Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tp hcm Học 2017...

Tài liệu Tp hcm Học 2017

.DOCX
17
347
75

Mô tả:

Lớp TCCT 2017
NỘI DUNG THẢO LUẬN - TỔ 3 ĐỀ CƯƠNG MÔN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NỘI DUNG THẢO LUẬN ĐỀ CƯƠNG MÔN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Lớp: TC156 Câu 1: Đồng chí hãy phân tích một trong những cơ sở hình thành nguồn lực phát triển thành phố Hồ Chí Minh? Cho biết suy nghĩ, nhận thức của bản thân về nguồn nhân lực của Thành phố hiện nay? Tự làm thảo luận 1. Đồng chí hãy phân tích một trong những cơ sở hình thành nguồn lực phát triển thành phố Hồ Chí Minh Đào tạo nguồn nhân lực gắn với nhu cầu sử dụng Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Hứa Ngọc Thuận, cho biết: 'Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của TP Hồ Chí Minh là nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Vì thế, thành phố sẽ tập trung đầu tư vào các nhóm đối tượng đặc biệt, có vai trò quyết định và tạo sự đột phá trong phát triển nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 2010 đến 2015, sẽ ưu tiên phát triển nhân lực đủ để cung cấp cho những ngành có hàm lượng công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao. Đó là bốn ngành công nghiệp: cơ khí; điện tử - công nghệ thông tin; hóa dược - cao-su; chế biến tinh lương thực, thực phẩm và chín ngành dịch vụ: tài chính - tín dụng; ngân hàng - bảo hiểm; thương mại; vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng, hậu cần hàng hải và xuất nhập khẩu; bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin - truyền thông; kinh doanh tài sản, bất động sản; dịch vụ thông tin tư vấn, khoa học công nghệ; du lịch, khách sạn, nhà hàng; y tế, giáo dục - đào tạo'. Xuất phát từ thực tiễn, nhu cầu đào tạo nhân lực kỹ thuật nghiệp vụ trung cấp phải đạt đến nửa triệu người vào năm 2020. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo phải đạt 70% vào năm 2015 và 80% vào năm 2020 trong đó lao động ở bốn ngành công nghiệp và chín ngành dịch vụ trọng điểm phải đạt 100%. Để đạt được mục tiêu này, thành phố đưa ra năm chương trình bộ phận. Chương trình nâng cao chất lượng đào tạo đại học và cao đẳng với nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý các ngành và lĩnh vực chủ lực theo yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố. Sẽ xây dựng một đến hai trường đại học đạt tiêu chuẩn ngang tầm các trường cùng cấp ở các nước tiên tiến trong khu vực về chất lượng và hiệu quả đào tạo, có khả năng thu hút một bộ phận sinh viên các nước trong khu vực đến học tập. Chương trình nâng cao chất lượng đào tạo nghề hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống đào tạo chất lượng cao của cả nước đồng thời tạo ra sự gắn kết giữa nơi đào tạo và nơi sử dụng lao động để tránh lãng phí cho xã hội. Chương trình đào tạo đội ngũ doanh nhân đưa ra chỉ tiêu là tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho hơn 30 nghìn lượt học viên ở các công ty thuộc thành phố, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trên địa bàn thành phố nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới. Với chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho hệ thống chính trị thành phố, toàn bộ cán bộ đương nhiệm, dự bị chức danh lãnh đạo, quản lý, phải đạt trình độ quản lý, chuyên môn lý luận chính trị, trình độ tin học theo tiêu chuẩn quy định. 100% cán bộ, công chức, viên chức phải đạt trình độ chuẩn. 100% cán bộ, công chức chủ chốt ở cơ sở (phường, xã, thị trấn) phải có trình độ chuyên môn đại học, trung cấp chính trị và quản lý nhà nước. Để thực hiện thành công các chương trình này, giải pháp đầu tiên là tập trung phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu dạy và học theo hướng hiện đại, đón đầu sự phát triển của xã hội, hội nhập với khu vực và thế giới, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn, yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của thành phố. Đối với các trường đào tạo các ngành nghề trọng điểm và các chương trình 'đào tạo có địa chỉ', cần đầu tư theo chuẩn các nước tiên tiến. Mặt khác, bằng cách tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa, huy động vốn đầu tư trong nước và ngoài nước để xây dựng các trường dạy nghề chất lượng cao, đổi mới trang thiết bị dạy học, thí nghiệm, thực hành, xưởng trường, xây dựng ký túc xá... Đến năm 2015 sẽ phát triển thêm 22 cơ sở dạy nghề mới, trong đó có ba trường cao đẳng nghề, ba trường trung cấp nghề, ba trung tâm dạy nghề. Giải pháp quan trọng thứ hai là phải xây dựng được đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và dạy nghề có trình độ chuyên môn cao được huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Cần đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo, gắn nội dung đào tạo trong nhà trường với hoạt động thực tiễn của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và các lĩnh vực khác. Một giải pháp quan trọng trong công tác đào tạo nhân lực là phải tăng cường hợp tác, liên kết giữa các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và các trung tâm dạy nghề với các đơn vị sản xuất, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố nhằm nâng dần tính tương thích giữa đào tạo và sử dụng lao động. Trên cơ sở này, thành phố sẽ đưa ra dự báo về nhu cầu nhân lực cho từng giai đoạn và thậm chí cho từng năm. Thực tế cho thấy trong nhiều năm qua, một số trường đại học và cao đẳng đã chú trọng việc liên kết này và kết quả mang lại khá khả quan. Các trường: Đại học Bách khoa, Đại học Sư phạm Kỹ thuật, Cao đẳng Kỹ thuật Lý Tự Trọng, Cao đẳng Tôn Đức Thắng... đã hợp tác, liên kết với hàng trăm doanh nghiệp, tập đoàn trong nước và ngoài nước về nhu cầu lao động trong từng ngành nghề và cung cấp cơ sở vật chất đào tạo cho các trường để sinh viên có điều kiện thực tập. Với các chương trình nâng cao chất lượng, phát hiện bồi dưỡng năng khiếu, nhân tài thể thao, văn hóa, thành phố cũng sẽ tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại tạo điều kiện cho nguồn nhân lực này học tập, tập luyện thuận lợi, có hiệu quả cao. Riêng đối với thể thao thành tích cao, sẽ tập trung đầu tư cho 12 môn trọng điểm là: cờ vua, điền kinh, bơi lội, nhảy cầu, thể dục dụng cụ, bóng bàn, tê-cuôn-đô, giu-đô, đấu kiếm, cầu lông, quần vợt và đua thuyền. Tuy nhiên, để chương trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phát huy hiệu quả, thành phố cần có chính sách, chế độ đãi ngộ thích đáng đối với những người có trình độ cao, nhất là đội ngũ trí thức trẻ và những tài năng trẻ nói chung. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong sáu chương trình đột phá đã được Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 9 thông qua nhằm đưa TP Hồ Chí Minh lên một tầm cao mới, xứng đáng là đầu tàu cho vùng kinh tế trọng điểm phía nam. 2. Cho biết suy nghĩ, nhận thức của bản thân về nguồn nhân lực của Thành phố hiện nay Sởhữu nhiều thuận lợi để phát triển mạnh nguồn nhân lực, tuy vậy nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Thành phố.Dự báo trong những năm tới, tình trạng thiếu hụt lao động chất lượng có thể sẽ càng trở nên trầm trọng hơn nếu không đưa ra được những giải pháp hợp lý, nhất là giải pháp gắn kết giữa tuyển dụng và đào tạo. Thiếu hụt lao động có trình độ chuyên môn Từ nhiều năm qua, vấn đề thiếu hụt lao động đã được đặt ra, tuy nhiên chưa bao giờ Tp. Hồ Chí Minh phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động có trình độ chuyên môn một cách nghiêm trọng như những năm gần đây do chỉ có 50% lao động mới qua đào tạo. Đặc biệt lực lượng lao động có trình độ từ trung cấp, cao đẳng, đại học trong một số ngành nghề còn rất ít ỏi, chất lượng chưa đạt so với yêu cầu. Tình trạng này xảy ra nhiều nhất ở các ngành: quản lý điều hành, tin học, kế toán, nhân sự - hành chính văn phòng, tài chính ngân hàng... Bên cạnh khu vực trung tâm, tại các vùng ngoại ô Thành phố, tình trạng khan hiếm lao động chất lượng càng trầm trọng hơn. Theo thống kê của Sở Nội vụ Tp. Hồ Chí Minh, tại 5 huyện ngoại thành của Thành phố bao gồm Hóc Môn, Củ Chi, Cần Giờ, Bình Chánh và Nhà Bè đang thiếu hụt nguồn lao động chất lượng cao trên nhiều lĩnh vực, trong đó sư phạm và y tế là những ngành hiện đang có nhu cầu bức thiết về nguồn nhân lực. Tình trạng trên đã gây ra nhiều tác động tiêu cực cho hoạt động của doanh nghiệp cũng như môi trường đầu tư của Thành phố. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, trong đó nguyên nhân chính là do việc hoạch định chính sách đầu tư của Thành phố còn chậm chuyển đổi, chủ yếu vẫn là các ngành thâm dụng lao động, công nghệ lạc hậu, giá trị gia tăng thấp. Mặt khác chính sách đãi ngộ của Thành phố chưa thực sự hợp lý, do vậy hiện tượng chảy máu chất xám vẫn đang diễn ra. Những lao động được đào tạo bài bản thường tìm việc ở các công ty nước ngoài, nhiều du học sinh sau khi học xong cũng thường tìm cách ở lại nước ngoài do chính sách lương bổng và đãi ngộ cao hơn. Quan trọng hơn, vấn đề đào tạo và sử dụng lao động bị “lệch pha”, giữa các trung tâm đào tạo nhân lực và nơi sử dụng nhân lực chưa có sự tương thích hoàn toàn. Ðộ chênh giữa nhà trường và doanh nghiệp còn khá lớn, hơn nữa doanh nghiệp cũng chưa có chiến lược, kế hoạch dài hạn về nhu cầu nhân lực của mình đồng thời chưa thật sự chủ động tham gia, góp sức vào quá trình đào tạo nhân lực. Chương trình đột phá Nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, giai đoạn tới Thành phố sẽ tập trung đầu tư vào các nhóm đối tượng đặc biệt, có vai trò quyết định và tạo sự đột phá trong phát triển nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 2010 đến 2015, sẽ ưu tiên phát triển nhân lực đủ để cung cấp cho những ngành có hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng cao. Xuất phát từ thực tiễn, nhu cầu đào tạo nhân lực kỹ thuật nghiệp vụ trung cấp phải đạt đến nửa triệu người vào năm 2020. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo phải đạt 70% vào năm 2015 và 80% vào năm 2020 trong đó lao động ở bốn ngành công nghiệp và chín ngành dịch vụ trọng điểm phải đạt 100%. Ông Nguyễn Thành Tài - Phó Chủ tịch Thường trực UBND Tp. Hồ Chí Minh cho biết để đạt được mục tiêu trên, Thành phố sẽ có những chính sách ưu đãi riêng để thu hút nhân tài, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để người lao động phát huy năng lực của mình. Chính sách đãi ngộ đối với người tài là một chính sách lâu dài, cần có lộ trình cụ thể, từng bước để họ gắn bó lâu dài với Thành phố và ra sức cống hiến. Một giải pháp quan trọng trong công tác đào tạo nhân lực có trình độ, chuyên môn là phải tăng cường hợp tác, liên kết giữa các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và các trung tâm dạy nghề với các đơn vị sản xuất, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố nhằm nâng dần tính tương thích giữa đào tạo và sử dụng lao động. Để tăng cường sự hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp, Tp. Hồ Chí Minh sẽ xem xét và tiến tới tổ chức hội chợ đào tạo. Đây sẽ là cầu nối để các doanh nghiệp gặp gỡ trực tiếp với trường, nhằm hướng tới chương trình đào tạo mà xã hội cần chứ không đào tạo cái các trường có. Phó Giám đốc Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động Tp.Hồ Chí Minh Trần Anh Tuấn cho rằng, để hạn chế tình trạng thiếu hụt lao động và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp yêu cầu phát triển Thành phố, cần tiếp tục phát triển chương trình tái cấu trúc kinh tế gắn tái cấu trúc nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển. Đối với công tác đào tạo cần chú trọng định hướng các trường dạy nghề xây dựng và tổ chức thực hiện chuẩn đầu ra chung cho từng ngành đáp ứng được yêu cầu xã hội. Tăng cường sự liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa công tác hướng nghiệp, tuyển sinh, đào tạo, thực tập với nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp và xã hội. Quan trọng hơn, trong chiến lược phát triển bền vững và lâu dài nguồn nhân lực chất lượng cao, Tp. Hồ Chí Minh phải nhanh chóng cải cách hệ thống giáo dục đào tạo từ cấp quận cho tới cơ sở, nhất là về mặt nội dung phương pháp đào tạo. Nhận thức được tầm quan trọng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đã trở thành một trong sáu chương trình đột phá đã được Ðại hội Ðảng bộ Thành phố lần thứ 9 thông qua nhằm đưa Tp. Hồ Chí Minh phát triển lên một tầm cao mới, xứng đáng là đầu tàu mạnh mẽ cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng như cả nước. Khai thác và phát triển nguồn nhân lực. Đổi mới căn bản mô hình giáo dục đào tạo hiện nay theo hướng chuyển sang mô hình giáo dục mở; xây dựng xã hội học tập với hệ thống học tập cho mọi đối tượng, thực hiện liên thông giữa các bậc học gắn với phát triển nghề nghiệp của người dân, tạo ra nền tảng và điều kiện phát triển nguồn nhân lực. Có chính sách thu hút, sử dụng nhân tài và đội ngũ trí thức khoa học trên địa bàn Thành phố và cả nước, nhất là trí thức đầu đàn trong những ngành nghề mũi nhọn và những lĩnh vực quan trọng; thu hút các nhà khoa học và quản lý nước ngoài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào. Mạnh dạn thuê chuyên gia giỏi về các lĩnh vực và có chính sách thỏa đáng về tiền lương, điều kiện và chế độ cư trú, làm việc… phù hợp với sự cống hiến của họ Tiến hành các chương trình đào tạo lao động lành nghề, có trình độ cao, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển của Thành phố và khu vực, vừa tạo nguồn xuất khẩu lao động. Đào tạo tại các trường dạy nghề, trường chuyên nghiệp, đại học và tại doanh nghiệp, trong đó, hệ thống trường dạy nghề đóng vai trò quan trọng nhất. Tăng cường đầu tư và đẩy mạnh xã hội hóa công tác dạy nghề; mở rộng và nâng cấp các cơ sở dạy nghề, xây dựng các trung tâm đào tạo dạy nghề trình độ cao, gắn với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, lực lượng doanh nhân có tinh thần yêu nước, có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm kinh doanh thành thạo; không ngừng đổi mới và sáng tạo, mạnh dạn vận dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ, của khoa học tổ chức và quản lý tiên tiến. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý nhà nước có phẩm chất chính trị, có tâm đức trong sáng, có trách nhiệm trước dân, có năng lực, trí tuệ và nhiệt tình cách mạng cao. Có chính sách thỏa đáng để không ngừng nâng cao trình độ, năng lực tổ chức thực hiện và tăng thu nhập cho cán bộ. Câu 2: Quá trình mở đất, lập chính quyền của người Việt Nam trên đất Sài Gòn diễn ra như thế nào? Đồng chí có suy nghĩ, nhận định như thế nào về vấn đề này? Tự làm thảo luận 1. Quá trình mở đất, lập chính quyền của người Việt Nam trên đất Sài Gòn diễn ra như thế nào? Công cuộc khai phá vùng đất Nam Bộ Từ thế kỉ XVI, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc và dần bước vào thời kì suy vong, hầu như không có điều kiện quan tâm đến vùng đất còn ngập nước ở phía đông và trên thực tế đã không đủ sức quản lý vùng đất này. Trong bối cảnh đó nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng đã vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang lập làng sinh sống. Năm 1620 vua Chân Lạp Chey chetta II đã cưới con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên làm vợ. Đối với Chân Lạp, việc kết thân với chúa Nguyễn là để dựa vào lực lượng quân sự của người Việt lúc này đang rất mạnh nhằm làm giảm sức ép từ phía Xiêm. Với chúa Nguyễn, quan hệ hữu hảo này tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt, vốn đã có mặt từ trước, được tự do khai khẩn đất hoang và làm ăn sinh sống trên đất Thuỷ Chân Lạp và tăng cường ảnh hưởng của họ Nguyễn với triều đình Oudong. Năm 1623 chúa Nguyễn chính tức yêu cầu triều đình Chân Lạp để cho dân Việt mở rộng địa bàn khai phá trên những vùng đất thưa dân và để quản lý, chúa Nguyễn lập ở Pray Kor (vùng Sài Gòn ngày nay) một trạm thu thuế. Vua Chân Lạp đã chấp thuận đề nghị này[12] . Vào thời điểm đó cư dân Việt đã có mặt ở hầu khắp miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn. Sau cái chết của Chey Chetta II vào năm 1628 nội bộ giới cầm quyền Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc. Nhiều cuộc chiến giữa các phe phái đã diễn ra với sự trợ giúp quân sự của một bên là quân Xiêm, một bên là quân Nguyễn. Những cuộc chiến ấy chẳng những không ảnh hưởng đến việc người Việt tiến hành khai phá những vùng đất hoang hóa ở đồng bằng sông Cửu Long, mà trái lại, còn tạo điều kiện thuận lợi cho chúa Nguyễn thiết lập quyền kiểm soát chính thức của mình trên những vùng đất cư dân Việt đã dựng nghiệp. Trong thời kỳ này sự thần phục của các nhóm di thần nhà Minh góp phần đã đẩy nhanh quá trình xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn trên lãnh thổ Nam Bộ. Từ năm 1679 chúa Nguyễn Phúc Tần đã tạo điều kiện để nhóm Dương Ngạn Địch cùng nha môn, quân sĩ vùng Quảng Tây tổ chức việc khai phá và phát triển kinh tế vùng lưu vực sông Tiền Giang (Mỹ Tho), cho nhóm Trần Thượng Xuyên và những đồng hương Quảng Đông của ông chiêu dân tiếp tục mở mang vùng Biên Hòa - Đồng Nai. Trong vòng gần 20 năm, một vùng đất trải dài từ Bà Rịa đến sông Tiền Giang, vốn đã được cư dân Việt đến sinh cư lập nghiệp từ trước, nhanh chóng trở thành những trung tâm kinh tế quan trọng với nhiều làng mạc trù phú, phố phường sầm uất, hải cảng nhộn nhịp có thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Dương, Bồ Bà (Java) tới buôn bán. Trên cơ sở những đơn vị tụ cư đã trù mật những trung tâm kinh tế đã phát triển, năm 1698, chúa Nguyễn đã cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý vùng đất này và cho lập ra ở đây một đơn vị hành chính lớn là phủ Gia Định. Như vậy vào cuối thế kỷ XVII chúa Nguyễn đã xác lập được quyền lực của mình tại vùng trung tâm của Nam Bộ, khẳng định chủ quyền của người Việt trên vùng đất mà trên thực tế, chính quyền Chân Lạp chưa khi nào thực thi một cách đầy đủ chủ quyền của mình. Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là vào năm 1708 Mạc Cửu ở Hà Tiên xin quy phục chúa Nguyễn. Là một thương nhân Hoa kiều ở Lôi Châu, thường xuyên tới buôn bán ở vùng biển Đông Nam Á, Mạc Cửu đã sớm nhận ra vị trí địa lý thuận lợi của vùng đất Mang Khảm (sau đổi là Hà Tiên) nên đã lưu ngụ lại, chiêu mộ dân sửa sang bến thuyền, mở mang chợ búa, khai phá đất đai, biến một vùng đất còn hoang vu thành một nơi buôn bán sầm uất. Lúc đầu (vào khoảng năm 1680) Mạc Cửu đã từng xây dựng quan hệ thần phục với vua Chân Lạp, nhưng sau này thế lực Chân Lạp suy giảm, không đủ sức bảo vệ cho công việc làm ăn của cư dân vùng đất này khỏi sự tiến công cướp bóc của người Xiêm nên đã tìm đến chúa Nguyễn xin nội thuộc vào năm 1708. Năm 1757 khi đất Tầm Phong Long (tương đương với vùng tứ giác Long Xuyên) được vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn để đền ơn cứu giúp trong lúc hoạn nạn và giành lại ngôi vua, quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ của người Việt trên đất Nam Bộ về cơ bản đã hoàn thành. Từ quá trình lịch sử trên đây, không thể quan niệm một cách đơn giản rằng chủ quyền của người Việt trên vùng đất Nam Bộ là do chiếm của Chân Lạp. Chứng cứ lịch sử cho thấy quốc gia đầu tiên trên đất này là Phù Nam mà cư dân chủ yếu là người protomalais, đến đầu thế kỷ thứ VII mới bị Chân Lạp tiến công tiêu diệt. Tuy nhiên, Chân Lạp đã không có điều kiện để quản lý và khai thác vùng đất này. Sự sầm uất, trù phú của Nam Bộ là công lao khai phá của các nhóm cư dân chủ yếu là người Việt từ thế kỷ XVII. Chúa Nguyễn là người bảo hộ cho quá trình khai phá này và việc khẳng định quyền quản lý lãnh thổ là một hệ quả tự nhiên. Quá trình thụ đắc vùng đất Nam Bộ của chúa Nguyễn chủ yếu thông qua khai phá hoà bình kết hợp với đàm phán ngoại giao để khẳng định chủ quyền. Đó là phương thức được thừa nhận là phù hợp với thông lệ lịch sử và các văn bản quốc tế hiện hành. 4. Thực thi và bảo vệ chủ quyền Cùng với quá trình khai thác những vùng đất còn hoang vu ở Nam Bộ của cộng đồng cư dân, các chính quyền của người Việt đã liên tục thực hiện các chính sách quản lý lãnh thổ với tư cách là chủ nhân vùng đất này. Từ thế kỷ XVII để thực thi chủ quyền, các chúa Nguyễn đã tổ chức các đơn vị hành chính, sắp đặt quan cai trị, lập sổ sách quản lý dân đinh, ruộng đất và định ra các loại thuế. Phủ Gia Định thành lập năm 1698 gồm hai dinh Trấn Biên (Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định) quản lý hơn 4 vạn hộ. Sau năm 1774 vùng đất từ nam Hoành Sơn đến mũi Cà Mau được chia làm 12 dinh, trong đó vùng đất Nam Bộ chia thành 4 dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ và Hà Tiên). Trừ Hà Tiên lúc đầu còn là một dinh phụ thuộc, mỗi dinh quản hạt một phủ, dưới phủ có huyện, tổng hay xã. Từ đó, về cơ bản tổ chức hành chính trên vùng đất Nam Bộ đã được kiện toàn. Triều Nguyễn thành lập vào năm 1802 tiếp tục sự nghiệp của các chúa Nguyễn đã hoàn thiện hệ thống hành chính và thống nhất quản lý trên quy mô cả nước. Năm 1836 vua Minh Mạng cho lập sổ địa bạ toàn bộ Lục tỉnh Nam Kỳ. Bên cạnh chính sách chính trị, quân sự, triều đình khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội, mở mang phát triển các dinh điền, đồn điền, xây dựng các công trình thuỷ lợi, phát triển giao thông thuỷ bộ. Năm 1817 vua Gia Long cho đào kênh Thoại Hà. Vào đầu những năm 20, vua Minh Mạng giao cho đào kênh Vĩnh Tế nối Châu Đốc với Hà Tiên dài trên 70km. Ngay từ khi mới khẳng định quyền quản lý, các chính quyền người Việt đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm đối với chủ quyền lãnh thổ. Chính quyền các chúa Nguyễn đã từng kiên quyết đánh bại các cuộc tiến công xâm phạm lãnh thổ của quân Xiêm vào các năm 1715,1771... Tiêu biểu cho ý chí bảo vệ chủ quyền là cuộc kháng chiến chống Xiêm với chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút vang dội của Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy vào năm 1785. Sang thế kỷ XIX, các Vua Nguyễn đã cho xây dựng hệ thống các trường luỹ và đồn bảo trấn thủ dọc theo biên giới để bảo vệ lãnh thổ. Trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX cùng với xây dựng nước Đại Nam hùng cường, các vua Nguyễn đã bảo vệ vững chắc chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. Khi thực dân Pháp tấn công xâm lược, triều Nguyễn đã tổ chức kháng chiến chống lại. Đến khi triều đình tỏ rõ sự bất lực thì nhân dân Việt Nam đã không tiệc máu xương liên tục đứng lên đấu tranh anh dũng bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước của mình. Thắng lợi vẻ vang năm 1975 là đỉnh cao của quá trình chiến đấu hy sinh bền bỉ lâu dài vì lý tưởng cao đẹp đó. 5. Cơ sở pháp lý Cơ sở pháp lý về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ thể hiện ngay trong quá trình thụ đắc lãnh thổ bắt đầu từ thế kỷ XVII. Từ giữa thế kỷ XIX, chủ quyền này được chính thức ghi nhận trong văn bản các Hiệp ước quốc tế. Tháng 12 năm 1845 ba nước An Nam (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan) và Miên (Cămpuchia) đã ký một Hiệp ước, trong đó thừa nhận 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc Việt Nam. Năm sau, trriều Nguyễn và Xiêm lại ký một Hiệp ước có nhắc lại điều đó. Đây là Hiệp ước mà sau này Cao Miên cũng tham gia[13]. Như vậy muộn nhất là đến năm 1845 các nước láng giềng với Việt Nam, trong đó có cả Cămphuchia đã ký các văn bản pháp lý chính thức công nhận vùng đất Nam Bộ là của Việt Nam. Pháp tấn công Nam Bộ rồi sau đó lần lượt chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ là các sự kiện thể hiện rõ sự xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ trên vùng đất Nam Bộ, nhưng Cămpuchia không có bất cứ một phản ứng gì. Trái lại, triều Nguyễn đã điều động quân đội tiến hành kháng Pháp và khi kháng chiến thất bại, đã đứng ra ký các Hiệp định nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông (năm 1862) và 3 tỉnh miền Tây (năm 1874). Đây là những chứng cớ và cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất này. Sau khi lập ra Liên bang Đông Dương, trên cơ sở nghiên cứu lịch sử thực thi chủ quyền trên vùng đất Nam Bộ, Pháp đã tiến hành hoạch định biên giới giữa Nam Kỳ và Cămpuchia theo luật của nước Pháp. Việc khảo sát, đo đạc trên thực địa được tiến hành bởi các chuyên gia Pháp và Cămpuchia. Năm 1889 giữa Pháp và Cămpuchia đã ký một loạt các văn bản pháp lý về hoạch định, phân giới cắm mốc biên giới giữa Nam Kỳ và Cămpuchia. Tất cả các văn bản pháp lý này đều khẳng định vùng đất Nam Kỳ hoàn toàn thuộc về Việt Nam. Trước những thắng lợi liên tiếp của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngày 4 tháng 6 năm1949 tổng thống Vincent Aurol ký Bộ luật số 49 - 733 trả lại Nam Kỳ cho chính quyền Bảo Đại. Trong Bộ luật còn có chữ ký của Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp. Giải thích những thắc mắc của vương quốc Cămpuchia về quyết định này, ngày 8 tháng 6 năm 1949 Chính phủ Pháp đã có thư chính thức gửi quốc vương Sihanouk, trong đó có đoạn nói rõ: “Về pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán song phương với Cămpuchia để sửa lại các đường biên giới của Nam Kỳ” vì “Nam Kỳ đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước năm1862 và 1874…. chính từ triều đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam… về pháp lý, Pháp có đủ cơ sở để thoả thuận với Hoàng đế Bảo Đại việc sửa đổi quy chế chính trị của Nam Kỳ”. Trong bức thư đó Chính phủ Pháp còn khẳng định: “thực tế lịch sử ngược lại với luận thuyết cho rằng miền Tây Nam Kỳ vẫn còn phụ thuộc triều đình Khmer lúc Pháp tới ” và “Hà Tiên đã được đặt dưới quyền tôn chủ của Hoàng đế An Nam từ năm 1715 và kênh nối Hà Tiên với Châu Đốc được đào theo lệnh của các quan An Nam từ nửa thế kỷ trước khi chúng tôi đến” [14]. Vậy là đến năm 1949, vùng đất Nam Bộ vốn từng bị triều Nguyễn “bán” cho Pháp, đã được trả lại bằng một văn bản có giá trị pháp lý. Chính phủ Pháp còn khẳng định những cơ sở lịch sử và luật pháp của văn bản này với vương quốc Cămpuchia. Từ đó về sau chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ liên tục được tất cả các Hiệp định định có giá trị pháp lý quốc tế như Hiệp định Genève (1954), Hiệp định Paris (1973) công nhận. Như vậy, chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ không chỉ được khẳng định bởi tính tính chính đáng trong quá trình thụ đắc lãnh thổ cũng như công lao của Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vùng lãnh thổ đó suốt từ thế kỷ XVII đến nay mà còn phù hợp với nguyên tắc uti possidetis (tôn trọng nguyên trạng), phù hợp thông lệ và các công ước quốc tế hiện hành. 2. Đồng chí có suy nghĩ, nhận định như thế nào về vấn đề này Vùng đất Nam Bộ vốn là một địa bàn giao tiếp và đã từng có nhiều lớp cư dân đến khai phá. Vào khoảng đầu công nguyên, cư dân vùng đất này đã xây dựng nên nhà nước Phù Nam. Trong thời kỳ phát triển nhất vào khoảng thé kỷ V-VI, Phù Nam đã mở rộng ảnh hưởng và trở thành một đế chế rộng lớn với nhiều thuộc quốc phân bố ở phía nam bán đảo Đông Dương và bán đảo Malaca. Vào đầu thế kỷ VII đế chế Phù Nam tan rã, nước Chân Lạp của người Khmer, vốn là một trong những thuộc quốc của Phù Nam ở vùng Tongle Sap đã tấn công đánh chiếm vùng hạ lưu sông Mêkông (tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay). Tuy nhiên, trong suốt thời gian gần 10 thế kỷ vùng đất Nam Bộ không đựơc cai quản chặt chẽ và gần như bị bỏ hoang. Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là từ đầu thế kỷ XVII, dưới sự bảo hộ của các chúa Nguyễn người Việt đã từng bước khai phá vùng đất này. Người Việt đã nhành chóng hoà đồng với các cộng đồng cư dân tại chỗ và những cư dân mới đến (người Hoa) cùng nhau mở mang, phát triển Nam Bộ thành một vùng đất trù phú. Cũng từ đây người Việt là cư dân chủ thể và thực sự quản vùng đất này. Từ đó đến nay chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đã được khẳng định không chỉ bằng thực tế lịch sử mà còn trên các văn bản có giá trị pháp lý được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Trong suốt hơn ba thế kỷ với biết bao thăng trầm của lịch sử, nhiều thế hệ người Việt Nam (với ý nghĩa cộng đồng cư dân đa dân tộc) đã đổ biết bao công sức để dựng xây và bảo vệ vùng đất Nam Bộ. Mỗi tấc đất nơi đây đều thấm đẫm mồ hôi và máu. Chính vì thế mà đối với mỗi người dân Việt Nam, Nam Bộ không đơn thuần chỉ là vấn đề chủ quyền lãnh thổ mà cao hơn thế, còn là vùng đất của những giá trị thiêng liêng. Câu 3: Đồng chí hãy phân tích, đánh giá một đặc điểm nổi bật của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh? Liên hệ với những đặc điểm của Đảng bộ địa phương hoặc cơ quan, đơn vị công tác của mình? Tự làm thảo luận 1. Đồng chí hãy phân tích, đánh giá một đặc điểm nổi bật của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh Trải qua 80 mùa xuân, Đảng Cộng sản Việt Nam - một tổ chức lãnh đạo duy nhất đã giương cao ngọn cờ và lý tưởng độc lập tự do, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Tám mươi mùa xuân ấy, đi qua mọi thác ghềnh, gian khổ, con đường của Đảng đã lựa chọn là con đường vinh quang với biết bao kỳ tích, thành tựu: chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu và Đảng đã lãnh đạo toàn dân, đưa đất nước vươn tới kỷ nguyên xây dựng, phát triển, sánh vai với bè bạn năm châu. Nói đến sức sống của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 80 năm qua, phải nói đến những đóng góp không nhỏ của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh vào sự nghiệp chung của đất nước. Với vai trò lãnh đạo một thành phố đông dân, lớn nhất nước, Đảng bộ thành phố HCM đã luôn gìn giữ, phát huy truyền thống, kinh nghiệm quý báu của Đảng bộ thành phố trong kháng chiến, để rồi các thế hệ lãnh đạo thành phố cứ tiếp nối kinh nghiệm, bản lĩnh và sự sáng tạo, thể hiện được vai trò tiên phong bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, kịp thời, hợp lòng dân. Có thể nói, hơn hai mươi năm đổi mới đất nước, chưa