MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHỦ
TỊCH NƯỚC........................................................................................................... 7
1.1. Người đứng đầu nhà nước và trách nhiệm của người đứng đầu nhà nước
trong các hình thức chính thể.................................................................................7
1.1.1. Khái niệm người đứng đầu nhà nước và trách nhiệm của người đứng đầu nhà
nước.......................................................................................................................... 7
1.1.2. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể quân chủ......................................9
1.1.3. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể cộng hòa....................................13
1.1.4. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể cộng hòa xã hội chủ nghĩa.........21
1.2. Vị trí, vai trò của Chủ tịch nước trong lịch sử lập hiến Việt Nam và khái
quát về trách nhiệm của Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp Việt Nam......23
1.2.1. Vị trí, vai trò của Chủ tịch nước trong lịch sử lập hiến Việt Nam..................23
1.2.2. Khái quát về trách nhiệm của Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp Việt
Nam…...................................................................................................................... 26
1.2.3. Nhận xét chung về trách nhiệm của Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp Việt
Nam......................................................................................................................... 37
1.3. Trách nhiệm của Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 2013.......................39
1.3.1. Trách nhiệm của Chủ tịch nước trong lĩnh vực lập pháp...............................39
1.3.2. Trách nhiệm của Chủ tịch nước trong lĩnh vực hành pháp............................42
1.3.3. Trách nhiệm của Chủ tịch nước trong lĩnh vực tư pháp................................43
1.3.4. Trách nhiệm của Chủ tịch nước trong một số lĩnh vực khác.......................... 45
CHƯƠNG 2. HOÀN THIỆN TRÁCH NHIỆM CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY......................................................................................... 48
2.1. Thực trạng trách nhiệm của Chủ tịch nước ở nước ta hiện nay................48
2.1.1. Thực trạng trách nhiệm của Chủ tịch nước trong lĩnh vực lập pháp.............48
2.1.2. Thực trạng trách nhiệm của Chủ tịch nước trong lĩnh vực hành pháp..........52
2.1.3. Thực trạng trách nhiệm của Chủ tịch nước trong lĩnh vực tư pháp...............54
2.1.4. Thực trạng trách nhiệm của Chủ tịch nước trong một số lĩnh vực khác........56
2.2. Nhu cầu và phương hướng hoàn thiện trách nhiệm của Chủ tịch nước ở
nước ta hiện nay..................................................................................................... 59
2.2.1. Nhu cầu hoàn thiện trách nhiệm của Chủ tịch nước ở nước ta hiện nay.......59
2.2.2. Phương hướng hoàn thiện trách nhiệm của Chủ tịch nước ở nước ta hiện
nay........................................................................................................................... 61
2.3. Một số kiến nghị liên quan về trách nhiệm của Chủ tịch nước ở nước ta
hiện nay.................................................................................................................. 61
2.3.1. Kiến nghị liên quan đến trách nhiệm của Chủ tịch nước ở nước ta hiện nay….62
2.3.2. Thực hiện mô hình Tổng Bí thư đồng thời là Chủ tịch nước..........................74
KẾT LUẬN............................................................................................................ 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chế định nguyên thủ quốc gia là một trong những chế định phổ biến và xuất
hiện hầu hết trong tổ chức bộ máy nhà nước của tất cả các quốc gia trên thế giới. Ở
nước ta chế định nguyên thủ quốc gia xuất hiện lần đầu tiên trong Hiến pháp năm
1946 với tên gọi Chủ tịch nước và được duy trì cho đến ngày nay. Tùy vào từng thời
điểm lịch sử mà vị trí, tên gọi cũng như trách nhiệm của Chủ tịch nước cũng sẽ có
sự khác biệt.
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, nước ta tiến hành công cuộc đổi mới
đất nước một cách toàn diện về các mặt của đời sống xã hội và tiến hành hội nhập
quốc tế. Cho đến nay, công cuộc đổi mới đất nước vẫn đang được tiếp tục thực hiện
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng (nhiệm kỳ 2011-2016) đã chỉ ra rõ những vấn đề cơ bản của việc đổi mới bộ
máy nhà nước, trong đó có đề cập đến vấn đề đổi mới chế định Chủ tịch nước:
“nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực
hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối
ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ
quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Trên tinh thần kế thừa, trong
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (nhiệm kỳ
2021-2026) cũng nêu ra phương hướng “xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp...” – trong đó cơ quan Chủ tịch nước với vai trò là
mắt xích quan trọng trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi đáng kể đối với các quy
định có liên quan đến chế định Chủ tịch nước. Tuy nhiên qua gần 10 năm thực hiện
Hiến pháp trong bối cảnh đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế một cách sâu rộng như
hiện nay, chế định Chủ tịch nước đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Trong Báo cáo
tổng kết nhiệm kỳ 2011-2016 của Chủ tịch nước có nêu “mặc dù Chủ tịch nước đã có
nhiều cố gắng, song trong thực tế, hoạt động quốc phòng an ninh và việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn thống lĩnh đội ngũ vũ trang nhân dân vẫn còn những vướng
mắc... Trong nhiệm kỳ, trước một số vấn đề quốc kế dân sinh hệ trọng, Chủ tịch nước
chưa thực hiện quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy
cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch nước theo quy định
2
điều 90 của Hiến pháp”, hay “việc chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ cải cách tư
pháp còn chậm; Chủ tịch nước quyết định ký kết các điều ước quốc tế nhân danh
Nhà nước về ODA mang tính hình thức vì không quản lý trực tiếp, ít nắm được cụ
thể tình hình quản lý, sử dụng vốn vay, khả năng trả nợ, hiệu quả sử dụng các
nguồn vốn ODA” - Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ 2016-2021 của Chủ tịch nước. Ngoài
ra thông qua nghiên cứu tác giả nhận thấy rằng các quy định về vấn đề trách nhiệm
của Chủ tịch nước theo nghĩa tiêu cực, tức tính chịu trách nhiệm của Chủ tịch nước
trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn vẫn chưa thật sự cụ thể.
Nhận thức được vấn đề này, nhằm chỉ ra được những bất cập về quy định của
pháp luật cũng như những hoạt động thực tiễn có liên quan đến trách nhiệm của Chủ
tịch nước, qua đó đưa ra được những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa
trách nhiệm của Chủ tịch nước trong thời gian tới, tác giả chọn đề tài “Trách nhiệm
của Chủ tịch nước theo Hiến pháp Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học,
chuyên ngành Luật Hiến pháp và luật hành chính của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định Chủ tịch nước nói chung là đề tài được khá nhiều tác giả, nhà nghiên
cứu cũng như nhiều học viên quan tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên đa số đều ra đời
trong khoảng thời gian Hiến pháp năm 1992 có hiệu lực. Kể từ khi Hiến pháp năm
2013 có hiệu lực cho đến nay cũng vẫn có một số các công trình nghiên cứu, tác
phẩm có liên quan đến chế định Chủ tịch nước được ra đời tuy nhiên số lượng
không nhiều. Nổi bật có một số công trình nghiên cứu, tác phẩm như sau:
1. Luận văn thạc sĩ “Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1946 – sự kế thừa
và phát triển qua các bản Hiến pháp Việt Nam” của tác giả Lê Thị Hải Châu năm 2006.
Luận văn tập trung nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của chế định nguyên thủ
quốc gia, mô hình nguyên thủ quốc gia trong tổ chức bộ máy nhà nước dân chủ hiện
đại. Ngoài ra tác giả cũng có những đề cập liên quan đến hoàn cảnh ra đời của Hiến
pháp năm 1946, vị trí, vai trò cũng như các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước
trong Hiến pháp năm 1946. Đề tài cũng tập trung nghiên cứu đến các yếu tố tác động
đến sự ra đời và nội dung cơ bản của các bản Hiến pháp năm 1959, 1980 và Hiến pháp
năm 1992. Xuất phát từ tình hình thực tế tác giả đã nêu lên các nhu cầu hoàn thiện,
quan điểm định hướng cũng như đưa ra những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện chế định
Chủ tịch nước, đặc biệt là tiếp thu những ưu điểm của mô hình Chủ tịch nước trong
Hiến pháp năm 1946 đối với Hiến pháp hiện hành – Hiến pháp
1992.
3
2. Tác phẩm “Chế định Nguyên thủ quốc gia trong các Hiến pháp Việt Nam”, TS.
Đỗ Minh Khôi, Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, năm 2014. Nội dung tác phẩm tập
trung nghiên cứu về các đặc điểm của nguyên thủ quốc gia ở các hình thức chính thể
trên thế giới cũng như nghiên cứu về địa vị pháp lý, phương thức hình thành, các
nhiệm vụ, quyền hạn của nguyên thủ quốc gia trong các hình thức chính thể này.
Ngoài ra tác phẩm cũng đề cập đến những nhiệm vụ, quyền hạn của nguyên thủ
quốc gia trong Hiến pháp một số quốc gia cụ thể trên thế giới, nghiên cứu vị trí, vai
trò và các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp trong lịch
sử lập hiến ở nước ta. Trong tác phẩm này phần hoàn thiện chế định Chủ tịch nước
cũng là phần nghiên cứu trọng tâm. Tác giả đề cập các thực trạng, bất cập trong các
quy định về Chủ tịch nước, đồng thời tác giả cũng đề cập đến những chủ trương,
chính sách của Đảng lãnh đạo định hướng đổi mới chế định Chủ tịch nước. Thêm
vào đó, tác giả cũng có sự tiếp cận từ các góc độ văn hóa, truyền thống, chính trị và
điều kiện hiện tại của Việt Nam, từ đó dựa trên các phương hướng, nguyên tắc và đề
xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hơn nữa chế định Chủ tịch nước ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài hai tác phẩm nêu trên, còn có một số bài báo có liên quan đến chế định Chủ
tịch nước như: “Hình thức chính thể của các nước trên thế giới”, của tác giả Vũ
Hồng Anh, đăng trên tạp chí Luật học số 4 năm 1998; “Hiến pháp mới về vị thế, vai trò
của nguyên thủ quốc gia – Chủ tịch nước”, của tác giả Cao Vũ Minh, đăng trên tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 22 năm 2011; “Mối quan hệ của thiết chế Chủ tịch nước với
các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và cấu trúc bộ máy của thiết chế Chủ
tịch nước theo Hiến pháp”, của tác giả Nguyễn Thị Doan, đăng trên tạp chí Nghiên cứu
lập pháp số 18 năm 2014; “Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm
2013 và việc xây dựng luật về hoạt động của Chủ tịch nước”, của hai tác giả Cao Vũ
Minh và Võ Phan Lê Nguyễn, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 23 năm
2014; Cơ sở chính trị và pháp lý của việc ban hành luật về hoạt động của Chủ tịch
nước, của tác giả Cao Vũ Minh, đang trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 01 năm
2016; “Về quy định thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân của Chủ tịch nước”,
của tác giả Nguyễn Xuân Yêm đăng trên tạp chí Tổ chức Nhà nước tháng 7 năm
2016; “Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với cơ quan hành pháp ở Việt Nam”,
của tác giả Phạm Thị Phương Thảo, đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số 4 năm
2018 và một số bài viết khác.
4
Nhìn chung đây đều là những nghiên cứu được đầu tư một cách kỹ lưỡng, có tính
chuyên sâu về chế định Chủ tịch nước nói chung. Tuy nhiên đa số đều phân tích, đánh
giá vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước có liên quan đến việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc một số lĩnh vực khác mà chưa đi sâu
vào việc phân tích trách nhiệm của Chủ tịch nước (bao hàm cả vấn đề phải chịu trách
nhiệm của Chủ tịch nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình). Và
hiện nay cũng chưa có bất kỳ một tác phẩm, công trình nghiên cứu khoa học nào liên
quan trực tiếp đến vấn đề trách nhiệm của Chủ tịch nước theo Hiến pháp Việt Nam, đặc
biệt là Hiến pháp hiện hành - Hiến pháp năm 2013.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích nghiên cứu của tác phẩm là nhằm làm rõ trách nhiệm của Chủ tịch
nước qua các bản Hiến pháp trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Từ đó có những kiến
nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về trách nhiệm của Chủ tịch nước ở
nước ta theo Hiến pháp hiện hành trong thời gian tới.
Để thực hiện mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng của đề tài là cần
phải nghiên cứu một cách có hệ thống về trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia trong
các hình thức chính thể trên thế giới. Cùng với đó là trách nhiệm của nguyên thủ quốc
gia trong lịch sử lập hiến Việt Nam, đặc biệt là trong Hiến pháp hiện hành. Từ đó chỉ ra
các bất cập có trong Hiến pháp hiện hành và các văn bản pháp luật có liên quan cũng
như là các bất cập có trên thực tế. Dựa vào các lý luận và thực tiễn vừa phân tích, tác
giả đưa ra các kiến nghị, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hơn nữa trách nhiệm của
Chủ tịch nước theo Hiến pháp hiện hành, trên cơ sở các phương hướng, đường lối của
Đảng lãnh đạo và phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm
của Chủ tịch nước theo Hiến pháp Việt Nam. Trong đó đề tài tập trung nghiên cứu
các nội dung có liên quan đến chế định Chủ tịch nước như vị trí, vai trò, đặc biệt là
các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thông qua các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp, tư pháp và một số lĩnh vực khác. Đồng thời nghiên cứu về tính chịu trách
nhiệm của Chủ tịch nước thông qua các bản Hiến pháp trong lịch sử lập hiến Việt
Nam, trong đó có Hiến pháp hiện hành – Hiến pháp năm 2013.
