Header Page 1 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Với chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng lịch sử năm 938, nước
ta thoát khỏi 1000 năm Bắc thuộc và từ đây Đại Việt bắt đầu bước vào một
thời kì mới, thời kì độc lập tự chủ.
Năm 1010 nhà Lý được thành lập, trong không khí tưng bừng phấn
khởi khi đất nước độc lập, tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trở thành
một nhu cầu thiết yếu đối với mỗi người dân Đại Việt. Với cảm hứng yêu
nước, tinh thần dân tộc, trong văn học đã dấy lên một phong trào sáng tác thơ
ca để ngợi ca các bậc anh hùng cũng như công cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm đáp ứng đời sống tinh thần của con người.
Tiếp nối thành tựu của đời trước, bước vào thời đại nhà Trần, tinh thần
khẳng định quốc gia dân tộc cũng là nguồn cảm hứng bất tận đối với các thi sĩ
giai đoạn này. Những sắc thái tình cảm thể hiện tinh thần yêu nước, tự hào về
những chiến công chống quân xâm lược, về truyền thống đấu tranh bất khuất,
về một nền văn hiến văn hóa lâu đời, về đất nước tươi đẹp phong phú, về con
người có bản lĩnh vững vàng, về cuộc sống yên vui,…đã trở thành đề tài
chính trong hầu hết các sáng tác của các tác giả thời Trần.
Khẳng định quốc gia dân tộc mình, thơ ca thời Trần đã chứa đựng cái
hào khí đặc biệt - Hào khí Đông A - Hào khí Đại Việt gắn với một thời đại
quật khởi chiến thắng ngoại xâm liên tục và cởi mở đón nhận tinh hoa văn
hóa bốn phương.
Xuất phát từ những lí do trên tác giả khóa luận chọn đề tài “Tinh thần
khẳng định quốc gia dân tộc trong thơ ca thời Trần” nhằm làm sáng rõ cả
về nội dung và ý thức nghệ thuật của một thời đại thi ca đi vào lịch sử văn học
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 1 of 95.
-1-
Khoa Ngữ văn
Header Page 2 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
với những trang sử hào hùng, ngợi ca và tự hào khi khẳng định dân tộc Đại
Việt.
Thơ ca thời Trần cũng có một vị trí thực sự quan trọng trong chương
trình Phổ thông, Cao Đẳng, Đại học. Bởi vậy, với đề tài này, tác giả khóa luận
hi vọng nó sẽ có những đóng góp đáng kể và thiết thực vào công việc giảng
dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề
Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV được coi là giai đoạn đặt nền móng cho Văn
học trung đại Việt Nam. Thành tựu văn học của thời kì này tập trung nhiều
vào thời nhà Lý và nhà Trần bởi vậy các nhà nghiên cứu gọi chung là Văn
học Lý - Trần.
Viết riêng về thời Trần đã có nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm đến
thơ ca giai đoạn này như: Đinh Gia Khánh; Nguyễn Phạm Hùng; Nguyễn
Đăng Na; Nguyễn Hữu Sơn; Đoàn Thị Thu Vân; Lê Thu Yến,…Tuy nhiên
không phải tất cả những vấn đề thuộc mọi lĩnh vực trong nguồn thơ ca ấy đều
được họ đề cập đến trong công trình nghiên cứu của mình.
Đinh Gia Khánh (chủ biên), (2006), Văn học Việt Nam (Thế kỉ X - nửa
đầu thế kỉ XVIII), Nhà xuất bản Giáo dục, trang 101 có viết: “Thơ văn đời
Trần khẳng định giá trị của con người, vai trò của nhân dân và do đó có ý
nghĩa nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc. Chủ nghĩa nhân đạo ấy gắn liền với chủ
nghĩa yêu nước, bởi vì khi khẳng định giá trị của con người trong việc bảo vệ
và xây dựng Tổ quốc thì các tác giả cũng đồng thời thể hiện niềm tin tưởng ở
phẩm chất và khả năng của dân tộc mình”. Ở đây tác giả chủ yếu bàn về
phẩm chất và khả năng của con người Đại Việt.
Đoàn Thị Thu Vân, (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam
sơ kì trung đại, Nhà xuất bản Giáo dục, trang 26 - 27 cũng bàn về con người
trong thơ thời Trần nhưng không phải là con người khí phách mà là con người
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 2 of 95.
-2-
Khoa Ngữ văn
Header Page 3 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
nhân văn với vẻ đẹp mẫn cảm của tâm linh: “con người thường xuyên tự phản
tỉnh”. “Đó là sự phản tỉnh ở cấp độ con người - nhân loại mang ý nghĩa triết
học” và “ sự phản tỉnh ở cấp độ con người - cá thể mang ý nghĩa nhân sinh”
Lê Thu Yến (chủ biên), Đoàn Thị Thu Vân - Lê Văn Lực, (2003), Văn
học trung đại - Những công trình nghiên cứu, Nhà xuất bản giáo dục, trang
27, lại nói về quan niệm của con người trong thơ Thiền: “Thơ Thiền thời Lý Trần, nhất là thời Trần luôn có xu hướng muốn đạt đến một con người - vũ
trụ…Ấy là con người được giải thoát khỏi những ràng buộc hữu hạn của thế
giới trần thế ngay chính nơi trần thế”.