bao giờ người dân thành phố cũng như những người có dịp đến thăm thành phố mang tên Bác, chứng kiến một sự đổi thay, phát triển nhanh vượt bậc về mọi mặt như trong những năm gần đây. Tại nhiều cuộc gặp gỡ với các bạn bè quốc tế, chúng tôi thường nghe họ bày tỏ sự thán phục về tốc độ phát triển nhanh chóng của thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố anh hùng mang tên Bác có được những đánh giá ấy, là bởi Đảng bộ thành phố luôn đưa ra những Nghị quyết đầy sáng tạo, mang tính đột phá. Không riêng một khu vực nào, tất cả 24 quận, huyện của thành phố hôm nay đều có những bước tiến dài. Cơ sở hạ tầng đô thị không ngừng được cải thiện, xây dựng mới theo hướng hiện đại hơn. Sự hình thành nhiều khu Công nghiệp, cụm Công nghiệp đã tạo nên hình ảnh phát triển và năng động cho thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt, sự xuất hiện của Khu công nghệ cao đã đưa nền công nghiệp thành phố phát triển theo hướng chuyên sâu và hiện đại. Bên cạnh đó, những khu đô thị mới như: khu đô thị Thủ Thiêm, khu đô thị Nam Sài Gòn đã cho thấy sức vươn mình đổi thay của thành phố mang tên Bác. Không bao lâu nữa, những cụm đô thị vệ tinh cũng sẽ được hình thành ở quận 2, quận 9, Hóc Môn, Củ Chi - những vùng đất mà cách đây chỉ hơn một thập kỷ, còn là những vùng đất thuần nông. Ông Tất Thành Cang, Bí thư Quận ủy Quận 2 - một quận có tốc độ phát triển đặc biệt nhanh chóng trong những năm gần đây đã chia sẻ: Chỉ một vài năm trở lại đây, thành phố vui mừng khánh thành nhiều cây cầu tạo sự liên thông mạnh mẽ giữa các quận nội thành với khu vực vùng ven, như: Cầu Thủ Thiêm, cầu Phú Mỹ, cầu Calmet, cầu Nguyễn Văn Cừ... Mới đây, Đại lộ Đông Tây đưa vào sử dụng vào cuối năm 2009 đã giúp người dân đi lại thuận tiện hơn. Và sắp tới, hệ thống tàu điện ngầm Metro cũng là bước đột phá mới về giải quyết vấn đề giao thông cho thành phố. Từ năm 2007, khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, trong bối cảnh đó, Đảng bộ thành phố luôn đồng hành cùng các doanh nghiệp bằng những cơ chế, chính sách mới, kích thích các doanh nghiệp phát triển. Có thể thấy rằng: thành phố ứng phó tốt với khủng hoảng kinh tế toàn cầu, là từ đường lối lãnh đạo của Đảng, từ sự kiên định và bản lĩnh, từ những Nghị quyết của Đảng bộ thành phố có tính đột phá. Tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2009 đạt trên 8% là một con số đáng tự hào trong bối cảnh nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới phải chịu mức tăng trưởng âm. Vui mừng trước những bước tiến tích cực của thành phố Hồ Chí Minh, Trung tướng Lê Thành Tâm - Chủ tịch Hội cựu chiến binh thành phố cho biết: Không chỉ riêng những cán bộ Đảng viên, mà ngay cả những người dân bình thường cũng vô cùng phấn khởi bởi những thành quả mà Đảng bộ TP đã đem lại. Ông Nguyễn Hoàng Kiên - khu phố 1, phường 16, quận Gò Vấp phấn khởi nói: Song song với phát triển kinh tế, Tp HCM luôn đưa ra những quyết sách về an sinh xã hội và đã trở thành điển hình cho các địa phương của cả nước, như các phong trào: xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, xóa đói giảm nghèo. Những năm gần đây, trung bình mỗi năm thành phố giải quyết việc làm cho trên 200.000 người. Chuẩn nghèo của thành phố đã được nâng từ 6 triệu lên 12 triệu/ người/năm, và cơ bản, thành phố đã xóa được các hộ nghèo theo tiêu chí cũ. Có thể nói, mọi tầng lớp nhân dân thành phố đều được thụ hưởng những thành quả từ NQ Đảng bộ TP đề ra. Phát triển về mọi mặt, một nỗ lực đáng ghi nhận của thành phố trên lĩnh vực môi trường là cải thiện các dòng kênh đen nội đô, đặc biệt là kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè. Uốn mình dọc theo các quận: Bình Thạnh, Phú Nhuận, quận 3, quận Tân Bình, kênh Nhiêu Lộc từng là một dòng kênh đen đặc quánh, với các khu dân cư nghèo lụp xụp hai bên, nhưng chỉ hơn 2 thập kỷ sau, con kênh này đang xanh hơn, trong hơn và hiện dần lên một vẻ đẹp rất riêng của TP.HCM. Trong quá trình xây dựng phát triển thành phố Hồ Chí Minh, Đảng bộ thành phố luôn duy trì và giữ vững những thành quả của Cách mạng. Các thế hệ lãnh đạo thành phố hôm nay luôn trung thành với lý tưởng Đảng. Qua mỗi nhiệm kỳ, mỗi bài học kinh nghiệm, thành phố lại đón nhận thêm nhiều thành quả mới. Phó Bí Thư Thường trực Thành Ủy Nguyễn Văn Đua cho biết: trong 2 năm 2008 - 2009, dù bị ảnh hưởng suy thoái kinh tế, nhưng bằng những quyết sách, sự chỉ đạo sát với thực tiễn và nỗ lực của toàn Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân thành phố, đã giúp thành phố vượt qua khó khăn, giữ vững tốc độ phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân. Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Nguyễn Văn Đua nhấn mạnh: Tám mươi năm, một chặng đường vẻ vang với những thành quả to lớn mà Đảng đã đem lại mùa xuân và hạnh phúc cho nhân dân, trên hết thảy, đó là niềm tự hào, lòng biết ơn của các thế hệ hôm nay và mai sau đối với Đảng cộng sản Việt Nam. Với Đảng bộ TP.HCM, những thành quả Kinh tế xã hội đã đạt được, cũng như tiềm năng, nguồn lực đang khơi thông, đó là những dấu son làm rạng ngời thành phố anh hùng. Phấn đấu "đi trước và về đích trước". Chúng tôi tự hào về thành phố của mình sẽ có một ngày mai phát triển bền vững và giàu đẹp./. 2. Liên hệ với những đặc điểm của Đảng bộ địa phương hoặc cơ quan, đơn vị công tác của mình Chi Bộ Nhà Văn Hóa Thanh Niên TPHCM Câu 4: Đồng chí hãy phân tích một tính cách văn hóa nổi trội của con người Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh mà mình tâm đắc? Cho biết suy nghĩ của đồng chí về thực trạng đời sống văn hóa của cư dân thành phố Hồ Chí Minh hiện nay? Tự làm thảo luận 1. Đồng chí hãy phân tích một tính cách văn hóa nổi trội của con người Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh mà mình tâm đắc Ở Sài Gòn, khái niệm "người nhập cư" thường được sử dụng trong cơ quan công quyền để phân biệt người có hộ khẩu và người không/chưa có hộ khẩu ở Sài Gòn, nhằm mục đích "quản lý hành chính". Giới nghiên cứu hay gắn khái niệm này với loại hình "kinh tế phi chính thức" trong việc nghiên cứu hoạt động kinh tế của đô thị Sài Gòn - TPHCM Còn trong đời sống hàng ngày, hầu như người Sài Gòn ít sử dụng cách nói "người nhập cư" hay "dân nhà quê", "dân tỉnh" mặc dù ở miền Tây Nam bộ hay gọi người Sài Gòn là "người thành phố", đi Sài Gòn là "lên thành phố". Vậy thì tôi, vừa với tư cách là "người nhập cư" vừa là "người Sài Gòn" có thể biết gì, hiểu gì về người Sài Gòn? Có thể bắt đầu từ vài nhận biết có phần rời rạc sau đây chăng? Đầu tiên, "người Sài Gòn" là sự hòa nhập về văn hóa (tính cách, lối sống, ngôn ngữ, tín ngưỡng, ẩm thực, trang phục...) của người Việt, người Hoa và những tộc người "bản địa". Người ta cứ quen nói rằng "Sài Gòn 300 năm" nhưng đó chỉ là nói về thời kỳ thiệt lập nền hành chính của Chúa Nghuyễn từ 1698 mà quên mất/chưa biết Sài Gòn còn có quá khứ hơn 3000 năm của văn minh Đồng Nai - Cửu Long. Văn minh ấy do những tộc người khác "Việt" dựng nên. Rồi từ Thế kỷ XVI - XVII, người Việt, người Hoa đã dấn bước vào vùng đất này, từ đó Sài Gòn, Nam bộ có thêm lớp chủ nhân mới. Cùng với người Khmer, người Mạ, người Chăm... sự hòa nhập truyền thống, văn hóa của tất cả những chủ nhân đã tạo nên Sài Gòn và người Sài Gòn mới mẻ, năng động và chân tình. Khi nói đến người Việt người ta hay nói đến truyền thống lịch sử lâu đời và hào hùng, bốn ngàn năm văn hiến, văn minh sông Hồng, con rồng cháu tiên, những triều đại nổi tiếng chiến thắng ngoại xâm... Còn khi nói đến người Việt (ở) Nam Bộ thì đầu tiên là kể về điều kiện tự nhiên thuận lợi của đồng bằng sông Cửu Long: vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, đất rộng người thưa, ít bị thiên tai như bão lụt hạn hán... Sau mới nói về nguồn gốc "lưu dân" và 300 năm hình thành. Nghiên cứu của gia phả nhiều dòng họ, gia đình ở Nam bộ phần lớn được ghi nhận "thời ông cố ông sơ" từ miền Trung đi ghe theo biển vô Nam, đầu tiên định cư trên những giồng đất vùng cửa sông... rồi từ đó ngược các nhánh Cửu Long vào sâu vùng ngập trũng, khai phá đồng bằng và khai thác tự nhiên. Công cuộc khai phá này chẳng hề dễ dàng thuận lợi chút nào! Do đó tính thực tiễn được đặt lên hàng đầu: tất cả hướng đến thực tế, không lý thuyết suông, không giáo điều, lấy hiệu quả lao động làm mục đích chính. Không hay than vãn, người Nam bộ nói đơn giản hóa, "coi vậy mà hổng phải vậy", coi khó khăn đã qua như một việc chơi chơi, còn kết quả thực sự mới là quan trọng, là đã "có ăn". Người Sài Gòn/Nam bộ đi chuyển càng xa cái "gốc" đồng bằng sông Hồng thì sợ dây truyền thống càng giãn ra. Những tính chất của không gian "nông thôn làng xã" khép kín biến đổi theo thời gian, bị/được đứt gãy do phải thích ứng với không gian địa - xã hội khác. Thay vào đó là sự tự lập và tính linh hoạt ứng phó với hoàn cảnh điều kiện mới và từ đó tạo ra truyền thống mới, dám thay đổi cho phù hợp hoàn cảnh, thích nghi nhanh, chịu đổi mới. "Làm đại nghen? Ừa, làm đại đi" là phong cách làm ăn Sài Gòn/Nam bộ. Làm đi, có sai cũng không sao, làm lại/sửa sai mấy hồi! Quan trọng là không mặc cảm sợ sai và sửa sai nhanh. Ở Sài Gòn/Nam bộ "dư luận xã hội" không nặng nề khắt khe với những điều khác lạ, cái mới. Là bởi người Việt trên bước đường lưu chuyển vào đây đã trải nghiệm qua những vùng đất toàn những điều mới lạ. Cùng với sự nhạt đi của tính chất phong kiến gia trưởng, việc tiếp xúc sớm với các giá trị dân chủ, bình đẳng của văn minh phương Tây làm cho người Sài Gòn khá cởi mở trong các mối quan hệ xã hội và trong gia đình. Tính chất dân chủ trong xã hội phát triển nhanh, biểu hiện ở chỗ cá nhân ít lệ thuộc, phụ thuộc vào cộng đồng và vì thế vai trò và trách nhiệm cá nhân cao "dám làm dám chịu". "Làm chơi ăn thiệt", "làm đại", "dám làm dám chịu"... sự liên kết gắn bó, hòa trộn ba đặc điểm trên tạo nên người Sài Gòn/Nam bộ, "3 trong 1" từ ứng xử đến làm ăn, trong sinh hoạt... không tách rời một đặc điểm nào, hình thành tính cách và làm nên hiệu quả của "công chuyện làm ăn" của người Sài Gòn. Nói về Nam bộ thì không có hay ít có sự phân biệt văn hóa và người Nam bộ nói chung với văn hóa và người Sài Gòn nói riêng (có chăng có thể phân biệt chút ít giữa Đông và Tây Nam bộ). Nếu không quá khắt khe có thể coi người/văn hóa Sài Gòn là đại diện cho người/văn hóa Nam bộ, từ giọng nói, ngôn ngữ, ẩm thực, tính cách, làm ăn... Có lẽ vì vậy mà ở Sài Gòn khi cần thì hỏi nhau "quê đâu" mà không hề có ý phân biệt người "nhà quê" hay "thành phố". Giai đoạn đương đại, quá trình dân cư của Sài Gòn cũng khác với nhiều đô thị khác: Thời kỳ chiến tranh Sài Gòn là nơi mà nhiều người từ các tỉnh miền Trung đổ vào, từ miền Tây Nam bộ lên, nhất là khi chiến sự ác liệt. Sau năm 1975 Sài Gòn cũng là nơi có tình trạng thay thế dân cư lớn nhất và kéo dài cho đến ngày nay: Người (thị dân) Sài Gòn ra đi bằng nhiều con đường, lúc ồ ạt khi chẳng mấy ồn ào; người các tỉnh lại liên tục đổ vào Sài Gòn tới nay chưa hề giảm bớt. Còn Hà Nội trong chiến tranh dân cư rời bỏ thành phố đi về (tản cư, sơ tán) nông thôn, sau chiến tranh mới trở lại thành phố. Tuy nhiên Hà Nội và Sài Gòn cũng có một số điểm giống nhau: 1/Sau khi chiến tranh chấm dứt, khá nhiều người Hà Nội "gốc" và Sài Gòn "xịn" đã rời thành phố đi nơi khác sinh sống, tạo ra khoảng trống trong cơ cấu dân cư là tầng lớp thị dân lâu đời; 2/Chính quyền thiết lập sau chiến tranh (Hà Nội 1954 và Sài Gòn 1975) đều do (hầu hết) những người (kháng chiến) ở nông thôn, rừng núi trở về lãnh đạo, tổ chức chính quyền chưa kịp thích nghi với những đô thị lớn nhất nước và 3/Hiện nay, hai thành phố này có vô số lượng người nhập cư nhiều nhất. Những đặc điểm này để lại cho Hà Nội và Sài Gòn nhiều khó khăn trong việc xây dựng đô thị văn minh hiện đại. Nhưng, ai đã vô Sài Gòn làm ăn sinh sống, chắc chắn trở thành "người Sài Gòn", bởi Sài Gòn phóng khoáng và rộng rãi mang lại cơ hội cho mọi người, bởi Sài Gòn không tự coi mình là đặc biệt khi đang sống bằng nguồn lực của chính mình và của những người đến từ mọi miền, đồng thời Sài Gòn cũng luôn chia sẻ, đóng góp những gì mình có cho cả nước. 2. Cho biết suy nghĩ của đồng chí về thực trạng đời sống văn hóa của cư dân thành phố Hồ Chí Minh hiện nay Lần đầu tiên tại Sài Gòn diễn ra một cuộc hội thảo về “giá trị của thành phố Sài Gòn hiện nay” với cái nhìn thất vọng nhiều hơn hãnh diện. Có người đã trải qua thời gian sống thời “Sài Gòn cũ” không ngần ngại bày tỏ nỗi ngậm ngùi luyến tiếc thuở xa xưa… Cuộc hội thảo này do báo Sài Gòn Tiếp Thị tổ chức hôm 25 tháng 4 mang tựa đề “Người trẻ và đất hứa” cho thấy phần lớn cư dân Sài Gòn hiện nay không phải là dân “chính gốc.” Ông Nguyễn Ðức Lộc, giảng viên trường Ðại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Sài Gòn (trường Ðại Học Văn khoa cũ) cho rằng hiện nay “ít ai dám vỗ ngực tự xưng mình là người Sài Gòn.” Trái lại, đa số cư dân Sài Gòn là người nhập cư từ nơi khác đến, trong đó có rất nhiều người đến để “đổi đời,” đặc biệt từ sau năm 1975 trở lại đây. Trẻ em Sài Gòn chơi đùa trên Bến Chương Dương. Với nhiều người, Sài Gòn hiện nay “thất vọng nhiều hơn hãnh diện.” (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt) Một diễn giả thuộc Viện Sinh Học Nhiệt Ðới Sài Gòn, ông Ngô Văn Trí, tỏ ý tiếc về việc phá bỏ nhiều kiến trúc thơ mộng của Sài Gòn xưa. Theo ông, những hàng cây sao, cây dầu tỏa bóng mát trên đường Tự Do cũ (nay là đường Ðồng Khởi) của một Catinat yêu kiều nay chỉ còn là “hoài niệm.” Ông nói: “Vẻ đẹp xưa với những kiến thức cổ kính đã dần mất đi để thay vào đó là những tòa nhà cao tầng.” Trong số các diễn giả góp ý về sự đổi thay của con người ở Sài Gòn, nhận định của ông Trần Bảo Minh, giám đốc điều hành công ty thực phẩm Á Châu tại Sài Gòn khiến cử tọa kinh ngạc. Người nghe không ngạc nhiên về nhận định “không mấy gì mới” của ông, nhưng ngỡ ngàng vì những lời lẽ hùng hồn, đanh thép của một người trẻ khi chỉ trích khuynh hướng chạy theo đồng tiền của người Sài Gòn hiện nay. Ông nói: “Ba tôi là một cán bộ tập kết đưa tôi về Sài Gòn sống với những người bạn của ông đều là cán bộ nhà nước. Tôi ngưỡng mộ những người này vì ai cũng làm việc không kể giờ giấc, hy sinh quyền lợi của bản thân mình vì lợi ích chung. Nhưng chỉ vài năm sau, khi tôi vào trường đại học, gặp lại các ông ấy thì tôi thấy họ thay đổi ghê gớm. Tư hữu, tư lợi nẩy sinh, họ chiếm nhà, chiếm đất, lấn đất làm nhà…” Cử tọa còn choáng váng khi nghe diễn giả, giám đốc Trần Bảo Minh, thú nhận ông mang cảm giác “lạc lõng” khi đứng giữa Sài Gòn sau chuyến du học từ Úc về. Ông Trần Bảo Minh cho rằng xã hội Sài Gòn đang “phân hóa dữ dội vì mọi giá trị của con người đều dựa vào thước đo của đồng tiền.”Ông còn nói rằng, “Ðồng tiền có giá trị vô song trên đất Sài Gòn hiện nay và đồng tiền lôi cuốn giới trẻ rơi vào vòng xoáy của trận cuồng phong đầy bất an.” Ý kiến của giám đốc Trần Bảo Minh đã được sự tán đồng của ông Nguyễn Ðức Lộc khi cho rằng các bậc cha mẹ hiện nay hết sức lo lắng cho thế hệ con em trong “vòng xoáy của đồng tiền – một thế lực và một quyền lực chi phối, thống trị mọi thứ.” Trong khi đó, theo họa sĩ trẻ Vũ Ðình Giang thú nhận đã từng lâm vào cuộc khủng hoảng tinh thần cũng như nhiều người khác thuộc giới trẻ ở Sài Gòn vì đồng tiền làm đảo lộn mọi thứ. Bài tường thuật của báo Sài Gòn Tiếp Thị về cuộc hội thảo đặc biệt này còn ghi nhận lời tâm sự của nữ phó giám đốc công ty Ocean Eyes, Ðoàn Phi Nga, nói rằng từng “ôm một cục tiền về nhà và chợt nhận ra mình không còn gì hết.” Sau phần lớn những lời tâm sự não nùng từ cuộc hội thảo, cũng có diễn giả đưa ra một số “lối thoát” trước cử tọa, chẳng hạn như “tìm cách thoát khỏi đám đông, tìm cách gây lại sự tự tin” v.v… Tuy nhiên, không ai nói được nguyên nhân vì sao Sài Gòn bây giờ làm nhiều người thất vọng hơn là hãnh diện. Vì chẳng lẽ nói rằng sự thay đổi đáng tiếc của Sài Gòn hiện nay là bởi “tàn dư của chế độ Sài Gòn cũ từ trước năm 1975 để lại”? (PL) Câu 5: Đồng chí hãy phân tích, chứng minh vai trò, vị trí của nền kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đối với sự phát triển kinh tế Nam bộ và cả nước? Tự làm Với những thành tựu đạt được, thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước. Với truyền thống kiên cường, năng động, sáng tạo của mình, Đảng bộ và nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tự tin bước vào nhiệm kỳ mới. Năm năm nhìn lại Dưới ánh sáng của Nghị quyết 01 năm 1982 của Bộ Chính trị (khóa V), xác định vị trí, vai trò của TP Hồ Chí Minh đối với khu vực phía nam cũng như cả nước và Nghị quyết 20 năm 2002 của Bộ Chính trị (khóa IX) về phương hướng nhiệm vụ phát triển TP Hồ Chí Minh đến năm 2010. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 8. Nhiệm kỳ vừa qua, Đảng bộ và nhân dân TP Hồ Chí Minh đã phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, phấn đấu bền bỉ, năng động sáng tạo, vượt qua nhiều khó khăn thử thách, giành những thắng lợi to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, xây dựng Đảng, an ninh quốc phòng, hợp tác với các tỉnh, thành phố trong cả nước, mở rộng quan hệ hữu nghị với nhiều thành phố trên thế giới, nâng thành phố lên tầm cao mới. Để thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng, ngay từ đầu nhiệm kỳ Thành ủy TP Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều giải pháp, biện pháp đồng bộ cụ thể và phù hợp từng năm và cho cả nhiệm kỳ nhằm hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân thành phố. Năm năm qua, nhất là nửa sau của nhiệm kỳ, thành phố đứng trước nhiều thời cơ lớn nhưng cũng phải đương đầu với không ít thách thức đan xen, đòi hỏi thành phố phải có những quyết sách đúng, trúng và kịp thời để đưa thành phố tiếp tục phát triển. Chính những lúc khó khăn nhất Đảng bộ TP Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ bản lĩnh chính trị của mình. Cùng với những chủ trương và các giải pháp của Đảng và Nhà nước, thành phố chủ động xoay chuyển tình hình, từng bước vượt qua khó khăn thách thức. Năm 2007: Nỗ lực kiềm chế lạm phát. Năm 2009: Tập trung ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Năm 2010: Thực hiện các giải pháp kích thích tăng trưởng và từng bước phục hồi kinh tế. Nhờ thực hiện quyết liệt các giải pháp, biện pháp đề ra, thành phố vượt qua khó khăn một cách thuyết phục. Chín tháng đầu năm 2010, kinh tế thành phố đã lấy lại nhịp điệu tăng trưởng như trước thời kỳ khủng hoảng, hầu hết các chỉ tiêu về kinh tế đều đạt và vượt kế hoạch đề ra và tăng so với cùng kỳ. Năm năm qua, kinh tế tiếp tục phát triển và đạt được mức tăng trưởng cao. GDP bình quân đạt 11%/năm. Tuy chưa đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra (12%) nhưng cũng là mức tăng khá cao so với bối cảnh chung. Nếu đặt sự phát triển kinh tế của thành phố dưới tác động thảo luận của cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu cuối năm 2007 đầu năm 2008 thì mới thấy hết sự năng động, sáng tạo và cố gắng vượt bậc của đảng bộ và nhân dân thành phố. Năm 2010 quy mô kinh tế thành phố bằng 1,7 lần năm 2005, GDP bình quân đầu người đạt 2.800 USD, bằng 1,68 lần năm 2005 (1.660 USD). Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế bước đầu đạt kết quả tích cực, từng bước tạo chuyển biến về chất trong cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành có giá trị gia tăng và hàm lượng khoa học - công nghệ cao. Các ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng 12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế chung. Trong đó, các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, bưu chính - viễn thông, vận tải - cảng - kho bãi, khoa học - công nghệ, giáo dục và y tế chất lượng cao tiếp tục phát triển có lợi thế cạnh tranh, chất lượng cao, giá trị gia tăng khá. Giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2006-2010 bằng 1,85 lần giai đoạn 2001 - 2005. Bốn ngành công nghiệp mũi nhọn của thành phố là cơ khí chế tạo, điện tử công nghệ thông tin, hóa chất, chế biến tinh lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp tuy chỉ chiếm hơn 1% GDP của thành phố nhưng cũng đang chuyển dịch tích cực theo hướng nông nghiệp đô thị, sản xuất giống cây, giống con và các sản phẩm có chất lượng, hiệu quả kinh tế, đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Năm 2009 doanh thu bình quân 1 ha đất nông nghiệp đạt 138,5 triệu đồng/năm, bằng 2,2 lần năm 2005. Nền kinh tế nhiều thành phần ngày càng khẳng định sức sống mạnh mẽ. Qua sắp xếp, đổi mới, tuy số lượng và tỷ trọng đóng góp của các doanh nghiệp Nhà nước trong cơ cấu kinh tế thành phố giảm, nhưng quy mô và hiệu quả lại tăng lên, phát huy được vai trò chủ đạo trong việc ổn định sản xuất, phát triển thị trường trong nước, bình ổn thị trường, nhất là trong giai đoạn khó khăn do suy thoái kinh tế toàn cầu. Khu vực kinh tế tập thể phát triển ngày càng đa dạng các hình thức tổ chức và hoạt động, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ phục vụ nông nghiệp và thương mại. Kinh tế tư nhân ngày càng phát triển nhanh, cả loại hình doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và các cơ sở kinh doanh cá thể, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế, giải quyết việc làm và thu ngân sách. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang chuyển dần sang các ngành thâm dụng vốn và khoa học - công nghệ, từng bước đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và bảo vệ môi trường, đóng góp ngày càng nhiều vào quá trình CNH, HĐH tại thành phố. Nhiệm kỳ vừa qua, thành phố tập trung nguồn lực thực hiện 12 chương trình, công trình trọng điểm và năm chương trình, công trình mang tính đòn bẩy do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 8 đề ra, đến nay nhiều công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng đã phát huy tác dụng tích cực, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội và cải thiện chất lượng sống cho nhân dân. Năm năm qua, tổng vốn đầu tư xã hội tăng gấp ba lần so với nhiệm kỳ trước với mức bình quân 24,6%/năm. Thành phố đã thực hiện nhiều giải pháp để đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng đô thị, như đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, hình thành cơ chế huy động phát hành trái phiếu đô thị, áp dụng hình thức BOT, BOO, BT, đổi đất lấy hạ tầng, định giá quyền sử dụng đất, xã hội hóa một số dịch vụ đô thị tạo thêm nhiều kênh huy động vốn quan trọng, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào kết cấu hạ tầng đô thị, giảm áp lực đầu tư từ ngân sách. Nhiều công trình công cộng như cầu, đường, trường, bệnh viện, khu vui chơi giải trí được xây dựng từ nguồn vốn này. Thu ngân sách trên địa bàn thành phố năm sau đều cao hơn năm trước, giai đoạn 2005-2010 gấp 2,5 lần giai đoạn 2001-2005, hằng năm đều vượt chỉ tiêu nộp ngân sách Trung ương giao và đóng góp hơn 30% ngân sách quốc gia. Năm loại thị trường (hàng hóa và dịch vụ, tài chính, công nghệ, bất động sản, lao động) phát triển khá nhanh, góp phần huy động vốn cho đầu tư. Thành phố tiếp tục phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu, giải quyết việc làm. Nhiệm kỳ vừa qua hơn một triệu lao động có việc làm mới, trong đó có gần nửa triệu lao động được đào tạo nghề. Kinh tế đối ngoại tiếp tục được mở rộng trên cả ba lĩnh vực xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn vốn viện trợ phát triển (ODA) là nhân tố quan trọng thúc đẩy kinh tế thành phố tăng trưởng. Môi trường kinh doanh và đầu tư tiếp tục được cải thiện qua những tiến bộ trong cải cách hành chính và các chính sách ưu đãi đầu tư lĩnh vực công nghệ cao, kết cấu hạ tầng, bảo vệ môi trường đã từng bước tạo lập được môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và giữ vai trò trung tâm thúc đẩy sự phát triển kinh tế cho cả khu vực phía nam. Thành phố tích cực mở rộng quan hệ hợp tác phát triển kinh tế - xã hội với các tỉnh, thành phố, kết quả tuy còn khiêm tốn, nhưng đã mở ra hướng đi tích cực. Có thể nói vị trí, vai trò của thành phố đối với khu vực và cả nước theo Nghị quyết số 20 NQ/T.Ư của Bộ Chính trị về phương hướng nhiệm vụ phát triển TP Hồ Chí Minh và Nghị quyết số 53 - NQ/T.Ư của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Đông-Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ngày càng được khẳng định trên nhiều lĩnh vực: đóng góp vào quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế; thu ngân sách Nhà nước; kim ngạch xuất khẩu; tổng mức luân chuyển hàng hóa; huy động vốn đầu tư; dịch vụ, du lịch, khoa học - công nghệ; đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH của khu vực và đất nước. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, các hoạt động khoa học - công nghệ, văn hóa, giáo dục, y tế bảo vệ và chăm sóc sức khỏe người dân cũng đã đạt được những kết quả đáng mừng. An ninh - quốc phòng được bảo đảm có tác dụng tích cực tới các lĩnh vực khác. Mỗi người dân thành phố đều có quyền tự hào về những đóng góp của mình đối với sự phát triển chung của TP Hồ Chí Minh hôm nay. Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh nhận thức rằng nhiệm kỳ vừa qua, tuy kinh tế tăng trưởng khá cao nhưng vẫn chưa tương xứng với vị trí, vai trò, tiềm năng và lợi thế của mình. Chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh chưa cao, nhiều nguồn lực quan trọng và những yếu tố thuận lợi, thế mạnh của thành phố chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc biệt là trong công nghiệp và dịch vụ còn chậm. Các ngành kinh tế mũi nhọn có hàm lượng khoa học - công nghệ cao và các dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn, chuyển giao công nghệ... chưa thật sự phát triển đúng yêu cầu và phục vụ đắc lực cho nhu cầu phát triển. Kết cấu hạ tầng ngày càng quá tải, gây bức xúc cho người dân, cản trở mục tiêu tăng trưởng kinh tế và cải thiện dân sinh. Quy hoạch và quản lý đô thị còn lúng túng bị động chưa theo kịp tốc độ phát triển. Chất lượng giáo dục, đào tạo và nguồn nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu phát triển và hội nhập. Khoa học và công nghệ chưa thật sự là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội... Thành phố đã gắn kết chặt chẽ với các tỉnh, thành phố chung quanh và một số địa phương trong nước, nhưng chưa thật sự thể hiện rõ vai trò trung tâm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế cho cả vùng kinh tế trọng điểm phía nam. Có thể nói, đây là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả và sức cạnh tranh của kinh tế thành phố và cũng là thách thức khá lớn đối với kinh tế thành phố trong nhiệm kỳ tiếp theo. Nguy cơ "bị" đuổi kịp và "tụt hậu" về kinh tế đối với một số địa phương khác không phải là không có. Giữ vững vai trò hạt nhân "đầu tàu" kinh tế Từ nhiều năm nay, TP Hồ Chí Minh luôn tự hào giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và thực tiễn đã khẳng định điều đó. Với lợi thế vượt trội so với các thành phố lớn khác của cả nước về tiềm lực kinh tế, TP Hồ Chí Minh đóng vai trò hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía nam, nơi tạo ra một phần tư tổng sản phẩm quốc nội (GDP); một phần ba giá trị sản lượng công nghiệp, 30% tổng thu ngân sách quốc gia, hơn 30% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, thu hút một phần ba tổng số dự án FDI. Chỉ tính riêng lĩnh vực tài chính - ngân hàng, thành phố có mạng lưới thương mại cổ phần năng động hoạt động khắp nước, chiếm 30% tổng dư nợ cho vay và vốn huy động của các ngân hàng cả nước. Nếu cộng thêm số vốn trên thị trường chứng khoán và số vốn huy động của thị trường bảo hiểm thì tổng tài sản tài chính của TP Hồ Chí Minh chiếm gần 50% tổng tài sản tài chính của cả nước. Ngoài những lợi thế trên, thành phố còn hội tụ nhiều yếu tố khác đặc biệt là đội ngũ trí thức đông đảo - nguồn nhân lực quan trọng chất lượng cao và hệ thống các trường cao đẳng, đại học, viện nghiên cứu... để trở thành một trung tâm công nghiệp, khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế và tài chính lớn trong khu vực. Nằm giữa miền Đông và Tây Nam Bộ, thành phố có đường hàng không, cảng biển, hệ thống đường bộ thuận tiện kết nối trực tiếp với các nước trong khu vực và thế giới. Kinh tế thành phố phát triển đóng góp ngày càng lớn vào nền kinh tế đất nước. Chỉ tính riêng giai đoạn 2006-2010, thành phố đóng góp hơn 20% GDP cả nước, hơn 30% ngân sách quốc gia, gần 30% giá trị sản xuất công nghiệp, 30% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ, 40% kim ngạch xuất nhập khẩu. Mức thu nhập bình quân của người dân thành phố năm 2010 gấp khoảng 2,5 lần so với bình quân cả nước. Những kết quả đạt được trên đây đã góp phần để thành phố tiếp tục giữ vững vai trò "đầu tàu" kinh tế của khu vực và cả nước và là cơ sở để thành phố có thêm nguồn lực đầu tư phát triển, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Để giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước, TP Hồ Chí Minh xác định rõ hướng đi tới của mình, đó là tập trung nâng cao chất lượng tăng trưởng, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, phát triển bền vững. Ngoài ra cũng cần phải nhìn nhận sâu hơn nữa về những bất cập, yếu kém tồn tại và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình phát triển để Đảng bộ và nhân dân thành phố đồng lòng, đồng sức xốc tới. Những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ qua của Đảng bộ TP Hồ Chí Minh là căn cứ thực tiễn để khẳng định sự đúng đắn trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 8 nhiệm kỳ 2006-2010 đã đề ra. Kế thừa thành tựu của các nhiệm kỳ trước và từ thực tiễn sinh động của nhiệm kỳ vừa qua về phát triển kinh tế, xã hội, Thành ủy TP Hồ Chí Minh quyết tâm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ thành phố phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện, xây dựng thành phố trở thành một thành phố xã hội chủ nghĩa, văn minh, hiện đại, đầu tàu kinh tế của cả nước, xứng đáng được mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan