chiếm tới 85%. 1 Việt Nam là một trong những nước có số vụ TNGT cao nhất thế giới, TNGT không chỉ là sự thiệt thòi cho chính những người bị thiệt mạng mà CÒĨ1 để lại gánh nặng cho cả xã hội... Thế kỷ XXI là thế kỷ của công nghệ thông tin và kinh tế tri thức, chúng ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, từng bước hội nhập khu vực và quốc tế; Hiện nay chúng ta đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới - WTO... Vì vậy giao thông vận tải nói chung, giao thông đường bộ nói riêng ngày càng giữ vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế- xã hội, hơn thế nữa xã hội phát triển, đời sống ngày càng được nâng cao, nhu cầu đi lại và số lượng phương tiện tham gia giao thông ngày càng nhiều, khả năng vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ (TTATGTĐB), TNGT đường bộ ngày càng gia tăng; Việc tham gia giao thông an toàn và được bảo đảm an toàn chính là mục đích mà mỗi cá nhân, tổ chức, xã hội hướng tới. Để giải quyết được một cách hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, nhu cầu sinh sống, làm việc cùng vói nhu cầu tham gia giao thông của xã hội, bên cạnh đó là sự cần thiết phải kiềm chế được tình hình vi phạm quy định pháp luật về TTATGTĐB, TNGT và những thiệt hại mà nó gây ra. Trên thế giới do nhu cầu đi lại của công dân các nước lẫn nhau nhằm giao lưu văn hóa, kinh doanh thương mại hiện nay ngày càng được rộng mở vì vậy vấn đề an toàn giao thông không còn là của riêng quốc gia nào mà trở thành vấn đề chung của toàn thế giới... Liên Hiệp Quốc đã đứng ra kêu gọi cả thế giới cần có những biện pháp để kiềm chế tình trạng vi phạm TTAGTĐB, TNGT; cụ thể là hành động hưởng ứng “Tuần lễ an toàn giao thông toàn cầu” do Liên Hiệp quốc đứng ra khởi xướng từ ngày 23 đến 29 tháng 4 năm 2007. Còn đối với Việt Nam không chỉ nhiệt liệt hưởng ứng ‘Tuần lễ an toàn giao thông toàn cầu” chúng ta đã có nhiều hành động rất thiết thực của riêng mình như: ‘'Tháng an toàn giao thông quốc gia ; quan trọng nhất là ngày 29 tháng 06 2 năm 2001 Quốc hội nước ta đã thông qua Luật giao thông đường bộ. Luật này quy định quy tắc giao thông đường bộ, các điều kiện bảo đảm an toàn giao thông đường bộ của kết cấu hạ tầng, phương tiện và người tham gia giao thông đường bộ, hoạt động vận tải đường bộ, trước đây chúng ta mới chỉ sử dụng những văn bản dưới luật để điều chỉnh lĩnh vực này cho nên hiệu lực không cao. Cùng với Luật giao thông đường bộ nhà nước cũng ban hành một loạt các văn bản pháp luật quy định trách nhiệm hình sự (TNHS), trách nhiệm dân sự (TNDS), trách nhiệm hành chính (TNHC) trong lĩnh vực bảo đảm TTATGTĐB như: Căn cứ vào yêu cầu thực tế, căn cứ vào quy định của Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định tại Điều 78: “Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của nhà nước và lợi ích công cộng Tại Điều 79 quy định: “Công dân cố nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội... chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng”. Vì vậy mà chương XIX của Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định vể các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng; Nghị định số 15/2003/NĐ- CP ngày 19-02- 2003 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về giao thông đường bộ; Nghị định số 92/2003/ NĐ-CP ngày 13/8 năm 2003 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 41 Nghị định 15/2003; và hiện nay thì Nghị định 152/ 2005/ NĐ- CP ngày 15 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ thay thế Nghị định 15/2003 và Nghị định 92/2003... đáp ứng tình hình vô cùng phức tạp của diễn biến về trật tự an toàn giao thông ở nước ta. Mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực trong việc bảo