Về phạm vi nghiên cứu, trong phạm vi luận văn này tác giả nghiên cứu một số
vấn đề lý luận và pháp lý về trách nhiệm của Chủ tịch nước ở Việt Nam thông qua
các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và đặc biệt là Hiến
5
pháp năm 2013, tác giả cũng đồng thời nghiên cứu về trách nhiệm của nguyên thủ quốc
gia trong các hình thức chính thể trên thế giới hiện nay như hình thức chính thể quân
chủ (quân chủ tuyệt đối, quân chủ nhị nguyên, quân chủ đại nghị) và hình thức chính
thể cộng hòa (cộng hòa tổng thống, cộng hòa đại nghị, cộng hòa hỗn hợp, cộng hòa xã
hội chủ nghĩa). Từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy định của Hiến
pháp về trách nhiệm của Chủ tịch nước, góp phần tạo nền tảng pháp lý vững chắc trong
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch nước, cũng như tính chịu trách
nhiệm của Chủ tịch nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện có chất lượng các mục tiêu và nhiệm vụ nói trên, đề tài vận dụng
những phương pháp đặc thù của ngành luật nói riêng và khoa học xã hội nói chung.
Cụ thể đề tài đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử: phương pháp này được sử dụng phổ biến trong
chương 1 của luận văn. Trong đó tập trung phân tích một cách có hệ thống về trách
nhiệm của Chủ tịch nước thông qua các bản Hiến pháp trong lịch sử lập hiến ở nước
ta, nhằm cho thấy sự phát triển của chế định nguyên thủ quốc gia, sự kế thừa và phát
huy những ưu điểm, khắc phục những mặt hạn chế của từng mô hình nguyên thủ
quốc gia có trong lịch sử lập hiến ở nước ta.
Phương pháp nghiên cứu so sánh: phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong
chương 1 của luận văn. Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống về trách nhiệm của
nguyên thủ quốc gia trong các hình thức chính thể trên thế giới từ đó làm nổi bật lên
những sự tương đồng và khác biệt giữa trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia ở Việt
Nam so với trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia trong các hình thức chính thể khác
trên thế giới.
Ngoài ra trong xuyên suốt luận văn tác giả cũng sử dụng một số phương pháp
khác như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ hơn về các vấn đề có liên quan đến trách
nhiệm của Chủ tịch nước.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Với tình hình nghiên cứu như hiện nay, chỉ riêng Việt Nam cũng đã có nhiều đề
tài nghiên cứu, sách chuyên khảo và nhiều bài báo khoa học đề cập đến chế định Chủ
tịch nước. Tuy nhiên tác giả cũng nhận thấy rằng hầu hết các tác phẩm nói trên đều chủ
yếu nghiên cứu về vị trí, vai trò của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước hoặc về các
nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành
6
pháp, tư pháp chứ chưa có bất kỳ một tác phẩm nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn
đề trách nhiệm của Chủ tịch nước (bao gồm cả vấn đề chịu trách nhiệm của Chủ
tịch nước có liên quan đến việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn).
Đặt trong bối cảnh như trên, luận văn của tác giả sẽ cung cấp thêm những kiến
thức lý luận và thực tiễn của nước ta về vấn đề trách nhiệm của Chủ tịch nước. Đối
với phần lý luận, đề tài đã tổng hợp và phân tích một cách hệ thống những kiến thức
lý luận cũng như pháp lý đã có liên quan đến trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia
trong các hình thức chính thể trên thế giới và trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia
trong lịch sử lập hiến ở nước ta. Về phần thực tiễn, tác giả phân tích cụ thể trách
nhiệm của Chủ tịch nước bao gồm trong từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp
và một số lĩnh vực khác cũng như vấn đề trách nhiệm của Chủ tịch nước với nghĩa
tiêu cực, từ đó có những đề xuất cụ thể để hoàn thiện hơn nữa các quy định có liên
quan đến trách nhiệm của Chủ tịch nước trong Hiến pháp hiện hành. Cuối cùng, có
thể nói đề tài sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho các bạn sinh viên, học
viên ngành luật nói chung và chuyên ngành Hành chính – Hiến pháp nói riêng khi
nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến Chủ tịch nước nói chung và trách nhiệm của
Chủ tịch nước nói riêng.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC
1.1. Người đứng đầu nhà nước và trách nhiệm của người đứng đầu nhà nước
trong các hình thức chính thể
1.1.1. Khái niệm người đứng đầu nhà nước và trách nhiệm của người đứng đầu nhà
nước
Đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới đều có một thiết chế, chức danh
đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước thực hiện các công tác đối nội, đối ngoại. Vị
trí này được gọi chung là nguyên thủ quốc gia (NTQG). Trong tiếng Anh thuật ngữ
phổ biến được sử dụng chung để chỉ vị trí này là “Head of State”. Theo từ điển
Oxford thuật ngữ “Head of State” được hiểu là trưởng đại diện công cao nhất của
một quốc gia như Tổng thống hoặc Quốc vương, người có thể đứng đầu Chính phủ.
Hay là người đại diện chung cho sự thống nhất quốc gia và tính hợp pháp của một
1
nhà nước có chủ quyền .
2
Theo nghĩa Hán – Việt, nguyên thủ là người đứng đầu . NTQG cũng có nghĩa
là người đứng đầu của một quốc gia. Cách hiểu này cũng tương tự với định nghĩa có
trong từ điển luật học về NTQG theo đó “nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu
3
nhà nước để đại diện cho nhà nước ấy về cả đối nội và đối ngoại” . Theo PGS.TS
luật học Nguyễn Đăng Dung định nghĩa về NTQG trong quyển Tìm hiểu pháp luật
– Luật Hiến pháp so sánh NTQG là “người đứng đầu nhà nước, có quyền thay mặt
nhà nước về mặt đối nội và đối ngoại”. Như vậy tóm lại, người đứng đầu nhà nước
cũng chính là nguyên thủ quốc gia đại diện cho nhà nước về đối nội và đối ngoại .
Trong tiếng Anh, có hai thuật ngữ cùng được hiểu theo nghĩa trách nhiệm đó là:
“responsibility” và “accountability”. Hai thuật ngữ này thường được dùng để thay thế
cho nhau nhưng vẫn có một sự khác biệt cơ bản giữa hai thuật ngữ này. Trách nhiệm
với nghĩa là “responsibility” thường được hiểu là việc phải làm như là bổn phận, nghĩa
vụ. Còn “accountability” có nghĩa rộng hơn “responsibility”, không chỉ là những việc
phải làm mà còn bao gồm việc đứng ra nhận và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện
những việc đó. “Accountability”có thể được hiểu là tổng hợp của trách
1 Tham khảo tại trang https://en.wikipedia.org/wiki/Head_of_state , truy cập ngày 26/03/2021.
2Hoàng phê chủ biên (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 694.
3Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển bách khoa – Nxb Tư pháp, tr.570.
8
nhiệm (responsibility), khả năng biện minh (answerability) và nghĩa vụ pháp lý
4
(liability) .
Ở Việt Nam, một số tác giả tiếp cận thuật ngữ trách nhiệm theo nghĩa “trách
nhiệm là sự thực hiện bổn phận, nghĩa vụ của chủ thể đối với người khác, với xã hội
một cách tự giác”. Một số tác giả khác lại cho rằng trách nhiệm có nghĩa là “chịu trách
nhiệm”, với hàm ý là phải gánh chịu một hậu quả bất lợi nào đó: “trách nhiệm là hậu
quả bất lợi mà người đứng đầu phải gánh chịu khi không thực hiện hoặc thực
5
hiện không đúng quyền, nghĩa vụ được giao” .
Có thể thấy chỉ với một thuật ngữ trách nhiệm nhưng lại có nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Sẽ hợp lý hơn nếu nhìn nhận thuật ngữ trách nhiệm theo hướng kết hợp cả
hai cách hiểu trên đây lại với nhau. Trách nhiệm là những việc nên làm, phải làm,
được làm với kết quả tốt, nếu kết quả không tốt sẽ phải gánh chịu phần hậu quả bất
6
lợi tương xứng vơi tính chất, mức độ của việc không hoàn thành bổn phận, nghĩa vụ .
Trên cơ sở những phân tích về thuật ngữ trách nhiệm và thuật ngữ NTQG có thể hiểu
“trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia là những việc mà người đứng đầu nhà nước
nên làm, phải làm, được làm với kết quả tốt nhất. Nếu kết quả không tốt, người
đứng đầu nhà nước sẽ phải gánh chịu hậu quả bất lợi”. Trên cơ sở khái niệm này, có
thể thấy trách nhiệm của NTQG được cấu thành bởi ba yếu tố cơ bản đó là: quyền hạn,
nghĩa vụ và hệ quả của việc thực hiện các quyền hạn và nghĩa vụ đó
(tính chịu trách nhiệm). Ở đây cũng cần phải lưu ý, có một số người sẽ không gọi
là trách nhiệm mà dùng thuật ngữ “thẩm quyền”, tuy nhiên cũng cần phải hiểu thẩm
quyền chỉ tức là quyền hạn và nghĩa vụ, nó không bao hàm vấn đề chịu trách nhiệm.
Do đó cần phải có sự phân biệt giữa thuật ngữ thẩm quyền và thuật ngữ trách
nhiệm, bởi lẽ trách nhiệm không chỉ bao gồm quyền hạn và nghĩa vụ mà còn bao
gồm cả về vấn đề gánh chịu hậu quả bất lợi khi có sai phạm.
Tùy thuộc vào từng hình thức chính thể (HTCT) mà tên gọi của NTQG cũng có
sự khác nhau. Ở những quốc gia theo chính thể quân chủ, NTQG thường được gọi là:
nhà Vua, Hoàng đế, Nữ hoàng hay Quốc trưởng…. Ở những quốc gia theo chính thể
4 Bùi Thị Ngọc Mai (2015), “Thuật ngữ “trách nhiệm” và thực tiễn pháp luật về trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17 (297), tr. 8.
5 Nguyễn Minh Phú (2018), “Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 8 (360), tr. 3.
6 Bùi Thị Ngọc Mai (2016), Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, Nxb Chính trị
Quốc gia – Sự thật, tr. 26.
9
cộng hòa trong các nhà nước dân chủ tư sản, NTQG thường được gọi là Tổng
thống… Đối với các quốc gia theo chính thể cộng hòa Xô viết hay cộng hòa dân chủ
nhân dân, cộng hòa xã hội chủ nghĩa NTQG thường được gọi là Chủ tịch nước,
Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao hoặc Hội đồng Nhà nước (HĐNN)…
1.1.2. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể quân chủ
HTCT là phương thức tổ chức và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước Trung
ương. Nói cách khác, HTCT là phương pháp thành lập và mối quan hệ giữa người
7
đứng đầu nhà nước, Nghị viện và Chính phủ . HTCT gồm có hai dạng cơ bản là
HTCT quân chủ và HTCT cộng hòa.
Nếu quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ hoặc một phần vào trong
tay của người đứng đầu nhà nước như nhà Vua, Hoàng đế hay Quốc vương… và
được chuyển giao theo nguyên tắc thừa kế, thời hạn nắm giữ quyền lực là trọn đời
thì đó là chính thể quân chủ. HTCT quân chủ được chia thành hai hình thức là quân
chủ chuyên chế (quân chủ tuyệt đối) và quân chủ hạn chế (quân chủ lập hiến).
Trong hình thức quân chủ hạn chế lại được chia thành hai hình thức là quân chủ nhị
nguyên (quân chủ nhị hợp) và quân chủ đại nghị.
1.1.2.1. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể quân chủ chuyên chế (quân chủ
tuyệt đối)
Trong chính thể này, nhà Vua là người có quyền lực tối cao trong toàn bộ
vương quốc, nắm trong tay toàn bộ quyền lực nhà nước và không bị giới hạn bởi bất
cứ điều gì. Hiến pháp ở các vương quốc này vẫn có các quy định về quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp cùng với các cơ quan đảm trách nhưng tất cả đều đóng vai trò
xoay quanh và phục vụ cho sự cai trị của nhà Vua. Trong chính thể này nhà Vua có
các nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
Trong lĩnh vực lập pháp, nhà Vua là người nắm toàn bộ quyền lập pháp trong tay.
Tuy nhiên nhà Vua không tự mình xây dựng nên các đạo luật mà sẽ thành lập nên các
cơ quan đóng vai trò như cơ quan lập pháp ở các quốc gia (Hội đồng lập pháp của
Vương quốc Brunei, Hội đồng tư vấn ở Ả-rập Xê-út). Nhà Vua có toàn quyền bổ nhiệm
hay cách chức các thành viên của Hội đồng theo sự xét đoán của mình. Một dự luật
được xây dựng và hoàn thiện ở Hội đồng sẽ được trình lên cho nhà Vua ban hành. Nhà
Vua là người quyết định cuối cùng trong việc ban hành cũng như nội dung của dự luật.
Ngoài ra nhà Vua còn là người có thẩm quyền tuyên bố tình trạng khẩn
7Vũ Hồng Anh (1998), “Hình thức chính thể của các nước trên thế giới”, Tạp chí Luật học, số 4, tr. 40.
10
cấp trên khắp vương quốc đồng thời có toàn quyền ban hành các sắc lệnh áp dụng
cùng với các chế tài trong tình trạng khẩn cấp này.
Trong lĩnh vực hành pháp, ngoài nắm quyền lập pháp, nhà Vua còn là người
đứng đầu Chính phủ, nắm toàn bộ quyền hành pháp trong tay kể cả quyền chỉ huy
tối cao các lực lượng vũ trang. Nhà Vua có toàn quyền trong việc bổ nhiệm các Bộ
trưởng hoặc bãi nhiệm họ theo ý muốn riêng của mình. Các nhân viên Chính phủ
chỉ đóng vai trò là người tham mưu và giúp việc cho nhà Vua trong việc điều hành,
quản lý đất nước. Nếu muốn nhà Vua cũng có thể tự mình quyết định mọi vấn đề
mà không cần xem xét đến ý kiến của các thành viên Chính phủ.
Trong lĩnh vực tư pháp và một số lĩnh vực khác, nhà Vua có quyền thành lập
nên các Tòa án hoặc chỉ định một Tòa án bất kỳ có thẩm quyền xét xử những vụ
việc cụ thể. Quyết định cơ cấu, tổ chức cũng như bổ nhiệm các chức danh cao cấp
trong hệ thống các cơ quan tư pháp của vương quốc. Đặc biệt trong tình trạng khẩn
cấp nhà Vua có toàn quyền chỉ định bất kỳ một Tòa án nào để xét xử các hành vi vi
phạm các sắc lệnh do mình ban hành. Mặc dù quyền xét xử của các cơ quan tư pháp
này là độc lập nhưng thẩm quyền quyết định cuối cùng lại thuộc về nhà Vua.
Tính chịu trách nhiệm, không những nắm trong tay toàn bộ quyền lực nhà nước
mà nhà Vua còn được miễn trừ mọi loại trách nhiệm. Ví dụ như Điều 84B Hiến pháp
năm 1959 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) của Brunei quy định:“hành vi của Quốc vương
không bao giờ bị coi là sai cho dù làm với tư cách cá nhân hay tư cách Quốc vương”.
Do đó không một chủ thể nào ở vương quốc có quyền phán xét tính đúng sai đối với
các hành vi hay quyết định của nhà Vua. Không những vậy ngay cả những người được
sự ủy nhiệm của nhà Vua để làm hoặc không làm một điều gì đó cũng không bao giờ
phải chịu bất kỳ một trách nhiệm nào đối với việc làm của mình trong phạm
8
vi được ủy quyền .
Mô hình này chủ yếu tồn tại ở các nhà nước vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ và
thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên hiện nay mô hình này đã không còn phù hợp với một
xã hội dân chủ. Trên thế giới hiện nay còn có 05 quốc gia theo hình thức quân chủ
9
chuyên chế là: Ôman, Brunei, Ả-rập Xê-út, Cata và Cô-oét . Ngoài ra còn có một
nhà nước đặc biệt là nhà nước Va-ti–căng do Giáo hoàng đứng đầu.
8 Tô Văn Hòa (2012), Nghiên cứu so sánh Hiến pháp của các quốc gia Asean, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự
thật, tr. 197.
9 Cao Văn Liên (2003), Tìm hiểu các nước và các hình thức nhà nước trên thế giới, Nxb Thanh niên, tr. 35.
11
1.1.2.2. Người đứng đầu nhà nước trong hình thức chính thể quân chủ nhị nguyên
(quân chủ nhị hợp)
Như đã đề cập, trong HTCT quân chủ hạn chế được chia thành hai hình thức là
quân chủ nhị nguyên và quân chủ đại nghị. Trong HTCT quân chủ nhị nguyên này
có sự phân chia giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp, tức là có sự phân chia
quyền lực nhà nước giữa nhà Vua và Nghị viện. Nhà Vua là người đứng đầu nhà
nước cũng đồng thời là chỉ huy cao nhất của lực lượng vũ trang hoàng gia. Nhà Vua
trong HTCT này có các nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
Trong lĩnh vực lập pháp, quyền lập pháp trên danh nghĩa thuộc về Nghị viện. Tuy
nhiên, nhà Vua cũng có những tác động rất lớn đến lĩnh vực lập pháp như các dự luật
của Nghị viện trước khi được ban hành phải thông qua việc phê chuẩn của nhà Vua.
Nhà Vua có quyền “phủ quyết tuyệt đối” đối với các dự luật của Nghị Viện (nhà Vua
không ký, luật không có hiệu lực) hoặc có quyền giải tán Nghị viện trước thời hạn.
Trong thực tế Nghị viện ở các nước theo HTCT quân chủ nhị nguyên thường có vai trò
không lớn lắm mà nhà Vua mới là trung tâm của bộ máy nhà nước (BMNN).
Trong lĩnh vực hành pháp, nhà Vua là người đứng đầu Chính phủ, quyền lực
của nhà Vua trong lĩnh vực này không bị hạn chế. Nhà Vua có thể thực hiện quyền
hành pháp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua Chính phủ. Nhà Vua có toàn
quyền trong việc thành lập hay giải tán Chính phủ, bổ nhiệm hoặc cách chức Thủ
tướng và các Bộ trưởng theo sự xét đoán của mình. Chính phủ sau khi thành lập
được điều hành trực tiếp bởi Thủ tướng do nhà Vua bổ nhiệm.
Trong lĩnh vực tư pháp và một số lĩnh vực khác, quyền tư pháp cũng chịu ảnh
hưởng rất lớn từ phía nhà Vua. Ở một số nước nhà Vua là Chủ tịch Ủy ban tối cao
về tư pháp, được toàn quyền bổ nhiệm Chánh án và Thẩm phán Tòa án tối cao.
Ngoài ra Nhà Vua còn là người thay mặt nhà nước về mặt đối ngoại, tham gia ký
kết điều ước quốc tế, đại diện cho quốc gia ở các tổ chức quốc tế mà quốc gia mình
là thành viên, có quyền thưởng huân, huy chương, danh hiệu vinh dự nhà nước,
tuyên bố tình trạng khẩn cấp, tình trạng chiến tranh, tổng động viên trong cả nước…
Tính chịu trách nhiệm, nhà Vua là người nắm trong tay quyền hành pháp, trực
tiếp điều hành và quản lý đất nước. Tuy nhiên nhà Vua không phải chịu bất kỳ một
trách nhiệm nào trong việc điều hành và quản lý đất nước của mình (trừ tội phản
quốc). Chính phủ do nhà Vua thành lập, chịu mọi trách nhiệm trước nhà Vua, nếu
nhà Vua có làm sai thì Chính phủ phải đứng ra chịu hoàn toàn mọi trách nhiệm.
12
HTCT này tồn tại phổ biến ở thời kỳ đầu của cách mạng tư sản khi mà giai cấp
tư sản chưa đủ mạnh để có thể thay thế hoàn toàn giai cấp phong kiến. Qua thời
gian, do sự đấu tranh của các tầng lớp nhân dân mà dần dần mô hình này được
chuyển sang mô hình quân chủ đại nghị. Hiện nay trên thế giới chỉ còn một số ít các
quốc gia áp dụng HTCT này như: vương quốc Gioócđani, vương quốc Marốc,…
1.1.2.3. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể quân chủ đại nghị
Hình thức còn lại của HTCT quân chủ hạn chế là chính thể quân chủ đại nghị.
Đây là thiết chế NTQG không có thực quyền, chủ yếu mang tính chất hình thức,
biểu tượng, được thành lập theo cách thức truyền ngôi và không có nhiệm kỳ. Trách
nhiệm của nhà Vua được biểu hiện cụ thể thông qua các lĩnh vực như sau:
Trong lĩnh vự lập pháp, quyền lập pháp được trao cho Nghị viện là cơ quan do
nhân dân trực tiếp bầu ra, có quyền lực tối cao trong BMNN. Nhà Vua có nhiệm vụ
ban hành các tu chính án Hiến pháp và công bố các dự luật của Nghị viện. Nhà Vua
có quyền triệu tập và phát biểu khai mạc tại các cuộc họp của Nghị viện hay tuyên
10
bố kết quả cuộc tổng tuyển cử bầu Nghị viện . Theo đề nghị của Thủ tướng, nhà
Vua sẽ bổ nhiệm Chủ tịch Thượng viện, nhà Vua có quyền phủ quyết các dự luật đã
được thông qua bởi Nghị viện nhưng trên thực tế ở một số nước đã từ rất lâu nhà
Vua chưa bao giờ sử dụng đến thẩm quyền này. Ngoài ra nhà Vua còn có quyền giải
tán Nghị viện trước hạn tuy nhiên nhà Vua chỉ có thể thực hiện được thẩm quyền
này thông qua yêu cầu từ phía Thủ tướng.
Trong lĩnh vực hành pháp, quyền hành pháp thuộc về Chính phủ. Nhà Vua có
quyền bổ nhiệm Thủ tướng và các Bộ trưởng. Tuy nhiên nhà Vua không thể bổ
nhiệm bất kỳ ai khác ngoài lãnh đạo của đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện (Hạ
nghị viện) làm Thủ tướng. Các thành viên của Chính phủ tuy được nhà Vua bổ
nhiệm nhưng không phải chịu trách nhiệm trước nhà Vua mà phải chịu trách nhiệm
trước Nghị viện. Nhà Vua có quyền giải tán Chính phủ, tuy nhiên nhà Vua chỉ có
thể thực hiện thẩm quyền này sau khi Nghị viện đã ra tuyên bố bất tín nhiệm đối với
Chính phủ.
Trong lĩnh vực tư pháp và một số lĩnh vực khác, nhà Vua có quyền bổ nhiệm
Chánh án Tòa án tối cao dựa trên đề nghị của Thủ tướng, bổ nhiệm Thẩm phán các
tòa án khác trong hệ thống tư pháp. Có thẩm quyền ban hành các lệnh đặc xá, ân xá,
giảm án, hoãn thi hành án. Nhà Vua có quyền trao tặng các danh hiệu, huân, huy
10
Điều 7 Hiến pháp Nhật Bản năm 1946.
13
chương của nhà nước dành cho những cá nhân, tổ chức có những thành tích, đóng
góp đặc biệt cho sự phát triển của quốc gia. Thực hiện các quyền hạn có liên quan
đến quốc tịch, ký kết các điều ước quốc tế (sau khi đã tham khảo ý kiến của Chính
phủ). Bổ nhiệm đại sứ của quốc gia mình và tiếp đón NTQG, đại sứ của các quốc
gia khác, đại diện cho quốc gia trong các buổi lễ long trọng.
Tính chịu trách nhiệm, trong chính thể này nhà Vua không thể tự mình quyết
định một việc gì, mọi hoạt động của nhà Vua chỉ nhằm mục đích hợp thức hóa về
mặt nhà nước đối với các quyết định của Nghị viện và Chính phủ. Do đó, nhà Vua
tuyệt đối vô trách nhiệm. Mọi hoạt động của nhà Vua đều có sự bảo đảm từ phía cơ
quan hành pháp. Sự bảo đảm này được thể hiện bằng “chữ ký phó thự” của người
đứng đầu Chính phủ hoặc các Bộ trưởng kèm theo những văn bản do nhà Vua ban
hành. Nói cách khác mọi quyết định của nhà Vua chỉ có hiệu lực thi hành khi có chữ
ký kèm theo của Thủ tướng hoặc các Bộ trưởng. Chính vì vậy mà hoạt động của nhà
11
Vua hoàn toàn là hình thức . Nhà Vua sẽ không bao giờ làm sai, nếu nhà Vua có
làm sai một điều gì đó thì Chính phủ sẽ phải gánh chịu toàn bộ mọi trách nhiệm.
Đây được gọi là nguyên tắc “vô trách nhiệm” của NTQG ở các nước theo chính thể
quân chủ đại nghị.
Mặc dù nhà Vua trong chính thể quân chủ đại nghị chỉ mang tính biểu tượng,
hình thức, tuy nhiên nhà Vua lại có vai trò hết sức to lớn về mặt tinh thần và đạo
đức đối với nhân dân và đất nước của họ. Nhà Vua chính là biểu tượng cho sự thống
nhất và vĩnh hằng của cả dân tộc. Trong các tình huống khủng hoảng chính trị, xung
đột giữa các đảng phái, an ninh quốc gia bị đe dọa lúc này vai trò, trách nhiệm của
nhà Vua lại càng quan trọng hơn bao giờ hết.
Đây là HTCT khá phổ biến trên toàn thế gới, hiện nay có khoảng 41 quốc gia
và vũng lãnh thổ áp dụng mô hình chính thể này trong tổ chức BMNN của mình tiêu
biểu như: Vương quốc Anh, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia, Malaysia, Tây Ban
12
Nha, Đan Mạch, Thụy Điển, Bỉ, Hà Lan …
1.1.3. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể cộng hòa
Khác với chính thể quân chủ, trong chính thể cộng hòa quyền lực tối cao của nhà
nước được thực hiện bởi các cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra và các cơ quan
11
Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, Nguyễn Văn Trí (2014), Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp - kinh
nghiệm thế giới và Việt Nam, Nxb Hồng Đức, tr. 48.
12
Cao Văn Liên, tlđd (9), tr. 612.
14
này nắm giữ quyền lực trong một thời hạn nhất định (nhiệm kỳ). Hiện nay ở các nhà
nước dân chủ tư sản tồn tại 03 hình thức là: cộng hòa tổng thống (CHTT), cộng hòa
đại nghị (CHĐN) và cộng hòa hỗn hợp. Ngoài ra còn có thêm một hình thức chính
thể cộng hòa khác là cộng hòa xã hội chủ nghĩa tồn tại ở các nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
1.1.3.1. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể cộng hòa tổng thống
CHTT hay còn có tên gọi khác là Tổng thống chế, là mô hình áp dụng một
cách triệt để, cứng rắn nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước. Trong BMNN ở
các quốc gia theo chính thể này, quyền lực nhà nước được phân chia thành quyền
lập pháp do Nghị viện thực hiện, Chính phủ mà đứng đầu là Tổng thống thực hiện
quyền hành pháp và Tòa án thực hiện quyền tư pháp. Quốc gia khai sinh ra chính
thể này là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (Mỹ) với bản Hiến pháp năm 1787.
Trong chính thể này Tổng thống chính là NTQG do nhân dân trực tiếp (hoặc
13
gián tiếp) bầu ra, có nhiệm kỳ nhất định và bị giới hạn số lần đảm nhiệm chức vụ .
Theo quy định của Hiến pháp Tổng thống có hai vị trí vừa là NTQG – đứng đầu nhà
nước vừa là người đứng đầu Chính phủ, nắm quyền hành pháp trong tay, do vậy mà
Tổng thống có vai trò rất quan trọng trong BMNN. Tổng thống trong chính thể này
có các nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
Trong lĩnh vực lập pháp, Chính phủ và Tổng thống có vị trí rất độc lập so với
Nghị viện. Chính phủ không được thành lập không trên cơ sở của Nghị viện do đó
Nghị viện không có quyền bất tín nhiệm hay giải tán Chính phủ. Tổng thống không
phải chịu bất kỳ một trách nhiệm nào trước Nghị viện mà chỉ chịu trách nhiệm trước
nhân dân, trước Hiến pháp. Ngược lại Tổng thống cũng không có quyền giải tán
Nghị viện trước thời hạn.
Tổng thống có trách nhiệm công bố các dự luật của Nghị viện. Một dự luật nếu đã
được thông qua ở Nghị viện trước khi chính thức trở thành luật phải được đệ trình lên
Tổng thống phê chuẩn và công bố trong một thời hạn nhất định. Trường hợp nếu không
tán thành Tổng thống có quyền không công bố và yêu cầu Nghị viện phải thảo
13
Ví dụ theo các quy định có trong Hiến pháp, Tổng thống Hoa kỳ có nhiệm kỳ bốn năm, được bầu lại
nhưng không được đảm nhận quá hai nhiệm kỳ liên tiếp.
Tổng thống Hàn Quốc có nhiệm kỳ năm năm và không thể được bầu lại.
Tổng thống In-đô-nê-xi-a có nhiệm kỳ năm năm, được bầu lại nhưng tối đa không quá hai nhiệm kỳ.
15
14
luận để thông qua lại . Quyền phủ quyết này còn được gọi là quyền “phủ quyết
mềm” hay quyền “phủ quyết tương đối”. Trong trường hợp này Tổng thống đóng
vai trò như một “chốt chặn” có trách nhiệm hạn chế sự nóng vội của Nghị viện
trong quá trình làm luật cũng như ngăn chặn sự lạm quyền của Nghị viện.
Trong lĩnh vực hành pháp, Tổng thống có nhiệm vụ thi hành luật, đưa các dự
luật đã được thông qua bởi Nghị viên đi vào cuộc sống. Nghị viện không có quyền
can thiệp vào lĩnh vực hành pháp của Tổng thống.
Tổng thống có nhiệm vụ thành lập Chính phủ. Tổng thống bổ nhiệm Bộ trưởng
và các thành viên khác của Chính phủ (với sự phê chuẩn của Thượng nghị viện). Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Tổng
thống. Đối với một số quốc gia có chức danh Phó Tổng thống đây không phải là
người chia sẻ quyền lực với Tổng thống mà chỉ đóng vai trò như một “trợ lý” và là
nhân vật “dự bị” trong một số trường hợp đặc biệt khi bị khuyết Tổng thống. Nói
đúng hơn, hành pháp trong chính thể CHTT là “hành pháp cá nhân”, đề cao vai trò,
trách nhiệm của Tổng thống hơn bất cứ một nhân vật nào trong BMNN.
Mặc dù về nguyên tắc, Tổng thống không được can thiệp vào công việc làm
luật của Nghị viện. Tuy nhiên thông qua quy định tại khoản 3 Điều II Hiến pháp
Hoa Kỳ năm 1787 về thẩm quyền “thông báo cho Nghị viện về tình hình của quốc
gia và đề nghị Nghị viện xem xét những biện pháp mà Tổng thống thấy cần thiết và
thích hợp”, Tổng thống vẫn có thể can thiệp vào quá trình lập pháp của Nghị viện.
Hình thức này được gọi là “Thông điệp Liên bang” mà hàng năm Tổng thống Hoa
Kỳ vẫn đọc trước Nghị viện.
Trong lĩnh vực tư pháp và một số lĩnh vực khác, Tổng thống có quyền lựa chọn
và bổ nhiệm Chánh án và Thẩm phán của Tòa án tối cao (với sự đồng ý của Thượng
nghị viện), có quyền hủy bỏ các bản án của Tòa án, có quyền quyết định việc ân xá,
15
đặc xá, giảm án .
Tổng thống có quyền quyết định các vấn đề có liên quan đến quốc tịch, phong
tặng các tước hiệu, danh hiệu nhà nước, trao tặng các huân, huy chương, nhân danh
14
Thẩm quyền này của Tổng thống chỉ mang tính chất tương đối bởi nếu dự luật thảo luận lại lần
thứ hai mà được ít nhất 2/3 (hoặc 3/4 tùy theo mỗi quốc gia) trong tổng số Thượng nghị sĩ và Hạ nghị sĩ ở
mỗi viện bỏ phiếu tán thành thì bắt buộc Tổng thống phải ký công bố dự luật.
15
Khoản 2 Điều II Hiến pháp Hoa kỳ năm 1787.
Điều 79 Hiến pháp Hàn Quốc năm 1987.
Điều 14 Hiến pháp Inđônêxia năm 1945.
16
nhà nước ký kết hoặc tham gia vào các điều ước quốc tế, tiếp nhận đại sứ ở nước
ngoài và bổ nhiệm đại sứ của nước mình, tiếp đoán các phái đoàn ngoại giao, tuyên
chiến hoặc ký kết các hiệp định hòa bình, đại diện quốc gia tham gia các hoạt động
ngoại giao khác. Trong chính thể này Tổng thống cũng đồng thời là Tổng tư lệnh
các lực lượng vũ trang của quốc gia.
Tính chịu trách nhiệm, Tổng thống mặc dù có vai trò rất lớn trong BMNN
nhưng không phải là người đứng ngoài vòng kiểm soát của pháp luật mà trước hết là
Hiến pháp. Nếu Tổng thống có những hành vi được xem là “không chuẩn mực”,
tổn hại đến danh dự, uy tín của quốc gia thì Tổng thống buộc phải gánh chịu mọi
trách nhiệm cho những hành vi “không chuẩn mực” đó của mình. Đa số các hành vi
được xem “không chuẩn mực” thường là những hành vi liên quan đến các tội phản
quốc, tham ô, lạm quyền, nhận hối lộ, các hành vi có tính chất hình sự, vi phạm đạo
đức nghiêm trọng… ảnh hưởng đến tư cách của một NTQG.
Một ví dụ điển hình nhất cho vấn đề này chính là quy định tại khoản 4 Điều II
Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787: “Tổng thống không thể bị phế truất vì các lý do liên
quan đến công việc nhưng nếu Tổng thống bị đàn hạch hoặc kết án có một trong
các hành vi liên quan đến các tội danh phản bội tổ quốc, nhận hối lộ hoặc những
tội nghiêm trọng khác thì sẽ bị cách chức”. Quy trình đàn hạch (luận tội) được xem
như một trách nhiệm pháp lý mà Tổng thống phải gánh chịu khi không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng các nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Chính thể CHTT hiện nay được áp dụng cho khoảng 66 quốc gia và vùng lãnh
thổ trên toàn thế giới. Các quốc gia tiêu biểu cho chính thể CHTT như: Hoa Kỳ,
Hàn Quốc, Achentina, Chilê, Côlômbia, Êcuađo, Inđônêxia, Mêxicô, Nam Phi,
16
Philipin, Braxin, Ai Cập... .
1.1.3.2. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể cộng hòa đại nghị
Chính thể CHĐN (còn có tên gọi khác là cộng hòa nghị viện) áp dụng nguyên tắc
phân chia quyền lực một cách mềm dẻo và ôn hòa hơn so với chính thể CHTT. Trong
chính thể này NTQG – Tổng thống do Nghị viện bầu ra (hoặc một hội đồng có sự tham
gia của Nghị viện), là một chế định độc lập không nằm trong Chính phủ. Có thể nói
trong chính thể này Tổng thống chỉ có một vị trí duy nhất trong BMNN là
16
Cao Văn Liên, tlđd (9), tr. 614.
17
17
người đứng đầu nhà nước . NTQG trong chính thể này có vai trò khá hình thức chỉ
là biểu tượng của sự thống nhất quốc gia, dân tộc. Trong chính thể này, Tổng thống
có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Trong lĩnh vực lập pháp, quyền lập pháp thuộc về Nghị viện. Tổng thống trong
chính thể CHĐN không có quyền phủ quyết đối với các dự luật mà chỉ có thẩm
quyền ký công bố các dự luật sau khi đã được Nghị viện thông qua. Tổng thống có
quyền giải tán Nghị viện trước hạn tuy nhiên thẩm quyền này lại dựa trên sự yêu
cầu từ phía của Thủ tướng. Ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên Tổng thống còn
là người phát biểu khai mạc và bế mạc tại các kỳ họp của Nghị viện, triệu tập Nghị
viện họp bất thường trong một số trường hợp.
Trong lĩnh vực hành pháp, Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ nắm
quyền hành pháp trong tay. Tổng thống có quyền bổ nhiệm Thủ tướng là lãnh đạo
của đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện. Đồng thời bổ nhiệm các Bộ trưởng dựa
trên sự đề xuất của Thủ tướng. Tổng thống có quyền giải tán Chính phủ sau khi
Nghị viện đã ra tuyên bố bất tín nhiệm Chính phủ và bổ nhiệm một Thủ tướng mới
để thành lập nên Chính phủ mới.
Trong lĩnh vực tư pháp và một số lĩnh vực khác, Tổng thống cũng đồng thời là
Chủ tịch Hội đồng Tư pháp tối cao, cơ quan có trách nhiệm xem xét các vấn đề kỷ
luật và tổ chức của hệ thống Tòa án quốc gia, có quyền bổ nhiệm các chức vụ cao
cấp trong các cơ quan tư pháp, thực hiện các quyền về đặc xá và ân xá….
Với tư cách là người đứng đầu nhà nước, Tổng thống có quyền quyết định cho
nhập hoặc thôi quốc tịch của quốc gia mình, phong thưởng hoặc trao tặng các huân,
huy chương, giải thưởng và các danh hiệu cao quý khác của nhà nước, tổ chức thực
hiện việc trưng cầu ý dân. Trong lĩnh vực đối ngoại, Tổng thống có trách nhiệm đại
diện nhà nước đàm phán, ký kết điều ước quốc tế (đã có sự tham mưu của Chính phủ
và Nghị viện phê chuẩn), được quyền cử, triệu hồi các đại sứ của quốc gia mình hoặc
tiếp nhận đại sứ của các quốc gia khác. Trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, Tổng thống
là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc
17
Điều 54 Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức năm 1949 quy định: “Tổng thống do Nghị viện bầu ra
trong cuộc họp chung của cả 2 viện. Tổng thống Liên bang không thể là thành viên của Chính phủ hoặc là thành
viên của cơ quan lập pháp Liên bang hoặc Bang”. Hoặc tại Điều 83 Hiến pháp Italia năm 1947 cũng quy định
“Tổng thống do Nghị viện bầu ra trong cuộc họp chung của cả 2 viện. Tổng thống là người đứng đầu nhà
nước và đại diện cho sự thống nhất của quốc gia”.
18
phòng và an ninh. Mục đích đảm bảo sự thống nhất của các lực lượng vũ trang trong
cả nước, đảm bảo sự đoàn kết dân tộc và ổn định chính trị của đất nước.
Tính chịu trách nhiệm, đối với các văn bản do Tổng thống ban hành không thể
mặc nhiên phát sinh hiệu lực nếu không có chữ ký thứ hai đi kèm của Thủ tướng
18
hoặc của Bộ trưởng có liên quan . Đây được xem là nguyên tắc “chữ ký phó thự”
giống như trong chính thể quân chủ đại nghị. Một nguyên tắc nữa được thừa nhận
trong chính thể này là nguyên tắc “vô trách nhiệm”, mặc dù các văn bản được ban
hành dưới danh nghĩa của Tổng thống nhưng Tổng thống sẽ không phải chịu bất kỳ
một trách nhiệm nào có liên quan đến các văn bản do mình ban hành. Thủ tướng
hoặc các Bộ trưởng ký phó thự phải đứng ra chịu trách nhiệm cho các văn bản đó.
Điều này cho thấy Tổng thống được hưởng quyền miễn trừ trách nhiệm trong việc
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Mặc dù không phải chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình. Tuy nhiên nếu phạm tội phản quốc hoặc vi hiến, Tổng thống có thể bị
Nghị viện đàn hạch tại phiên họp chung với sự có mặt của đa số tuyệt đối các đại
biểu hoặc sẽ bị truy tố ra trước Tòa án Hiến pháp (nếu quốc gia có thành lập Tòa án
Hiến pháp). Nếu chứng minh có tội, Tổng thống sẽ phải chịu mọi trách nhiệm cho
19
các hành vi của mình và nặng nhất có thể sẽ bị cách chức .
Có thể thấy đa số các nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng thống trong chính thể này
chỉ mang tính hình thức. Tuy nhiên ở một số quốc gia theo cơ chế đa đảng nhưng
không có đảng nổi trội, với tư cách là người đứng đầu nhà nước, vai trò của Tổng
thống còn đặc biệt quan trọng khi là người trung gian hòa giải, điều hòa lợi ích của
các đảng phái trong trường hợp xảy ra mâu thuẫn, xung đột lợi ích chính trị. Hay
trong trường hợp đất nước rơi vào khủng hoảng, chiến tranh xâm lược Tổng thống
là người có đầy đủ uy tín nhất trong cả nước để kêu gọi tất cả mọi tầng lớp nhân
dân, phát huy tối đa lòng yêu nước, bảo vệ tổ quốc.
Chính thể CHĐN là một chính thể phổ biến được áp dụng rộng rãi trên toàn thế
giới. Hiện nay có khoản 71 quốc gia và vùng lãnh thổ áp dụng chính thể này trong
18
Điều 89 Hiến pháp Italia năm 1947.
19
Điều 61 Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức
năm 1949. Điều 145 Hiến pháp Ba Lan năm 1997.
- Xem thêm -