Nhìn chung các tác giả trên với bài viết của mình chủ yếu khai thác về
con người trong nội dung thơ ca thời Trần.
Bên cạnh đó, cũng có một số tác giả đi vào tìm hiểu những khía cạnh
trên phương diện nghệ thuật như: Nguyễn Đăng Na (chủ biên) - Lã Nhâm
Thìn - Đinh Thị Khang, (2008), Văn học trung đại Việt Nam tập I, Nhà xuất
bản Đại học Sư phạm, trang 20 có nhấn mạnh: “Thơ văn Lý Trần đặt nền
móng một cách vững chắc cho Văn học trung đại Việt Nam từ chữ viết đến thể
loại, từ nội dung đến nghệ thuật, từ phương thức tư duy nghệ thuật đến cách
tiếp thu, kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại và sáng tạo truyền thống nghệ
thuật riêng cho dân tộc mình”. Đây gần như là sự đúc kết toàn bộ thơ ca của
thời kì Lý – Trần.
Trần Ngọc Vương (chủ biên), (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X đến
Thế kỉ XIX – Những vấn đề lí luận và lịch sử, Nhà xuất bản giá dục, trang 540
lại viết riêng về sự tiếp thu thể loại của cả thời Lý - Trần chứ không đi riêng
vào thời nhà Trần: “ Hệ thống thể loại Văn học Lý - Trần có thể được xem là
một điển hình của quá trình tiếp thu thể loại Văn học Trung Quốc”.
Tiếp thu những khía cạnh mà người đi trước đã nghiên cứu, đồng thời
bổ sung thêm những thiết hụt, những vấn đề chưa được bàn tới, với đề tài
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 3 of 95.
-3-
Khoa Ngữ văn
Header Page 4 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
“Tinh Thần khẳng định quốc gia dân tộc trong thơ ca thời Trần” của mình,
em tập trung đi sâu vào khai thác những thành tựu của riêng thời nhà Trần đã
đạt được trên cả hai phương diện nội dung và ý thức nghệ thuật. Hi vọng rằng
với đề tài này có thể góp phần làm hoàn thiện hơn trong việc khẳng định giá
trị thơ ca thời Trần.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trong thơ ca thời
Trần.
Có được cái nhìn toàn diện về sự nghiệp văn học và sự đóng góp của
các tác giả đời Trần vào hệ thống Văn học trung đại nói riêng và Văn học Việt
Nam nói chung.
Góp phần thiết thực vào công việc giảng dạy Ngữ văn sau này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nêu được những nét khái quát nhất về lịch sử xã hội, tư tưởng và văn
học thời Trần.
Khẳng định ngợi ca quốc gia Đại Việt trên tinh thần dân tộc ở cả hai
phương diện nội dung và nghệ thuật.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trong
thơ ca thời Trần.
- Phạm vi nghiên cứu: Thơ ca thời Trần.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
7. Đóng góp của khóa luận
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 4 of 95.
-4-
Khoa Ngữ văn
Header Page 5 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
- Về mặt lí luận: Thấy được những nét cơ bản trong “Tinh thần khẳng
định quốc gia dân tộc trong thơ ca thời Trần”. Đồng thời nâng cao hiểu biết
về nội dung và nghệ thuật thơ ca thời Trần.
- Về mặt thực tiễn: Đề tài sẽ là tư liệu cần thiết để phục vụ cho công tác
giảng dạy sau này ở trường Phổ thông.
8. Bố cục của khóa luận
Khóa luận gồm:
- Mục lục
- Mở đầu
- Nội dung
Chương 1: Những vấn đề chung về lịch sử xã hội, tư tưởng và văn học thời
Trần.
Chương 2: Tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trong thơ ca thời Trần.
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 5 of 95.
-5-
Khoa Ngữ văn
Header Page 6 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỊCH SỬ XÃ HỘI, TƯ TƯỞNG VÀ
VĂN HỌC THỜI TRẦN
1.1. Lịch sử xã hội
1.1.1. Lịch sử
Sau hơn một nghìn năm bị phong kiến Trung Hoa đô hộ, năm 938, với
chiến thắng vang dội của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng lịch sử đất nước ta
đã bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập tự chủ.
Năm 939, từ khi Ngô Quyền xưng vương dựng nước, đến tháng 12/
1225 khi nhà Trần được thành lập, nước ta đã trải qua sự hưng vong của các
triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý và chấm dứt khi vua Thiếu Đế bị ép thoái vị
vào năm 1400 để nhường ngôi cho ông ngoại là Hồ Quý Ly. Từ đây vương
triều Trần kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình.
Trong triều Trần, công cuộc xây dựng và phát triển đất nước Đại Việt
được tiếp tục với tất cả sự cố gắng của mọi tầng lớp xã hội. Trong vòng 175
năm, bằng sự nỗ lực hết sức của mình nhà Trần đã làm được những chiến
công vang dội đi vào lịch sử dân tộc, đặc biệt với ba lần chiến thắng chống
quân Nguyên - Mông để bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước.
Trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất vào
năm 1258, vua Trần Thái Tông đã đích thân ra chiến trận rồi xuống chiếu ra
lệnh cho cả nước khẩn trương đánh giặc cứu nước. Sau mấy tháng trời gian
khổ ròng rã, kinh thành Thăng Long sạch bóng quân thù và trả lại sự yên bình
cho Đại Việt.
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 6 of 95.
-6-
Khoa Ngữ văn
Header Page 7 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
Từ bài học thất bại nặng nề trên đất Việt năm 1258 và ở Chiêm Thành
năm 1283, Hốt Tất Liệt đã huy động một lực lượng quân viễn chinh rất lớn
tấn công vào nước ta với mục đích nhanh chóng đánh chiếm Đại Việt.
Trước ngòi lửa chiến tranh sắp bùng nổ, tinh thần yêu nước và chí căm
thù giặc của nhân dân ta càng dâng cao. Vua tôi nhà Trần gấp rút chuẩn bị
kháng chiến. Để thể hiện lòng quyết tâm chiến thắng giặc, quân dân ta đã
chích vào cánh tay của mình hai chữ “Sát Thát” (giết giặc Thát Đát - chỉ quân
Mông Cổ).
Đây là lần xâm lược Đại Việt với quy mô lớn nhất của nhà Nguyên và
cũng là cuộc kháng chiến gian khổ nhất của quân dân nhà Trần chống phương
Bắc, quyết định sự tồn vong của Đại Việt lúc đó.
Sau những tháng ngày liên tục phản công quyết liệt bằng những trận
quyết chiến, quân dân ta đã lập nên những chiến công vang dội có ý nghĩa
chiến lược. Chiến thắng ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long,
Vạn Kiếp đã tiêu diệt và quét sạch 50 vạn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi của
Tổ quốc.
Thắng lợi năm 1285 cơ bản đã xác định sự tồn tại của Đại Việt và củng
cố lòng tin của người Việt vào sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, tinh thần
đấu tranh anh dũng của nhân dân.
Sau hai lần thất bại thảm hại, vua Nguyên Hốt Tất Liệt đã tổ chức ngay
cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ ba vào năm 1288. Lần này Trần
Quốc Tuấn và triều đình chú trọng đến chiến trường ven biển Đông Bắc. Đó
là đường tiến quân của thủy quân và đoàn thuyền tải lương của giặc.
Lấy trận địa trên sông Bạch Đằng, thắng lợi cứ nối tiếp thắng lợi “quân
ta ngày càng hăng hái diệt địch, địch chết bị thương không kể xiết” [8, 243 ].
Tin đại thắng Bạch Đằng nhanh chóng truyền lan khắp cả nước càng
làm nức lòng quân dân Đại Việt. Đến ngày 19/4/1288 quân địch rải xác trên
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 7 of 95.
-7-
Khoa Ngữ văn
Header Page 8 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
đường rút chạy, Thoát Hoan một lần nữa đành phải giải tán quân bại trận ở
châu Tư Minh (Quảng Tây, Trung Quốc).
Như vậy, trong ba mươi năm liên tiếp, quân dân nhà Trần đã ba lần đại
thắng ngoại xâm. Thắng lợi vẻ vang và hào hùng ấy góp phần làm suy yếu
quân Nguyên Mông, khẳng định sức mạnh của đội quân yêu nước trước kẻ
thù xâm lược. Chính khí thế sục sôi hào hùng của quân đội nhà Trần được
mệnh danh là “Hào khí Đông A” đã tác động mạnh mẽ đến tinh thần, tình
cảm và tâm lí con người thời đại. Nó góp thêm vào tinh thần khẳng định quốc
gia dân tộc của nhân dân Đại Việt.
1.1.2. Xã hội
1.1.2.1. Kinh tế
Một trong những điều kiện có ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến sự
khẳng định đất nước Đại Việt giàu đẹp chính là ở lĩnh vực kinh tế.
Nhìn chung các triều vua đời Trần đều coi trọng sản xuất nông nghiệp,
coi đó là cái gốc của kinh tế đất nước. Dưới triều đại của mình, vua quan nhà
Trần chú ý mở rộng thêm diện tích đất canh tác bằng công cuộc khẩn khoang
của tư nhân và của triều đình. Tiếp tục chính sách “ngụ binh ư nông” đặt ra
từ đời Lý, một mặt lại đảm bảo sức lao động cho sản xuất nông nghiệp, một
mặt lại đảm bảo yêu cầu sẵn sàng chiến đấu của quân dân trước mọi nguy cơ
xâm lược của kẻ thù.
Bên cạnh đó, công cuộc xây dựng thủy nông cũng được tập trung chú
ý: “nhà Trần ý thức được rằng muốn bảo vệ được mùa màng, nhà cửa, tính
mạng một cách lâu dài phải có quy hoạch đắp đê quy mô theo cả dòng sông”
[8, 204 ]. Từ đó nhà nước trực tiếp tổ chức công việc.
Với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp là điều kiện cho việc đẩy
mạnh sản xuất thủ công nghiệp để Đại Việt ngày càng phồn thịnh hơn.
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 8 of 95.
-8-
Khoa Ngữ văn
Header Page 9 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
Nhà Trần vẫn tiếp tục xây dựng quan xưởng thủ công nghiệp nhà nước
với những ngành nghề khác nhau như nghề sản xuất đồ gốm ở Thiên Trường;
nghề dệt được đặt ngay trong cung đình; ngoài ra các xưởng chế tạo vũ khí
cũng được xây dựng nhiều.
Thêm vào đó thủ công nghiệp nhân dân cũng là bộ phận quan trọng và
phổ biến của thủ công nghiệp. Những nghề thiết yếu là gốm (Bát Tràng);
nghề rèn sắt (Tùng Lâm, Hoa Chàng); nghề đúc đồng (làng Bưởi); nghề mộc
và xây dựng; còn có nghề khai khoáng ở Miền núi phía Tây và Tây Bắc.
Sự phát triển của nền nông nghiệp và thủ công nghiệp nước nhà đã tạo
điều kiện cho thương nghiệp vươn mình đi theo. Điều này làm cho kinh đô
Thăng Long ngày càng mở mang sầm uất. Mạng lưới giao thông mở rộng,
nhiều đường thủy, bộ và trạm dịch nối liền kinh đô với các địa phương. Chợ
búa mọc lên khắp nơi, việc buôn bán với nước ngoài được tổ chức ở các
thương khẩu từ đó hình thành nên các trung tâm thương mại nổi tiếng như
Vĩnh Bình; Nghi Hòa Đình (Cao - Lạng); Vân Đồn (Quảng Ninh).
Nhìn chung nền kinh tế Đại Việt dưới triều Trần đạt đến trình độ phát
triển nhất định. Và trên cơ sở của nền sản xuất khá dồi dào ấy, văn hóa vật
chất và tinh thần của xã hội có điều kiện nảy nở phù hợp với hoàn cảnh của
đất nước lúc bấy giờ.
1.1.2.2. Chính trị
Cuộc thay đổi triều đại chuyển chính quyền từ dòng họ Lý sang họ
Trần trong hoàng cung và triều đình diễn ra như một tất yếu của lịch sử dân
tộc. Khi bắt đầu sứ mệnh lịch sử của mình, tập đoàn quý tộc họ Trần rất khôn
khéo, dần dần từng bước vững chắc và cuối cùng đã nắm giữ chính quyền
nhanh gọn để mở ra một thời kỳ tiếp tục phát triển cao hơn của xã hội Đại
Việt.
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 9 of 95.
-9-
Khoa Ngữ văn
Header Page 10 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
Nhà Trần đã xây dựng một chính quyền của quý tộc - tổ chức chính
quyền của dòng họ Trần. Các chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền,
đặc biệt các chức võ quan cao cấp đều do các hoàng tử, thân vương nắm giữ.
Các vua Trần thường sớm truyền ngôi cho con rồi lên làm Thái thượng hoàng
nhưng vẫn tiếp tục trông coi việc nước. Sự liên kết dòng họ nắm chính quyền
đó như một nguyên tắc mà các vua Trần cố gắng thực hiện trong suốt 175
năm trị vì.
Tổ chức quân đội nhà Trần tạo ra một sức bật mới làm nhanh chóng ổn
định trật tự xã hội, sắp xếp chính quyền, đồng thời tăng cường lực lượng quân
sự đủ sức đưa đất nước vượt qua các trở ngại, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Bộ phận cấm quân của nhà Trần ngày càng được tăng thêm, phiên chế
ngày càng phức tạp và chặt chẽ. Lực lượng vũ trang của các quý tộc cũng là
một lực lượng đáng kể. Ngoài ra nhà Trần còn nâng cao chất lượng binh lính
bằng các biện pháp tuyển quân, tuyển tướng, huấn luyện binh pháp và rèn
luyện tư tưởng.
Về phương thức tuyển chọn quan lại ở thời Trần cũng có sự khác biệt.
Do nhà nước Trần được xây dựng chủ yếu trên hai cơ sở xã hội là quý tộc và
sỹ phu nên phương thức tuyển chọn quan lại bằng “nhiệm tử”, người nắm
chính quyền được bổ nhiệm theo họ hàng. Ngoài ra còn lựa chọn qua “khoa
cử”, qua “công lao”, “thủ sĩ” và mua bán bằng tiền. Việc tuyển chọn này đã
góp phần quy định bản chất thành phần của chính quyền nhà Trần.
Cơ quan luật pháp thời Trần cũng được tăng cường và hoàn thiện hơn.
Năm 1230, Trần Thái Tông ban hành bộ “Quốc triều thông chế” gồm 20
quyển quy định về tổ chức chính quyền. Tiếp sau đó nhà Trần lại ban hành
quyển “Quốc triều hình luật”.
Pháp luật và tổ chức tư pháp đời Trần rất nghiêm minh và chặt chẽ để
khẳng định sức mạnh của nhà nước khi đang cai trị.
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 10 of 95.
- 10 -
Khoa Ngữ văn
Header Page 11 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
Như vậy, với một nền chính trị như thế, Đại Việt dưới sự phát triển của
triều Trần đã để lại một dấu ấn đậm nét trong lịch sử Việt Nam.
1.1.2.3. Văn hóa - giáo dục
Đất nước đã được độc lập, văn hóa dân tộc có điều kiện phát triển mạnh
mẽ về mọi mặt. Nhà Trần đã cố gắng khôi phục và xây dựng một nền văn hóa
cởi mở, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đó là nguồn văn hóa dân gian. Nó không chỉ thể hiện ở lĩnh vực tinh
thần qua những điệu hát chèo, những điệu nhảy và cả nghệ thuật múa rối, trò
chơi hay những câu chuyện thần thoại về nguồn gốc và công cuộc đấu tranh
của người Việt mà còn thể hiện qua văn hóa vật chất với những công trình
kiến trúc lớn như “Thành nhà Hồ”, “Lăng mộ nhà Trần ở Thái Đường”,
nghệ thuật điêu khắc tinh tế trên các cánh cửa gỗ ở các ngôi chùa hay sự phát
triển của các nghề thủ công mỹ nghệ,…
Tất cả đã tạo ra cho triều Trần có một nền văn hóa đa dạng mang dấu
ấn của thời đại, vừa truyền thống nhưng lại vừa hiện đại trước nền văn hóa
nước ngoài.
Nền giáo dục cũng có sự điều chỉnh lại. Vương triều Trần đã chính quy
hóa, tạo ra quy củ cho việc học hành và thi cử. Thành lập “Quốc học viện” để
cho con em quý tộc. Quan lại và nho sĩ vào học. Tại lộ, phủ, châu, chức quan
học được đặt ra. Không chỉ có những trường học của vương triều, các nho sĩ
còn lập ra trường học của các xóm làng. Thể lệ thi cử, học vị được quy định.
Năm 1247 nhà Trần đặt danh hiệu Tam khôi (ba học vị là Trạng
nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) dành cho ba người thi đỗ xuất sắc trong các kì
thi Đình, quy định cứ bảy năm mở khoa thi một lần. Và trong 175 năm, nhà
Trần đã tổ chức được 14 khoa thi (10 khoa chính và 4 khoa phụ), lấy 238
người đỗ. Bởi vậy tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo, Nho học dần dần phát
triển lấn át Phật giáo tinh thần Khổng giáo đã thấm sâu vào mội ngõ ngách
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 11 of 95.
- 11 -
Khoa Ngữ văn
Header Page 12 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
của đời sống người dân Việt Nam vì nền giáo dục học thuật kéo dài qua hàng
trăm thế hệ đã để lại những dấu ấn trong đời sống văn hóa, trong tâm thế ứng
xử của người Việt Nam. Các vua Trần cũng đặc biệt trọng đãi Nho sĩ.
Sách học cũng được quy định: Ngũ kinh, Tứ thư, Bắc sử,…Từ đó các
quan niệm về tam cương ngũ thường, truyền thống tôn sư trọng đạo được
hình thành.
Có thể thấy được rằng, dưới một nền Văn hóa - giáo dục như thế đã
thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi một nền văn học phát triển với sự xuất
hiện của các tác giả nổi tiếng từ vua cho đến các bậc quan lại, Nho sĩ.
1.2. Tư tưởng thời đại
Nếu như ở thời Lý, Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của
người dân Đại Việt thì bước sang thời Trần sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho
giáo đã lấn át Phật giáo và nhanh chóng leo lên vị trí đứng đầu. Bên cạnh đó,
Đạo giáo cũng có một vị trí đáng kể trong hệ tư tưởng người Việt.
Như vậy, trong giai đoạn này Đại Việt có ba tôn giáo cùng song song
tồn tại và được gọi là thời kì “Tam giáo đồng nguyên”, tuy nhiên sự ảnh
hưởng của Nho giáo vẫn chiếm ưu thế hơn cả.
Tư tưởng Nho học bắt nguồn từ Trung Quốc, một hệ tư tưởng chính
thống của giai cấp phong kiến. Khi được truyền bá vào Việt Nam, là một
thành tố của văn hóa Việt, Nho giáo có một ảnh hưởng rất lớn đối với diện
mạo cũng như nội dung các thành tố văn hóa khác.
Với tư cách là một học thuyết chính trị, đạo đức, Nho giáo có ảnh
hưởng sâu nặng đến tâm tư, tình cảm, tư duy và lối sống của các nhà Nho
Việt. Cũng từ đó, bằng nhiều hình thức khác nhau họ đã phả vào tư tưởng của
người dân.
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 12 of 95.
- 12 -
Khoa Ngữ văn
Header Page 13 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
1.3. Tình hình văn học
Bước vào thời kì độc lập tự chủ, văn học đời Lý đã bắt đầu có những
bước phát triển để khẳng định quốc gia dân tộc mình. Kế thừa những thành
tựu từ đời trước, đến đời Trần văn học tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn và đạt
được nhiều thành tựu rực rỡ đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong thơ ca
Trung đại nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung.
1.3.1. Lực lượng sáng tác
Đến thời Trần, tuy Phật giáo vẫn còn được đề cao nhưng dần dần cũng
nhường bước cho Nho giáo. Sự thay đổi và phát triển của giáo dục thi cử theo
Nho học đã làm xuất hiện ngày càng đông đảo lực lượng trí thức mới trong xã
hội. Họ trở thành lực lượng sáng tác chủ yếu trong dòng văn học đời Trần.
Chiếm vị trí đông đảo và đáng nói nhất chính là tầng lớp Nho sĩ, họ là
những con người có lí tưởng, có tiết tháo. Đứng thứ hai là lực lượng sáng tác
thuộc tầng lớp quý tộc, vua quan trong triều. Bên cạnh đó xuất hiện một vài
tăng lữ cũng tham gia sáng tác văn học.
Như vậy, chính sự xuất hiện của những lực lượng sáng tác này đủ để
thấy sự khác biệt so với triều đại nhà Lý. Điều đó dẫn đến sự biến đổi về diện
mạo văn học.
1.3.2. Các tác phẩm và thể loại tiêu biểu
Đây là thời kì mà thi sĩ là các vị vua, các vương hầu trong triều.
- Thơ chữ Hán:
Thái Tông ngự tập (Trần Thái Tông)
Thánh Tông thi tập (Trần Thái Tông)
Nhân Tông thi tập (Trần Nhân Tông)
Băng Hồ ngọc hác (Trần Nguyên Đán)
Lạc Đạo tập (Trần Quang Khải)
Cúc Đường di thảo (Trần Quang Triều)…
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 13 of 95.
- 13 -
Khoa Ngữ văn
Header Page 14 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
- Phú chữ Hán:
Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu)
Thiên Hưng trấn phú (Nguyễn Bá Thông)…
- Phú chữ Nôm:
Cư Trần lạc đạo phú (Trần Nhân Tông)
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca (Trần Nhân Tông)
Hoa Yên tự phú (Huyền Quang)
Giáo tử phú (tương truyền của Mạc Đĩnh Chi)
Với sức sáng tạo dồi dào, các thi sĩ thời Trần đã tạo ra một khối lượng
tác phẩm đồ sộ với nhiều thể loại khác nhau. Điều này đã khẳng định được sự
phát triển rực rỡ của thơ ca thời Trần.
1.3.3. Nội dung chính
Bước vào thời nhà Trần, khi tâm lí xã hội bắt đầu thay đổi thì cũng kéo
theo sự chuyển biến của thơ ca. Mặc dù vẫn còn những sáng tác của các nhà
sư song phần lớn thi sĩ là tầng lớp vua chúa, quan lại, và những nhà Nho. Lý
tưởng của con người không chỉ hướng tới Thiền môn mà bắt đầu hướng tới
những lí tưởng của Nho gia.
Thơ ca thời Trần mang một âm hưởng riêng, một phong cách riêng. Đó
là sự phóng khoáng, bay bổng và siêu thoát, sự hoành tráng và rộng mở. Đây
là biểu hiện của tâm hồn con người hào hứng phấn khởi trong sự khẳng định
dân tộc; khẳng định những chiến công to lớn trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước; thể hiện tinh thần quật cường; ca ngợi công đức của những
vị vua Trần, những con người kì vĩ, phi thường khát khao lập công danh để
phò vua giúp nước.
Đó còn là sự khẳng định một nền văn hiến và văn hóa Đại Việt; một đất
nước có truyền thống anh hùng; có phong tục tập quán lâu đời với bao nét đẹp
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 14 of 95.
- 14 -
Khoa Ngữ văn
Header Page 15 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
được tôn vinh; một đất nước có thiên nhiên giàu đẹp mà thanh bình giản dị.
Và dân tộc đó sẽ trường tồn mãi mãi.
Mặc dù cuối thời Trần, văn học xuất hiện những con người cá nhân
trước sự suy vi của triều đại. Nhưng tựu chung lại, nội dung chính cũng như
cảm hứng thơ vẫn thể hiện tình cảm yêu nước sâu sắc, vẫn mang sức mạnh
của “Hào khí Đông A” trước thời đại.
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 15 of 95.
- 15 -
Khoa Ngữ văn
Header Page 16 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 2
TINH THẦN KHẲNG ĐỊNH QUỐC GIA DÂN TỘC
TRONG THƠ CA THỜI TRẦN
2.1. Khẳng định quốc gia dân tộc trên phương diện nội dung cảm hứng
2.1.1. Khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc
Trước đời Trần, vào năm 1076 khi quân Tống một lần nữa kéo sang
cướp nước ta. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trên sông Như Nguyệt. Để cổ vũ,
khích lệ tinh thần quyết chiến thắng kẻ thù của các tướng sĩ, tương truyền bài
thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt ra đời:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định mệnh ở sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Bài thơ là lời tuyên ngôn khẳng định sự tồn tại của nước ta với tính
cách là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, cương giới nước Nam rõ ràng đã
được ghi trong sách trời. Mệnh trời là như thế. Ở đó còn là lòng tin sắt đá vào
sự thắng lợi, vào ngày mai của dân tộc và đất nước.
Đến thời Trần, ý thức về dân tộc của các vua quan, nhân dân Đại Việt
ngày càng lên cao để phát huy truyền thống của hàng nghìn năm lịch sử trước
kia. Đồng thời tạo lập thêm những truyền thống mới để ngày càng lớn mạnh
hơn. Điều này đã được minh chứng cụ thể bằng ba cuộc chiến thắng lừng lẫy,
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 16 of 95.
- 16 -
Khoa Ngữ văn
Header Page 17 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
hào hùng của quân dân nhà Trần khi phá tan ý đồ xâm lược của quân đội
Nguyên Mông để bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc.
Nhà Tống kế thừa được của các triều đại phong kiến trước đó, từ Hán
đến Đường quan điểm kì thị Hoa - Di rất phản động. Trời không có hai mặt
trời, thiên hạ không có hai hoàng đế. Các dân tộc khác ở xa ngoài đất Hoa Hạ
(Trung Quốc) đều là man di, tuy có thể có thủ lĩnh nhưng các thủ lĩnh ấy chỉ
là phiên thuộc của Tống đế. Bởi vậy, trước đó Lý Thường Kiệt nêu lên hai
chữ “Nam đế” để gọi Vua nhà Lý. Và nếu Bắc quốc có Bắc đế thì Nam quốc
có Nam đế.
Khẳng định lại một lần nữa, vua Trần Minh Tông cũng tiếp nối quan
điểm ấy, bác bỏ lối phân biệt Hoa - Di, khẳng định Đại Việt là quốc gia văn
minh, độc lập:
Tứ minh tương tiếp giới,
Chỉ cách mã ngưu phong.
Ngôn ngữ vô đa biệt,
Y quan bất khả đồng.
Nguyệt sinh giao thất lãnh,
Nhật lạc ngạc đàm không.
Chẳng hạn Hoa Di ngoại,
Tề đăng thọ vực chung.
Dịch nghĩa:
Châu Tứ Minh tiếp giáp biên giới nước ta,
Cách biệt nhau chẳng đáng là bao.
Tiếng nói không khác nhau nhiều lắm,
Áo mũ thì không giống nhau.
Mặt trăng mọc khiến cho nhà giao long lạnh lẽo,
Mặt trời lặn khiến cho đầm cá sấu rỗng không.
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 17 of 95.
- 17 -
Khoa Ngữ văn
Header Page 18 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
Đâu có sự ngăn cách giữa Hoa và Di,
Đều cùng nhau bước lên cõi thọ.
(Việt giới)
Bài thơ như một lời khẳng định, rõ ràng không bao giờ có sự ngăn cách
giữa Hoa và Di. Và hai đất nước đều có độc lập chủ quyền tách biệt nhau.
Bên cạnh đó vua Trần Minh Tông cũng muốn nêu cao tinh thần đoàn kết cùng
giúp đỡ nhau giữa hai dân tộc khi cả hai đều có nhiều điểm tương đồng. Lời
thơ khéo léo, ý tứ nhưng lại đanh thép, cứng rắn để thể hiện tinh thần dân tộc
sâu sắc.
Một chân lí lịch sử không bao giờ thay đổi là dân tộc ta đã trưởng
thành, nước Đại Việt là một nước độc lập, có chủ quyền lãnh thổ, có biên giới
rõ ràng, tuy gần gũi với các nước khác, có nhiều điểm tương đồng nhưng điều
đó không có nghĩa Đại Việt là nước phụ thuộc.
Như vậy, từ đời Lý đến đời Trần, và chắc chắn cả những thế hệ sau này
nối tiếp sẽ luôn tự hào về đất nước Đại Việt độc lập, một quốc gia hùng mạnh
đã vượt qua biết bao những khó khăn để có một tương lai trường tồn.
2.1.2. Khẳng định văn hiến, văn hóa dân tộc
Từ đời Lý, người Việt đã luôn luôn tự hào về một đất nước “văn hiến
chi bang”, để rồi hơn 400 năm sau, vào thế kỉ XV, khi nhà Lê khởi nghĩa
giành thắng lợi lớn thì Nguyễn Trãi một lần nữa đã khẳng định lại, và thậm
chí còn khẳng định cao hơn nữa: “Duy ngã Đại Việt chi quốc thực vi văn hiến
chi bang” (Duy nước Đại Việt ta thực sự là một nước văn hiến).
Vậy “văn hiến” là truyền thống văn hóa tốt đẹp có từ ngàn đời xưa và
ngày càng phát triển mạnh hơn trong tương lai. “Văn hiến là sách vở và nhân
vật tốt trong một đời” [1, 76 ]. Nói cách khác, văn là văn hóa, còn hiến là
hiền tài.
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 18 of 95.
- 18 -
Khoa Ngữ văn
Header Page 19 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
Như vậy ai cũng có thể hiểu “văn hiến” thiên về những giá trị tinh thần
do những người có tài có đức chuyển tải, thể hiện tính dân tộc, tính lịch sử rõ
rệt. Từ đó có thể thấy khái niệm “văn hiến” sẽ hẹp hơn khái niệm “văn hóa”.
Khẳng định quốc gia Đại Việt là một dân tộc có nền văn hiến văn hóa
ta có thể tìm thấy điều này biểu hiện ở những khía cạnh cụ thể sau:
2.1.2.1. Khẳng định con người Đại Việt tài năng đức độ
Trước hết thơ ca thời Trần đã đi sâu vào khẳng định ngợi ca tài kinh
bang tế thế của con người Đại Việt.
Thơ ca thời Trần đã tốn không ít giấy mực để ngợi ca công lao to lớn
của các vị vua, các bậc hiền tài là những trụ cột của triều đình. Họ tài năng
trên tất cả các lĩnh vực. Có ai đếm được từ đời Trần Thái Tông đến đời Trần
Minh Tông đã xuất hiện bao nhiêu những vị tướng tài bên các vị vua sáng và
có ai đếm được họ đã lập bao nhiêu công lao cho sự hưng thịnh của đất nước?
Chỉ có thể khẳng định được rằng, những con người ấy, với tài năng của mình
họ đã cùng nhau gây dựng nên một dân tộc hùng mạnh và trường tồn.
Trước hết, để có một quốc gia vững bền và hùng mạnh thì hơn bao giờ
hết bộ máy chính quyền từ Trung ương đến địa phương phải ổn định và thống
nhất. Đất nước muốn “quốc thái dân an” thì phải có những đường lối chính
trị đúng đắn và sáng suốt.
Dưới sự lãnh đạo của mình lúc đương thời, nhà Trần đã thể hiện sự
đúng đắn, tầm nhìn xa trông rộng trước thời cuộc, đặc biệt trong những lúc
đất nước nguy nan, chiến tranh kéo dài khi áp dụng đường lối chính sách
“khoan sức cho dân” và tìm ra vai trò của dân trong cuộc chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc:
Ngọc Hoa dạ chiếu tuyệt quyền kì,
Dục bái khiên lai cận xích trì.
Nhược sử ái nhân như mã,
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 19 of 95.
- 19 -
Khoa Ngữ văn
Header Page 20 of 95.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
Thương sinh an đắc hữu sang đi.
Dịch nghĩa:
Con ngựa Ngọc Hoa chiếu dạ chạy giỏi tuyệt vời,
Tắm xong dắt đến gần thềm son.
Nếu vua yêu người cũng như yêu ngựa,
Thì dân đen đâu đến nỗi cơ cực.
(Đề Minh Hoàng dục mã đồ - Chu Đường Anh).
Sự chê trách vua Đường Minh Hoàng - Trung Quốc trong việc coi
trọng con tuấn mã Ngọc Hoa hơn người đã dẫn đến thất bại nặng nề. Đó là
một bài học kinh nghiệm như một tiếng chuông cảnh tỉnh cho việc xác định
lại đường lối chính sách của Đại Việt, tìm ra sức mạnh của dân là điều rất
quan trọng. Nếu không biết coi trọng và sử dụng sức mạnh ấy một cách hợp lí
thì tất yếu sẽ dẫn đến thất bại.
Trước đời Trần, Trần Quốc Tuấn trước lúc lâm chung, lời trối trăng của
một hiền tài đất nước cũng là “làm thế nào thu hút được binh lính như cha
con một nhà” thì mới có thể chiến thắng ngoại xâm được và lại phải “khoan
sức cho dân để làm cái kế sâu gốc, kế bền rễ. Đó là thượng sách giữ nước
không còn gì hơn”[11, 379].
Lòng yêu nước của các vị vua và tướng ở đây gắn liền với sự nhận thức
sâu sắc về vai trò của nhân dân để từ đó nhận ra cần phải làm thế nào để có
một đất nước Đại Việt vững mạnh và yếu tố con người được đặt lên hàng đầu.
Đây là yếu tố mà thơ ca đời Trần đặc biệt nhấn mạnh.
Bên cạnh lĩnh vực chính trị, tài kinh bang tế thế còn thể hiện trên lĩnh
vực quân sự, tài điều binh khiển tướng của các vị vua, vị tướng để làm nên
những chiến thắng vang dội, lừng lẫy.
Trải qua sự hưng thịnh, tồn vong từ hàng nghìn năm trước, lịch sử đã
chứng minh rõ ràng về những con người hào kiệt của đất Việt. Theo dòng lịch
Nguyễn Thị Ly
Footer Page 20 of 95.
- 20 -
Khoa Ngữ văn
- Xem thêm -