đảm TTATGTĐB nhưng hiện nay tình hình TTATGTĐB nước ta nói chung, trên địa bàn tỉnh Thanh hoá nói riêng vẫn còn nhiều tồn tại bất cập: Hệ thống đường bộ tuy đã được xây dựng nhiều tuyến đường mới nhưng chất lượng không đảm bảo, thiếu đồng bộ; còn nhiều tuyến đường cũ nhỏ hẹp, xuống cấp vẫn chưa được đầu tư sửa chữa nâng cấp, phương tiện tham gia giao thông tăng nhanh làm mật độ 3 giao thông cao, Luật và các văn bản dưới luật còn chậm ban hành, thiếu đồng bộ, một bộ phận người thực thi pháp luật không nghiêm vì vậy hiệu lực pháp luật chưa hiệu quả, thậm chí còn xuất hiện hiện tượng “nhờn luật”; ý thức của người tham gia giao thông kém, vấn đề đạo đức trong lĩnh vực TTATGTĐB chưa được quan tâm đúng mức, nhiều vi phạm xảy ra; cần phải có các biện pháp tích cực hơn nữa để khắc phục tình trạng này. Từ thực trạng nêu trên cho thấy việc hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về TTATGTĐB cũng như việc hoàn thiện cơ chế nhằm nâng cao trách nhiệm pháp lý (TNPL) trong lĩnh vực TTATGTĐB; nâng cao đạo đức trong lĩnh vực TTATGTĐB đang là một trong những vấn đề cấp thiết (bên cạnh cuộc chiến chống vi phạm pháp luật môi trường và vệ sinh an toàn thức phẩm) cần phải quan tâm ở nước ta hiện nay. Đó cũng chính là lý do vì sao tôi chọn đề tài “Trách nhiệm pháp lý và đạo đức trong tĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ (qua thực tiễn tại tỉnh Thanh Hoá) 2. Tình hình nghiên cứu. Ở nước ta hiện nay vấn đê này vẫn còn là mới mẻ đặc biệt là về mặt lý luận, hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể về vấn đề này mà chỉ mới tiếp cận ở góc độ mang tính thực tiễn, một vài công trình nghiên cứu ở khía cạnh khác như: Năm 2001 Đề tài luận án tiến sỹ luật học về trách nhiệm bổi thường thiệt hại do các vụ tai nạn giao thông đường bộ của NguyễnThanh Hồng. Năm 2003 Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản cuốn Trật tự an toàn giao thông đường bộ thực trạng và giải pháp do Tiến sỹ Trần Văn Luyện chủ biên. Tìm hiểu các tội xâm phạm lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ trong Bô Luật hình sự năm 1999 của Nhà xuất bản giao thông vận tải xuất bản năm 2003; Ngoài ra trên một số báo và tạp chí có đề cập đến nhưng mới chỉ 4 tiếp cận ở mức độ phản ánh hiện tượng mang tính chất tiêu cực về TTATGTĐB như: Báo Pháp luật, Báo Lao động... 3. Mục đích của đề tài. Từ kết quả nghiên cứu được nêu trong bản luận văn sẽ góp phần hoàn thiện cơ chế trách nhiệm pháp lý (TNPL) trong việc giữ gìn và bảo đảm TTATGTĐB, từng bước nâng cao ý thức pháp luật, nâng cao phẩm chất đạo đức TTATGTĐB trong nhân dân cũng như cán bộ công chức có thẩm quyền trong lĩnh vực TTATGTĐB, thông qua đó nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực bảo đảm TTATGTĐB ở nước ta. 4. Phương pháp nghiên cứu: Trong luận văn đã sử dụng các phương pháp: Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học cụ thể, phương pháp thống kê, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp phân tích thuần tuý quy phạm, phương pháp so sánh pháp luật. 5. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu và kết luận thì luận văn được chia làm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiộm pháp lý và đạo đức trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. Chương 2: Thực trạng pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giữ gìn trật tự an toàn giao thông đường bộ hiện nay (qua thực tiễn của tỉnh Thanh Hóa). Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp trách nhiệm pháp lý và đạo đức trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 5 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN c ơ BẢN VỂ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG LĨNH v ự c TRẬT Tự AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 1.1. Trách nhiệm pháp lỷ trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. 1.1.1. Khái niệm trật tự an toàn giao thông đường bộ. Giao thông đường bộ ỉà thành phần vô cùng quan trọng đối với việc đi lại của chúng ta dù ở bất kỳ địa hình nào, mọi đối tượng; không ai có thể sống mà không cần đến loại hình giao thông đường bộ vì nó gắn liền với đời sống của mỗi con người ngay từ khi sinh ra, đến khi nhắm mắt xuôi tay; Bên cạnh đó giao thông đường bộ còn có nhiệm vụ rất quan trọng là đảm nhiệm chức năng xã hội hóa, giúp đẩy nhanh việc nâng cao dân trí, giảm đi sự chênh lộch giữa các vùng, miên về kinh tế, văn hóa xã h ộ i... Ngược lại giao thông đường bộ chiếm tỷ lệ vể số vụ tai nạn cao nhất trong các loại hình giao thông, việc giữ gìn TTATGTĐB là làm giảm đi các ùn tắc giao thông, TNGT. Khi nói tới giao thông đường bộ có rất nhiều các quan niệm khác nhau về việc hiểu như thế nào là TTATGTĐB. Quan điểmỉ : cho rằng TTATGTĐB là việc chấp hành triệt để những yêu cầu kỹ thuật quản lý đối với các công trinh giao thông và phương tiện giao thông, quy định đối vói người tham gia giao thông khi hoạt động trên đường bộ, làm cho giao thông được trật tự, an toàn, thông suốt, thuận tiện. Trật tự, an toàn giao thông đô thị là việc chấp hành triệt để các quy định đối với người, phương tiện tham gia giao thông trên đường đô thị; các quy định đối với việc sử dụng đường phố, vỉa hè, lòng đường; các quy định đối với việc bảo vệ những công trình giao thông trong đô thị nhằm đảm bảo cuộc sống yên tĩnh cho dân cư đô thị, bảo đảm vệ sinh môi trường và mỹ quan thành phố; Phục vụ cho việc quản lý đô thị”. [46, tr.384] 6 Ở đây đã tách rời an toàn giao thông đường bộ ra khỏi an toàn giao thông đô thị nhưng trên thực tế thì việc nói tới TTATGTĐ đã bao gồm cả giao thông đô thị cho nên đây không phải là quan niệm chuẩn xác và khoa học, không những thế khi nói tới TTATGTĐB nói chung vẫn là quan niệm chưa thực sự đầy đủ vì làm cho người ta hiểu chỉ nói tới yếu tố quản lý của nhà nước mà cụ thể là do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền thực thi nhiệm vụ của mình để thực hiện hoạt động quản lý trong khi Luật giao thông đường bộ quy định quản lý nhà nước về giao thông đường bộ mới chỉ là một bộ phận trong TTATGTĐB. Quan điểm 2.TTATGTĐB được hiểu là là sự đảm bảo cho mọi hoạt động giao thông được trật tự, an toàn, nhanh chóng, tiện lợi, thông suốt và mỹ quan môi trường; hạn chế thấp nhất các vi phạm luật giao thông và các quy phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông, hạn chế ùn tắc giao thông, kiềm chế tai nạn giao thông, ngăn ngừa thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra [52, tr.15]. Với quan niệm này đã chỉ ra được tính khái quát khi nói tới TTATGTĐ, nhưng cách dùng thuật ngữ mang tính chất pháp lý ở đây còn còn chưa thực sự chuẩn xác, chủ yếu mang tính chất liệt kê. Quan điểm 3 : TTATGTĐB là hộ thống các mối quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải công cộng mà mọi người tham gia giao thông phải tuân thủ để đảm bảo hoạt động giao thông thông suốt, trật tự an toàn, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông, gây thiệt hại về người và tài sản. [52, tr.17]. Trong các cách hiểu đã được nêu trên thi quan điểm của luận văn theo cách hiểu thứ ba vì đây là cách hiểu mang tính chất khái quát, đầy đủ và rõ ràng nhất (ngay cả từ cách sử dụng thuật ngữ pháp lý) từ quan niệm này đã cho ta thấy được khi đề cập đến vấn đề TTATGTĐB bao gồm một số vấn đề như sau: 7 + Là hoạt động giao thông được điều chỉnh bằng một hệ thống các quy phạm pháp luật, bắt buộc mọi chủ thể tham gia giao thông phải tuân theo một cách tuyệt đối. + TTATGTĐB là việc hạn chế thấp nhất TNGT xảy ra, đảm bảo an toàn cho người và tài sản khi tham gia giao thông. + Hạn chế ùn tắc giao thông, đảm bảo giao thông được tiện lợi, có hiộu quả, tiết kiệm được cước phí vận chuyển, thời gian trên đường. + Đảm bảo được yêu cầu mỹ quan giao thông, chống ô nhiễm môi trường. + Không những thế TTATGTĐB còn phải được hiểu là bao gổm cả việc quản lý TTATGTĐB tức là: tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về TTATGTĐB, quản lý cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, đăng ký quản lý phương tiện giao thông vận tải đường bộ, quản lý trường lớp đào tạo lái xe, cấp giấy phép lái xe, tuần tra kiểm soát giao thông đường bộ, chỉ huy điều khiển giao thông đường bộ, xử lý vi phạmpháp luật (VPPL) và điều tra xử lý TNGT đường bộ. Mặc dù nội dung của TTATGTĐB quy định về những vấn đề đã nêu ở trên, nhưng trong khuôn khổ của luận văn tác giả chỉ xin được đi sâu vào một khía cạnh đó là “Trách nhiệm pháp lý và đạo đức trong tĩnh vực trật tự an toàn giao thông . ” 1.1.2. Khái niệm trách nhiệm pháp lý. Trong đời sống xã hội tùy từng lĩnh vực cụ thể “trách nhiệm” được hiểu theo những nghĩa khác nhau phù hợp vói các lĩnh vực đó; “Trách nhiệm” khi được sử dụng với tư cách là thuật ngữ pháp lý được hiểu theo hai nghĩa đó là nghĩa tích cực và nghĩa tiêu cực; Hiểu theo nghĩa tích cực TNPL là trách nhiệm phải xử sự hợp pháp của một người trong việc ý thức được nghĩa vụ của mình là không được thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị cấm bởi từng ngành luật tương ứng (Đây là cách hiểu không truyền thống, không có tính chất phổ biến vì vậy không được thừa nhận rộng rãi trong các nhà luật hoc nói chung [42, tr.550]. 8 Theo nghĩa tiêu cực trách nhiệm là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà nhà làm luật coi là VPPL và hậu quả pháp lý ấy được thể hiện trong việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý bằng chế tài Pháp lý tương ứng đối với người đã bị coi là có lỗi trong việc thực hiện VPPL đó, còn người bị xử lý phải chịu sự tác động về mặt pháp lý theo một trình tự riêng do luật định (Đây được coi là cách hiểu theo quan điểm truyền thống, có tính chất phổ biến nên được thừa nhận rộng rãi trong các nhà luật học nói chung [42, tr.550]. Trong đề tài khái niệm trách nhiệm Pháp lý được hiểu theo nghĩa này; Trách nhiệm pháp lý có các đặc điểm như sau: Đặc điểm thứ nhất: Trách nhiệm pháp lý là hậu quả Pháp lý của hành vi VPPL, TNPL chỉ phát sinh khi có sự việc VPPL; trong thực tế khách quan nếu không có việc thực hiộn hành vi VPPL - hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật cấm thì không xuất hiện vấn đề TNPL vì vậy mà TNPL là dạng trách nhiệm nghiêm khắc hơn cả so với các dạng trách nhiệm khác vì các dạng trách nhiệm phi pháp lý này không đưa đến hậu quả bất lợi và nghiêm trọng đối với chủ thể của hành vi VPPL. Vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các lợi ích được bảo vệ bằng ngành luật tương ứng hoặc trái với các quy định được quy định trong ngành luật ấy, do người cố nãng lực trách nhiệm pháp lý và đủ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách có lỗi. [42, tr.537]. Các yếu tố cấu thành nên VPPL gồm có: Mặt khách quan, Khách thể, Mặt chủ quan, chủ thể: - Khách thể của VPPL là quan hệ xã hội được Pháp luật bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của sự VPPL, nhưng bị hành vi VPPL xâm hại đến và gây nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định. - Chủ thể của VPPL là thể nhân (con người cụ thể có năng lực TNPL và đủ tuổi chịu TNPL) hoặc Pháp nhân đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi VPPL bị cấm. 9 Mặt khách quan của VPPL là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm - đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng Pháp luật, tức là sự thể hiện cách xử sự có tính chất VPPL trong thực tế khách quan [42, tr.545]. + Mặt khách quan của VPPL là hành vi do con người thực hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động làm xâm hại đến các lợi ích nhất định và gây ra (có khả năng thực tế gây ra) hậu quả nguy hại cụ thể cho lợi ích của Công dân, xã hội, Nhà nước. + Mặt khách quan VPPL phải là hành vi trái pháp luật có nghĩa là bằng hành động hoặc không hành động nó đã xâm phạm đến các quy định tương ứng (các lợi ích được pháp luật bảo vệ) mà nhà làm luật điều chỉnh trong các văn bản của từng ngành luật cụ thể, tức là vi phạm điều cấm được quy định trong luật. + VPPL phải là hành vi được thực hiện bởi người có nãng lực TNPL, tức là người mà tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật cấm ở trong trạng thái bình thường và hoàn toàn có khả năng nhận thức được đầy đủ tính chất thực tế và tính chất pháp lý của hành vi do mình thực hiện, cũng như khả năng điều khiển được đầy đủ hành vi đó. + VPPL phải ỉà hành vi do người đủ tuổi chịu TNPL thực hiện tức là người mà tại thời điểm phạm tội đã đạt đến độ tuổi do ngành luật tương ứng quy định để có thể có khả năng nhận thức được đầy đủ tính chất thực tế và tính chất pháp lý của hành vi do mình thực hiện, cũng như có khả năng điểu khiển được đầy đủ hành vi đó. - Mặt chủ quan của VPPL là những biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể VPPL gồm có các yếu tố: + Lỗi của chủ thể VPPL; Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi vi phạm (HVVP) của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra, thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã hội; Lỗi được thể hiện dưới dạng lỗi cố ý 10 (lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (vô ý vì quá tự tin, vô ý vì quá cẩu thả); Lỗi cố ỷ trực tiếp: chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra và mong muốn điều đó xảy ra.[53, tr.501] Lỗi cố ý gián tiếp : chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, nhưng để mặc cho nó xảy ra. Lỗi vô ý do quá tự tin : chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, nhưng hy vọng, tin tưởng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. Lồi vô ý do cẩu thả: chủ thể vi phạm đã không nhận trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội đo hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể hoặc phải cần nhận thấy trước hậu quả đó [53, tr.502] - Động cơ vi phạm, động cơ vi phạm được hiểu là cái( động lực) thúc đẩy chủ thể thực hiộn hành vi VPPL (có thể là vụ lợi, trả thù, đê hèn); - Mục đích vi phạm, mục đích vi phạm là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ của mình chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi VPPL, thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi [53, tr.502] Có thể nói rằng mặt khách quan, mặt khách thể, mặt chủ quan, mặt chủ thể là bốn yếu tố cấu thành nên nên VPPL chính là căn cứ để truy cứu TNPL; Như vậy có nghĩa là chỉ áp dụng đối với các chủ thể có năng lực hành vi thực hiện tức là áp đụng với các chủ thể có lý trí và tự do ý chí, nhận thức được hành vi của mình, có khả năng và điểu kiện tự lựa chọn cho mình cách xử sự phù hợp với những cách cư xử mà pháp luật quy định nhưng họ lại vẫn làm sai với điều đó. Hay chủ thể chịu TNPL chỉ có thể là những cá nhân hoặc tổ chức, có lỗi trong việc vi phạm các yêu cầu của luật pháp. 11 Đặc điểm thứ hai: TNPL luôn được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất định -một bên là nhà nước, còn bên kia là người đã thực hiện hành vi VPPL, tức là Nhà nước (đại diện cơ quan có thẩm quyền) có quyền xử lý người đã thực hiện hành vi VPPL nhưng phải có nghĩa vụ chỉ được xử lý dựa trên các cản cứ và trong các giới hạn do Pháp luật quy định, còn người đã thực hiện hành vi VPPL thì có nghĩa vụ phải chịu sự tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do nhất định, nhưng đồng thời cũng có quyển yêu cầu sự tuân thủ từ phía Nhà nước tất cả các quyền và lợi ích của con người và của công dân theo luật định. Đặc điểm thứ ba của VPPL là TNPL được xác định bằng một trình tự đặc biột bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà trình tự đó phải phải do Pháp luật quy định có nghĩa là không phải bất kỳ cơ quan Nhà nước nào cũng được phép quy TNPL cho một Công dân, mà chỉ có cơ quan nào được trao thẩm quyền theo luật định, nhưng thẩm quyền này không phải là sự tùy tiện mà theo trình tự đặc biệt do Pháp luật tố tụng quy định - giai đoạn tố tụng cụ thể tương ứng với cơ quan nào thì cơ quan ấy mới có thể có thẩm quyền khẳng định vấn đề TNPL của Công dân bị coi là là có lỗi trong việc thực hiện hành vi VPPL. Đặc điểm thứ /m'TNPL chỉ được thể hiện trong các văn bản pháp luật đã có hiệu lực pháp luật bằng viộc áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi VPPL một hoặc nhiều chế tài cưỡng chế, hay TNPL được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước trong một vãn bản của cơ quan (người có chức vụ) tương ứng có thẩm quyền nhân danh Nhà nước [42, tr.554]. Đặc điểm thứ năm TNPL trong pháp luật hình sự chỉ mang tính chất cá nhân, trong một số lĩnh vực tương ứng phi hình sự (Luật hành chính, Dân sự...) Pháp nhân (cơ quan, tổ chức hoặc đom vị nào đó đã có lỗi để cho người đại diện của mình VPPL vì lợi ích của tập thể) cũng có thể phải bị truy cứu TNPL [42, tr.552]. 12 Các dạng TNPL đều được quy định trong từng ngành luật tương ứng của hệ thống Pháp luật cụ thể gồm các chế tài cơ bản như: + Trách nhiệm hình sự là dạng TNPL nghiêm khắc nhất và là hậu quả của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện trong việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Tòa án) áp dụng đối với những người đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Pháp luật Hình sự quy định. + Trách nhiệm Hành chính là hậu quả của hành vi VPPL hành chính và được thể hiện trong việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với người đã có lỗi trong việc VPPL hành chính một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế (chế tài) của Nhà nước do pháp luật hành chính quy định [42, tr.553]; TNPL hành chính chủ yếu được cơ quan quản lý nhà nước áp dụng đối với các cá nhân hoặc tổ chức thực hiên VPPL hành chính. Chế tài gồm có phạt tiền, cảnh cáo và so với Chế tài hình sự thì ít nghiêm khắc hơn. + Trách nhiệm Dân sự là hậu quả của hành vi VPPL dân sự và được thể ĩ < • 1 • * hiện trong việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với người đã có lỗi trong việc VPPL dân sự một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Pháp luật dân sự quy định (chủ yếu mang tính chất là BTTH) [42, tr.553] + Trách nhiệm kỷ luật (TNKL) do thủ trưởng cơ quan, giám đốc xí nghiệp áp dụng đối với cán bộ, nhân viên, người lao động nói chung khi họ vi phạm kỷ luật lao động, kỷ luật nhà nước [51,tr.514]; Chế tài TNKL thường là khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, cách chức, buộc thôi việc, chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn) + Trách nhiệm vật chất (TNVC) là loại TNPL do các cơ quan, xí nghiệp...áp dụng đối với cán bộ, công chức, công nhân của cơ quan, xí nghiệp trong trường hợp họ gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan xí nghiộp [53, tr.514] 13 - Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với những biện pháp cưỡng chế được quy định trong chế tài các quy phạm luật (mang tính chất trừng phạt hoặc khôi phục pháp luật), hay TNPL là sự áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với chủ thể VPPL [42,tr.504], tức là khi VPPL xảy ra thì lúc đó giữa chủ thể vi phạm và cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ xuất hiện một loạt các quan hệ trong đó cơ quan nhà nước xác định biện pháp cưỡng chế và áp dụng các biộn pháp đó; nhưng không phải biện pháp tác động nào có tính chất cưỡng chế trong trường hợp này đều là biện pháp TNPL; những biện pháp có tính chất trừng phạt tước đọat, làm thiệt hại ở một phạm vi nào đó các quyền, tự do, lợi ích hợp pháp mà chủ thể VPPL đáng được hưởng (phạt tiền, phạt tù), các biện pháp khôi phục pháp luật thường được áp dụng kèm theo với biện pháp trừng phạt như: (biện pháp BTTH về vật chất hoặc tinh thần, buộc dỡ bỏ công trình xây dựng trái phép nhằm khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp đã bị hành vi VPPL xâm hại); Cơ sả truy cứu TNPL là quyết định có hiộu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: TNPL và Nhà nước có mối quan hệ gắn bó không tách rời có nghĩa là nhà nước mới có thẩm quyền xác định một cách chính thức hành vi nào là VPPL và áp dụng biện pháp TNPL đối với chủ thể gây ra vi phạm đó. TNPL chấm dứt khi xẩy ra sự kiện pháp lý thích ứng như: Thực hiện xong quyết định xử phạt hoặc có quyết định ân xá[53,tr.513]. Tóm lại, trách nhiệm pháp lý là hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật và được thể hiện trong việc cơ quan Nhà nước (người có chức vụ) có thẩm quyền áp dụng đối với người đã có lỗi trong việc Vỉ phạm pháp luật một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế ị chế tài xử lý) của Nhà nước do ngành luật tương ứng quy định. 14 1.1.3. Khái niệm trách nhiệm pháp lý trong tĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ. Trong lĩnh vực TTATGTĐB, trách nhiệm pháp lý cũng được hiểu theo hai khía cạnh đó là khía cạnh tích cực và khía cạnh tiêu cực, Hiểu theo khía cạnh tích cực TNPL trong lĩnh vực TTATGTĐB vừa được hiểu là quyền, lại vừa được hiểu là nghĩa vụ và trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực TTATGTĐB; Có nghĩa là các chủ thể phải có quyền nhưng đồng thời cũng phải có nghĩa vụ bảo đảm TTATGTĐB, thi hành nghiêm chỉnh pháp luật về TTATGTĐB, phát hiện tố cáo những hành vi VPPL về TTATGTĐB. Ví dụ như: Tại khoản 2 Điều 4 Luật Giao thông đường bộ quy định: “Người tham gia giao thông phải nghiêm chỉnh chấp hành quy tắc giao thông, giữ gìn an toàn cho mình và cho người khác, chủ phương tiện và người điều khiển phương tiện phải chịu trách nhiệm trước Pháp luật về việc bảo đảm các điều kiện an toàn của phương tiện tham gia giao thông. ” Tại điểm c, k2, Điều 36 quy định những người có mặt tại hiện trường nơi xảy ra tai nạn giao thông. phải báo tin ngay cho cơ quan Công an hoặc ủ y ban nhân dân nơi gần nhất Đối với những chủ thể khi tham gia giao thông được quyền bảo đảm cho việc tham gia giao thông của mình được thuận lợi và an toàn, không bị xâm hại lợi ích hợp pháp bằng các quy định pháp luật trong lĩnh vực TTATGTĐB; Sự đảm bảo an toàn về tính mạng và tài sản khi tham gia giao thông, các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước được nhà nước khuyến khích tạo điều kiện để có thể ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào lĩnh vực TTATGTĐB; Ngoài ra chủ thể khi tham gia giao thông phải tuân thủ tuyệt đối các quy định pháp luật trong lĩnh vực TTATGTĐB như: Tuân thủ tuyệt đối các quy tắc giao thông đường bộ, tuyên truyền, giáo dục pháp luật giao thông đường bộ cho 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan