1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tính nghệ thuật là hướng nghiên cứu các loại hình nghệ thuật nói
chung và văn chương nói riêng xuất hiện ở Nga và ở Việt Nam mới từ nửa thế
kỷ trước đếnnay. Tính nghệ thuật đặc trưng bởi sự thuyết phục, chiều sâu
nhận thức, sức hấp dẫn lôi cuốn. Tiêu chuẩn cuối cùng của nó là sự thống
nhất hoàn mĩ của nội dung và hình thức nghệ thuật, là sức gây ấn tượng mang
tính tư tưởng của hình tượng đời sống, phản ánh được hiện thực nhiều mặt và
vận động biến hóa không ngừng. Khi nghiên cứu cấu trúc tính nghệ thuật,
nhiều nhà lý luận thường xuyên nhắc đến tính sinh động, xem đó như là dấu
hiệu tổng hợp và đặc trưng nhất thuộc chất lượng nghệ thuật tác phẩm.“ Sự
nghiên cứu tính sinh động đem lại khả năng hiểu sâu hơn bản chất của sự tác
động qua lại của tính tư tưởng, tính chân thật, tính tạo hình, tính biểu hiện,
tính hấp dẫn và những dấu hiệu khác của tác phẩm, do đó khai thác đầy đủ
chínhbản chất của tính nghệ thuật [25,8]. Theo đó, ta có thể xem tính sinh
động là phẩm chất tiêu biểu của văn nghệ với tư cách là một hình thái ý thức
xã hội thẩm mỹ.
1.2. Với tính chất như thế, chúng tôi nhận thấy sự nghiên cứu tính nghệ
thuật nhất là tính sinh động ở một nhà văn hiện thực xuất sắc như Nam Cao là
việc làm vô cùng cần thiết. Tuy sự nghiệp sáng tác của Nam Cao không dài,
chỉ gói gọn trong 15 năm (1936 - 1951) nhưng “giá trị văn chương của nhà
văn luôn tỏa sáng và không vơi cạn” [69,11]. Xuất phát từ quan điểm tính
sinh động của sự miêu tả, vận dụng vào tìm hiểu những truyện ngắn tiêu biểu
của Nam Cao chắc hẳn sẽ giúp người tiếp nhận khám phá được sự độc đáo
trong cấu thành sự sống nghệ thuật từ chất liệu, trong sự nhìn nhận khai thác
tạo nên giá trị nghệ thuật riêng và do đó tạo nên sức hấp dẫn nghệ thuật riêng.
2
Trên cơ sở ấy, ta có thể hướng tới “nhận thức mối liên hệ chặt chẽ của tính
sinh động với sự khám phá, sự đánh giá, sự giải thích và sự miêu tả hiện thực
trong tác phẩm” [25, 8].Từ đó, khẳng định vai trò tích cực của tính sinh động
đặt trong cấu trúc tính nghệ thuật. Như vậy, việc thực hiện đề tài này, theo
chúng tôi có ý nghĩa lý luận, thực tiễn quan trọng.
1.3. Hơn nữa, Nam Cao là một trong các tác gia quan trọng trong
chương trình văn học ở các cấp đại học, cao đẳng, nhiều tác phẩm của Nam
Cao được dạy- học trong nhà trường phổ thông. Việc nắm vững bản chất khái
niệm tính sinh động, ứng dụng vào phân tích tác phẩm một cách khoa học sẽ
góp phần giúp người giáo viên khai thác sâu hơn mặt chất lượng nghệ thuật
của văn bản ngôn từ qua đó gợi lên những cảm xúc mới mẻ cho người học.
1.4. Trong quá trình tìm hiểu, tổng hợp tài liệu, chúng tôi nhận thấy kết
hợp từ tính sinh động đã xuất hiện trong nhận xét của những nhà nghiên cứu
phê bình nổi tiếng thế giới như Aristoteles, G.E Lessing, F. Hegel, F.
Engels, M.Gorki [xem 25, 7] và được một số nhà nghiên cứu người Nga đề
cập đến khi bàn về cấu trúc tính nghệ thuật như N.A Dobroliubov, L.I.
Timopheev, N.K Gei, P.Nicolaev [xem 25, 7]. Ở một số công trình của các
tác giả kể trên, kết hợp từ “tính sinh động của hành động”, “tính sinh động
của sự miêu tả”...được sử dụng và tính sinh động được thừa nhận như là một
trong những dấu hiệu quan trọng nhất thuộc tính nghệ thuật của tác phẩm văn
chương nhưng lại chưa có một công trình nào luận giải thực xác đáng, rõ ràng
về riêng vấn đề này.
Ở Việt Nam,trong một số bài viết của các nhà nghiên cứu như Đặng
Thai Mai, Trường Chinh, Thành Duy, Hà Minh Đức, Nam Mộc, Nguyễn
Cương, Nguyễn Xuân Namtuy có nhắc đến kết hợp từ tính sinh động nhưng
nhìn chung vẫn còn mờ nhạt, thậm chí chung chung, chưa thống nhất. Trong
bối cảnh ấy, chuyên luận “Tác phẩm văn chương, một sinh thể nghệ thuật”
3
[25] của PGS.TS Phùng Minh Hiến có thể coi là một bước ngoặt trong việc
phân tích tính nghệ thuật của tác phẩm từ quan điểm tính sinh động của sự
miêu tả. Trong chuyên luận này, vấn đề tính sinh độngtrong văn chương đã
giành được sự quan tâm xác đáng.Nhà nghiên cứu không những thuyết minh
nguồn gốc vấn đề, lý giải bản chất khái niệm tính sinh động của sự miêu tả
trên các phương diện cụ thể mà còn xác định những dấu hiệu của tính sinh
động trong loại tác phẩm tự sự.Theo hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng
này, quan điểm về tính sinh động thực sự đã trở thành một lý thuyết có giá trị
khoa học - thực tiễn, mang đến chiều sâu mới cho sự thụ cảm tác phẩm văn
chương.
1.5. Về Nam Cao, đây là nhà văn hiện thực xuất sắc giai đoạn 1930 1945, là một tên tuổi lớn trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Đến với làng
văn từ năm 1936, cái tên Nam Cao thật khiêm nhường bên cạnh những tên
tuổi như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng…
Trải qua nhiều năm, sáng tác của Nam Cao dần được giới nghiên cứu phê
bình văn học quan tâm. Đến nửa cuối thế kỉ XX, ông trở thành “một trong
những nhà văn lớn của thế kỷ được nghiên cứu nhiều nhất, liên tục nhất”. Cho
đến nay, đã có hơn hai trăm công trình, bài báo nghiên cứu sáng tác của Nam
Cao trước và sau Cách mạng tháng Tám, tập trung trên nhiều phương diện.
Riêng về nhân vật trí thức tiểu tư sản trong truyện ngắn Nam Cao cũng đã có
nhiều ý kiến. Có thể khái quát những nét chung trong các bài nghiên cứu ấy
trên hai khía cạnh cơ bản.
1.5.1. Làm rõ nội dung xã hội, ý nghĩa phản ánh hiện thực, giá trị nhân
đạo của những tác phẩm Nam Cao viết về đề tài trí thức tiểu tư sản.
Ngay từ đầu những năm 1960, trong bài Đọc truyện ngắn của NamCao,
tác giả Nguyên Hồng có đề cập đến sức chứa và sức mở của thế giới nhân vật
truyện Nam Cao như những điển hình sống động phản ánh đời sống con
4
người, gắn bó với tư tưởng nghệ thuật tác giả. “Nguyên Hồng có nói tới hai
loại nhân vật của truyện Nam Cao, trong đó có nhân vật trí thức tiểu tư sản
như những thành tựu tạo nên sức sống bền lâu cho tác phẩm của nhà văn hiện
thực nổi tiếng này” [69, 77].
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Đoàn trong bài viết Cách mạng
tháng Tám và chặng đường phát triển mới của Nam Cao, ông cho rằng: “Nam
Cao là cây bút xuất sắc viết về tiểu tư sản trí thức, đã miêu tả thành công
những người tiểu tư sản trí thức có hoài bão nhưng bị dìm xuống bùn đen của
cuộc sống nhỏ nhen, đê tiện” [69, 69].
Tìm hiểu Nam Cao và khát vọng về một cuộc sống lương thiện, xứng
đáng, GS Nguyễn Văn Hạnh cho rằng: “Nam Cao dành nhiều suy nghĩ, tình
cảm cho những trí thức nghèo. Qua họ, Nam Cao đã đề cập tới một tấn bi kịch
của con người và xã hội mà càng từng trải, càng có ý thức về nhân phẩm, về
cống hiến, về ý nghĩa xây dựng cuộc sống, người ta càng thấy ghê rợn, đó là
bi kịch sống mòn. Giáo sư cũng đề cập đến cách Nam Cao phân tích tâm lý cá
nhân trong đó có sự khác nhau giữa miêu tả tâm lý người nông dân và miêu tả
tâm lý người trí thức” [69, 130].
Trong bài viết Bi kịch tự ý thức – nét độc đáo trong cảm hứng nhân
đạocủa Nam Cao, tác giả Đinh Trí Dũng khẳng định: “Một trong những đặc
điểm độc đáo của bút pháp hiện thực đồng thời cũng là cơ sở cho cảm hứng
nhân đạo của Nam Cao là việc đi sâu tìm hiểu thế giới bên trong đầy phong
phú, phức tạp của con người. Trong vũng lầy của xã hội cũ, các nhân vật Nam
Cao không có gì khác hơn là vũ khí tính thần – sự tự ý thức – để chống lại sự
tha hóa, để bảo vệ lấy bản chất nhân đạo con người. Đặc điểm này thể hiện rõ
nhất trong các tác phẩm viết về đề tài trí thức tiểu tư sản” [69,152].
Người có quá trình nghiên cứu công phu, tâm huyết về nhà văn Nam
Cao là GS Hà Minh Đức. Giáo sư đã đề xuất khái niệm “nhân vật trí thức kiểu
5
Nam Cao’’ và đặc biệt quan tâm đến tính chân thực của hình tượng này.
“Nhân vật trí thức của Nam Cao được phản ánh tập trung một số nét điển hình
và chân thật về tâm lý và sinh hoạt của các tầng lớp thành thị trong thời kỳ đại
chiến thế giới thứ hai. Đó là thời kỳ bản thân họ đang phải phấn đấu tìm
đường thoát khỏi tư tưởng bế tắc của đời sống để vươn tới lý tưởng tốt đẹp
hơn” [69, 85].
GS.TS Trần Đăng Xuyền trong công trình nghiên cứu Chủ nghĩa hiện
thực Nam Cao cho rằng: “Đề tài người trí thức tiểu tư sản khá quen thuộc với
văn học Việt Nam 1930 – 1945. Nhưng đến Nam Cao, với ngòi bút hiện thực
tỉnh táo, nghiêm ngặt, hình ảnh những nhân vật trí thức tiểu tư sản mới hiện
lên cụ thể và sinh động qua những tấn bi kịch và bi hài kịch cùng với những
cuộc đấu tranh tư tưởng đầy căng thẳng nhưng bế tắc” [78,152].
Ngoài những ý kiến đã điểm trên, còn nhiều người nghiên cứu khác cho
rằng nhân vật trí thức tiểu tư sản là một trong hai nguồn đề tài lớn trong sáng
tác của Nam Cao. Nhiều ý kiến đặc biệt nhấn mạnh sức nặng biểu hiện giá trj
hiện thực của mảng đề tài này.Có thể nói, đây là hướng nghiên cứu chú ý khai
thác nội dung xã hội của mảng đề tài trí thức tiểu tư sản trong truyện ngắn
Nam Cao.
1.5.2. Xác định đặc sắc phong cách Nam Cao qua truyện ngắn nói
chung và truyện về người trí thức tiểu tư sản nói riêng
Ngay từ những năm đầu của thập kỷ 80, GS Nguyễn Đăng Mạnh trong
bài Nhớ Nam Cao và những bài học của ông đã nhận định: sức hấp dẫn của
truyện ngắn Nam Cao còn ở những trang phân tích tâm lý sắc sảo của ông
[69, 92].
Sau này, khi tìm hiểu Phong cách truyện ngắn Nam Cao, tác giả Vũ
Tuấn Anh cho rằng: Nam Cao được coi là đại diện cuối của văn học hiện thực
phê phán và chính ông là người đặt những mảng màu hoàn chỉnh bức tranh
6
văn học hiện thực cả về mặt phản ánh xã hội cũng như khả năng biểu hiện
nghệ thuật. “Ông góp vào một phong cách riêng, một chất giọng riêng khó có
thể xác định bằng một vài định ngữ gần nghĩa. Thực sự có thể nói về một loại
hình nhân vật kiểu Nam Cao, kiểu cấu trúc Nam Cao, thi pháp Nam Cao,
giọng văn Nam Cao” [69,363].
Cùng quan điểm này, trong bài Đôi lứa xứng đôi – tập truyện sớm
xácđịnh một phong cách, GS Hà Minh Đức đã khẳng định: “Khi thể hiện hai
chủ đề cơ bản trong truyện ngắn, Nam Cao đã bộc lộ và định hình một phong
cách sáng tạo độc đáo, đã xây dựng được những nhân vật sinh động, diễn tả
ấn tượng những tư tưởng nghệ thuật” [69,254].
Ở bài viết Nam Cao và nghệ thuật sáng tạo tâm lý, nhà nghiên cứu
cũng cho rằng: Với phong cách độc đáo, Nam Cao đã thể hiện một nghệ thuật
miêu tả tâm lý già dặn. “Với các nhân vật trí thức tiểu tư sản, Nam Cao đã
biểu hiện được nhiều trạng thái tâm lý được xem như cái chất tâm lý tiêu biểu
của người tiểu tư sản nghèo” [69, 407].
Trong một số bài nghiên cứu khác như Phong cách truyện ngắn Nam
Cao trước Cách Mạng của Bùi Công Thuấn và Một đặc điểm của thi pháp
truyện Nam Cao của Phạm Quang Long, các tác giả cũng khẳng định: truyện
Nam Cao là loại truyện tâm lý, chất triết lý ẩn trong các tác phẩm là một biểu
hiện đặc trưng của phong cách Nam Cao. Những trang viết về người trí thức
tiểu tư sản của Nam Cao thực sự hấp dẫn, lôi cuốn, giàu sức khám phá, sáng
tạo một cách độc đáo.” Chính bằng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, đặc
biệt là những sáng tạo trong miêu tả độc thoại nội tâm, Nam Cao đã trở thành
bậc thầy của truyện ngắn – loại truyện miêu tả tâm lý trong chiều sâu của sự
vận động và phát triển của nhân vật” [69,381].
Tóm lại, từ việc tìm hiểu các bài viết, công trình nghiên cứu có liên
quan đến nhà văn Nam Cao, có thể thấy các tác giả đã khai thác vấn đề nhân
7
vật trí thức tiểu tư sản trong truyện ngắn Nam Cao từ nhiều phía, đã nói đến
loại hình nhân vật kiểu Nam Cao, đã gắn loại hình nhân vật với phong cách
tác giả. Nhưng góc độ nhìn nhận, đánh giá còn thiên về nội dung xã hội, ít
thành tựu nghiên cứu loại nhân vật này từ góc độ tính sinh động áp dụng vào
đặc điểm thể loại. Đó là những tiền đề phong phú để từ đó chúng tôi có thể
tiếp tục nhận thức sâu sắc hơn về phương diện tính sinh động của sự miêu tả
nhân vật trí thức tiểu tư sản trong truyện ngắn Nam Cao (so sánh với đặc tính
tương ứng trong truyện ngắn viết về người nông dân của ông).
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Khóa luận nhằm mục đích xác lập và củng cố vững chắc thêm
hướng nghiên cứu văn chương từ góc độ tính nghệ thuật là hướng nghiên cứu
có nhiều triển vọng, có khả năng đi sâu khám phá bản chất và các quy luật của
nghệ thuật ngôn từ.
2.2. Khẳng định tính sinh động là dấu hiệu quan trọng nhất và là yếu tố
tổng hợp mang tính đặc trưng nhất của chất lượng, nghệ thuật tác phẩm.
2.3. Chỉ ra những dấu hiệu cụ thể biểu hiện tính sinh động của sự miêu
tả nhân vật trí thức tiểu tư sản trong truyện ngắn Nam Cao.
2.4. Qua sự đối sánh với đặc tính tương ứng trong truyện ngắn viết về
người nông dân, luận văn muốn chỉ ra những nét độc đáo về tính sinh động
của sự miêu tả nhân vật trí thức tiểu tư sản trong truyện ngắn Nam Cao.
2.5. Trên cơ sở đó, luận văn tạo thêm cơ sở vững chắc trong việc đưa ra
những nhận định xác đáng về tài năng, vị trí và những đóng góp quan trọng
của Nam Cao đối với văn học hiện thực 1930 - 1945 nói riêng và văn học Việt
Nam hiện đại nói chung.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Xem xét bản chất khái niệm tính sinh động đặt trong cấu trúc tính
nghệ thuật để thấy được tính sinh động là một trong những yếu tố quan trọng
nhất biểu hiện mặt chất lượng của văn chương nghệ thuật.
8
3.2. Xác lập quan niệm đúng đắn về tính sinh động của sự miêu tả dựa
trên sự nghiên cứu, tìm hiểu những tư liệu có liên quan đến vấn đề này.
3.3. Xác lập hệ thống những dấu hiệu cụ thể của tính sinh động trong
tác phẩm văn chương nói chung và tác phẩm tự sự nói riêng.
3.4. Qua sự tìm hiểu và phân tích cụ thể một số truyện ngắn tiêu biểu
của Nam Cao, thấy được những biểu hiện tính sinh động trong các sáng tác
của ông.
3.5. Khảo sát, phân tích và so sánh truyện ngắn viết về đề tài trí thức
tiểu tư sản với truyện ngắn viết về người nông dân để chỉ ra nét đặc sắc của
tính sinh động của sự miêu tả trong truyện ngắn Nam Cao.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những dấu hiệu biểu hiện tính
sinh động của sự miêu tả nhân vật trí thức tiểu tư sản trong truyện ngắn Nam
Cao.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Những tư liệu và công trình nghiên cứu có liên quan đến tính
nghệ thuật và đặc biệt là tính sinh động của sự miêu tả.
4.2.2. Những tài liệu và công trình nghiên cứu có liên quan đến loại tác
phẩn tự sự.
4.2.3. Những bài viết và công trình nghiên cứu về Nam Cao và các
truyện ngắn của ông.
4.2.4. Những truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao được in trong các
tuyển tập sau:
- Nam Cao (1977), tập I, II, Nxb Văn học, Hà Nội.
- Tuyển tập Nam Cao (1987), tập I, II, Nxb Văn học, Hà Nội.
- Tuyển tập Nam Cao (2005), Nxb Văn học, Hà Nội.
9
4.2.5. Những truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao viết về đề tài trí thức
tiểu tư sản được tác giả luận văn lựa chọn là:
Cái chết của con mực
Nhỏ nhen
Trăng sáng
Mua nhà
Một chuyện Xú - vơ - nia
Lão Hạc
Đời thừa
Cười
Quên điều độ
Nước mắt
Xem bói
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phát sinh lịch sử
5.2. Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệ thống
5.3. Phương pháp so sánh hệ thống
6. Dự kiến đóng góp mới
6.1. Khẳng định bản chất khái niệm tính sinh động và tính khả thi của
việc nghiên cứu tác phẩm văn chương từ góc độ này.
6.2. Chỉ ra những yếu tố thể hiện tính sinh động của sự miêu tả trong
truyện ngắn Nam Cao.
6.3. Phát hiện và phân tích những nét độc đáo của tính sinh động trong
miêu tả nhân vật trí thức tiểu tư sản trong truyện ngắn Nam Cao trên cơ sở đối
sánh với truyện ngắn viết về người nông dân.
6.4. Góp phần làm sáng tỏ tài năng và phong cách nghệ thuật Nam Cao
cũng như những cống hiến to lớn của ông cho văn học nước nhà nói chung và
cho sự phát triển của thể loại truyện ngắn nói riêng.
10
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH SINH ĐỘNG
1.1. Vấn đề thuật ngữ
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do Nxb Văn hoá thông tin ấn hành năm
1999, tác giả Nguyễn Văn Đạm giải thích: sinh động là thể hiện được sức
sống và có khả năng truyền cảm. Với cách hiểu như vậy, từ sinh động chủ yếu
gắn với tính chất của sự vật, hiện tượng. Sự vật, hiện tượng được xem là sinh
động khi sự vật, hiện tượng ấy biểu thị được sức sống nội tại, mang đến cảm
nhận giống như thật và sống động. Chẳng hạn, trong đời sống, người ta vẫn
nói: một phong cảnh sinh động, một bức tranh sinh động, một điệu múa sinh
động...
Thuật ngữ tính sinh động trong văn chương nghệ thuật cũng bắt nguồn
từ nghĩa gốc đó. Ban đầu, từ sinh động được dùng phổ biến đối với các tác
phẩm hội họa có lẽ bởi so với tác phẩm văn chương, tính sinh động của tác
phẩm hội hoạ dễ nhận ra hơn. Sau này, tính sinh động đã trở thành một thuật
ngữ chuyên ngành, áp dụng cả với tác phẩm văn chương. Trong văn chương,
tính sinh động được hiểu là bình diện chất lượng nghệ thuật tác phẩm, là
thước đo giá trị của những tác phẩm ưu tú.
1.2. Kết hợp từ “tính sinh động” trong nhận xét của những nhà nghiên
cứu phê bình nổi tiếng
1.2.1. Ở nước ngoài
1.2.1.1. Nhận xét của Aristôt
Trong tác phẩm Nghệ thuật thi ca- cuốn lý luận văn học đầu tiên của
Châu Âu ra đời vào thế kỷ III trước Công nguyên, Aristôt đã nói đến tính sinh
động như một tiêu chí xác định chất lượng tác phẩm thi ca. Ông viết: “Nếu
11
nhà thơ không biết rằng con hươu cái không có sừng thì đó là (một sai lầm)
không đáng kể bằng việc nhà thơ không miêu tả nó một cách sinh động”
[1,120]. Nghĩa là, với Aristôt, nhà thơ là người “mô phỏng” nhưng nếu chỉ
dừng lại ở mô phỏng đối tượng như thực tế vốn có thì chưa đủ để tạo nên sức
hấp dẫn cho tác phẩm. Nghệ sĩ có thể không trung thành với hiện thực nhưng
phải biết cách miêu tả đối tượng một cách sinh động, làm cho đối tượng tác
động mạnh mẽ đến các giác quan và cảm xúc thẩm mĩ của người tiếp nhận.
Tuy không luận giải gì thêm về vấn đề này nhưng ý kiến của Aristôt có thể
coi như viên gạch đặt nền móng đầu tiên cho một hướng tiếp cận nghệ thuật
mới cần khám phá.
1.2.1.2. Nhận xét của G.E. Lessing
Bước sang thế kỷ XVIII, Lessing- đại biểu xuất sắc nhất của phong trào
Ánh sáng Đức cũng dùng từ sinh động để chỉ chất lượng nghệ thuật đặc sắc
của tác phẩm văn chương. Theo Lessing, văn chương là loại hình nghệ thuật
ngôn từ có khả năng đi sâu miêu tả, thể hiện đời sống sinh động và gợi cảm
hơn cả. Lessing khẳng định: “Cái đẹp hoà điệu trong thi ca đều tràn ngập sức
sống và sự biến đổi rất linh hoạt” [Dẫn theo 25, tr.19]. Quan niệm này trái với
quan niệm của Secnưsepxki, coi tính sinh động của tác phẩm văn chương
“thua kém xa tác phẩm hội hoạ” [Dẫn theo 25, tr.19].
1.2.1.3. Nhận xét của F. Hêghen
Cùng thời với Lessing, Hêghen - nhà triết học cổ điển Đức khi xây
dựng cơ sở triết học cho hệ thống các nghệ thuật trong công trình Những bài
giảng mĩ học đồ sộ đã rất nhiều lần nhắc đến kết hợp từ tính sinh động. Tính
sinh động, theo quan niệm của Hêghen gắn liền với tính cách nhân vật. Bàn
về tính cách nhân vật, Hêghen chú ý nhiều đến các nhân vật trong anh hùng
ca của Hôme.Ông cho rằng: “Mỗi anh hùng ca của Hômerơ làm thành một
toàn thể sinh động những đặc tính và những nét của tính cách [18,253]. Mỗi
12
nhân vật ấy là “cả một thế giới độc lập, toàn vẹn, một con người sinh động
toàn vẹn chứ không phải là một thể trừu tượng có tính chất phúng dụ một nét
duy nhất của tính cách” [18,253]. Hêghen cũng tỏ ra rất sắc sảo khi chỉ ra
rằng các nhân vật trong anh hùng ca của Hômerơ gây được ấn tượng sâu sắc
bởi lẽ đó là những nhân vật mang sắc thái thẩm mỹ đa dạng mà ông gọi đó là
tính đa diện và khẳng đinh: “Chỉ có một tính đa diện như vậy mới cấp được
cho tính cách một hứng thú sinh động” [18,253]. Qua đó, có thể thấy rằng
Hêghen rất chú trọng đến tài năng xây dựng những nhân vật có tính cách
trong tác phẩm, quan trọng hơn, tính cách những nhân vật ấy cần phải được
miêu tả một cách sinh động, vẹn toàn “chứ không phải là một sự tập hợp ngẫu
nhiên những phẩm chất tản mạn, hời hợt, chỉ đơn thuần đa dạng như chúng ta
vẫn thấy ở trẻ con” [18,253]. Ý kiến đó của Hêghen cũng có thể coi như một
nguyên tắc sáng tạo của nhà văn: nhà văn phải sống hết mình, giành trọn tài
năng và tâm huyết để tạo ra tính sinh động đúng nghĩa cho mỗi tính cách nhân
vật.
1.2.1.4 .Nhận xét của F.Engels
Tiếp thu những tiền đề quan trọng mà Lessing và Hêghen xây dựng ở
thế kỉ XVIII, ở thế kỉ XIX, F.Engels tiếp tục đưa ra những lý giải nghệ thuật
quan trọng về tính sinh động. Trong một bức thư gửi Latxan, Engels tỏ rõ
niềm ngưỡng mộ với thiên tài kịch W.Sêchxpia trong đó ông đặc biệt chú ý và
đề cao hình thức nghệ thuật kịch sinh động của kịch gia tài năng này.
Engels cảm nhận sức hấp dẫn ấy từ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bề
sâu về mặt tư tưởng, nội dung lịch sử đã được nhận thức với “tính sinh động
và sự hữu hiệu theo kiểu Sêchxpia” [44,373] và ông thấy “tương lai của
ngành kịch chính là ở trong sự thống nhất đó” [44,373]. Về vở kịch Xich- kinghen của Latxan, Engels khuyên Latxan nên học hỏi nghệ thuật viết kịch của
W. Sêchxpia, lược bỏ bớt những đoạn độc thoại nội tâm quá dài để “lối đối
13
thoại trở nên linh hoạt và sinh động” [44,376]. Mặt khác, cần tạo cho động cơ
hành động của nhân vật được “đẩy lên hàng đầu một cách sinh động, linh
hoạt, có thể nói là một cách tự nhiên cũng như phải gia tăng thêm thành phần
bình dân, nâng cao nghệ thuật đặc trưng hoá các nhân vật” [44,376] để vở
kịch thêm sinh động. Qua những lý giải sâu sắc ấy, Engels cũng đã cho thấy
nhận thức nghệ thuật của mình về vấn đề tính sinh động: Với Engels, tính
sinh động được xác định như một dấu hiệu quan trọng của hình thức nghệ
thuật và chất lượng nghệ thuật của tác phẩm văn chương.
1.2.1.5. Nhận xét của M. Gorki
Đại văn hào Nga M.Gorki cũng rất chú ý đến tính sinh động của tác
phẩm văn chương nhưng ở một khía cạnh khác. Do những đỉnh cao nghệ
thuật trong bất kỳ một nền văn học nào cũng đều được xây cất trên nền tảng
vững chắc của thực tại đời sống nên theo Gorki, nếu vốn sống của nhà văn
quá đơn giản, nghèo nàn thì không thể tạo ra hình thức nghệ thuật sinh động.
M.Gorki quan niệm: “Chỉ riêng đặc trưng giai cấp thôi chưa đủ để tạo nên
một con người sinh động, hoàn chỉnh, một tính cách được hoàn thành qua
nghệ thuật” [Dẫn theo 25, tr.20]. Ý kiến ấy của nhà văn đã chỉ ra rằng, tính
sinh động, dù biểu hiện dưới dạng thức nào, của bức tranh chung toàn tác
phẩm hay từng nhân vật thì cũng đều liên quan mật thiết đến sự nhận thức
phong phú, nhiều mặt của người nghệ sĩ về cuộc sống.
1.2.2. Ở trong nước
1.2.2.1. Ý kiến của Trường Chinh
Ở Việt Nam, một trong những người đưa ra quan niệm khá rõ ràng, xác
định về tính sinh động của tác phẩm là nhà nghiên cứu Trường Chinh. Trong
sách Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam, ông đã chỉ ra rằng: chất
lượng nghệ thuật cao xa lạ với những “quái thai của tưởng tượng”. Nghệ thuật
cao là phải “tả thực một cách sinh động” chứ không chấp nhận sự “bế tắc, cầu
14
kỳ, quanh co, lố bịch” [Xem 25, tr.20]. Trường Chinh cũng nhấn mạnh tính
sinh động của tác phẩm được hình thành trên cơ sở tính chất bao gồm “nhiều
khía cạnh của đời sống được miêu tả”, “trình độ nhà văn nhìn thấu các mâu
thuẫn phức tạp” và có mối liên hệ chặt chẽ bên trong với khuynh hướng “tả
thật”.
1.2.2.2. Ý kiến của Đặng Thai Mai
Với quan niệm coi tính sinh động như một biểu hiện chính của sinh
mệnh nghệ thuật, khi nhận xét về kịch W.Sêchxpia, nhà nghiên cứu Đặng
Thai Mai khẳng định: kịch Sêchxpia đặc sắc ở sự tiếp thu, cải tạo những thể
loại cổ, ở sự sử dụng tổng hợp mọi thủ pháp viết kịch và khéo léo kết hợp các
sắc thái thẩm mỹ trong mỗi vở kịch. Vì vậy, kịch Sêchxpia lúc nào cũng “sinh
động”, mang đến cho người thưởng thức xúc cảm thư giãn tự nhiên, “khoan
khoái như đứng trước những hình thức huyền diệu của sự sống (...), của sinh
mệnh (...), sinh mệnh của nghệ thuật” [Dẫn theo 25, tr.22].
1.2.2.3. Ý kiến của Nguyễn Đình Thi
Dường như có sự gặp gỡ với nhà tiểu thuyết Đặng Thai Mai, nhà tiểu
thuyết Nguyễn Đình Thi cũng ví tác phẩm văn học như một sinh mệnh
nghệ thuật và trung tâm của cái sinh mệnh nghệ thuật ấy là hình ảnh sống
của con người. Theo ông, hình ảnh sống động của con người là biểu hiện
cao nhất kết tinh tài năng nghệ sĩ bởi: “cái kết quả tiến hoá cao nhất của sự
sống là con người. Vì vậy, miêu tả con người, sáng tạo ra hình ảnh sống
của con người, việc ấy làm mãi cũng không hết được và nội dung của việc
ấy cũng phong phú hơn hết thảy mọi sự kể chuyện ly kỳ khác” [Dẫn theo
25, tr.23].
Qua đó, có thể thấy rằng Nguyễn Đình Thi rất quan tâm đến việc miêu
tả nhân vật sao cho sinh động, mỗi nhân vật là hiện thân “hình ảnh sống” của
con người thực ngoài đời.
15
1.2.2.4. Ý kiến của Nguyễn Lương Ngọc
Trước vấn đề xây dựng những hình tượng con người sống động trong
tác phẩm, GS. Nguyễn Lương Ngọc đặc biệt chú ý đến cách thức thể hiện
sinh động những con người sống đó. Tác giả cho rằng: “Văn học nhất định
phải miêu tả con người sống. Mà miêu tả con người sống là xuyên qua những
sự kiện xung đột nhất định. Nói cách khác, trong quá trình quan hệ lẫn nhau
và phát triển tuần tự của những sự kiện, hành động, xung đột, tính cách của
những nhân vật tham dự được biểu hiện một cách sinh động” [56, 55]. Như
thế, điều GS. Nguyễn Lương Ngọc muốn nhấn mạnh ở đây là để sáng tạo
được những nhân vật sinh động thì cần đặt chúng trong sự phát triển tuần tự
của sự kiện, xung đột, hành động, tính cách và nhìn nhận tất cả các yếu tố đó
trong mối liên hệ hữu cơ, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau.
Như vậy, xét về nguồn gốc, kết hợp từ tính sinh động đã xuất hiện từ
khá sớm và thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
mà phần phân tích trên đây mới chỉ điểm qua được những ý kiến được xem là
tiêu biểu nhất. Tuy rằng, với mỗi tác giả, từ sinh động còn được dùng theo
kinh nghiệm riêng của mỗi cá nhân nhưng nhìn chung cách hiểu về thuật ngữ
tính sinh động lại khá thống nhất. Với tư cách là một bình diện nghệ thuật,
vấn đề tính sinh động của tác phẩm văn chương đã được các nhà nghiên cứu
đánh giá, nhìn nhận trên nhiều khía cạnh: từ sự miêu tả sinh động đối tượng
đến sự miêu tả sinh động tính cách nhân vật, xây dựng những hình tượng
nhân vật sống động... Sâu hơn nữa, các tác giả cũng đã thấy được “mối liên hệ
của tính sinh động với tư tưởng tác phẩm, với kinh nghiệm nghệ thuật quá
khứ để lại và với các yếu tố hình thức thể hiện” [25, 25]. Trên cơ sở đó, tính
sinh động được coi như thước đo trình độ nghệ thuật cao của tác phẩm văn
chương. Nhưng xét một cách một cách tổng quát, kết hợp từ tính sinh động
được nhắc đến trong các ý kiến đã dẫn ở trên ít nhiều còn mang màu sắc cảm
16
tính, theo kinh nghiệm cá nhân, chưa được khai thác đến tận cùng bản chất.
Bởi thế, mối liên hệ giữa tính sinh động với các yếu tố khác trong tác phẩm
chưa được phân tích, lý giải cặn kẽ.
1.3. Phẩm chất “tính sinh động” trong một số quan niệm về cấu trúc tính
nghệ thuật
1.3.1. Ở nước ngoài
Về vấn đề tính nghệ thuật và cấu trúc các yếu tố của nó, trước hết phải
kể đến sự đóng góp của những nhà nghiên cứu người Nga sống trong thế kỷ
XIX như N.A Đobroliubov và ở thế kỷ XX như L.I. Timôfêev, N.K. Gei, P.
Nicolaev. Trong lịch sử nghiên cứu văn học, có thể vấn đề này đã được quan
tâm khám phá từ sớm hơn nữa nhưng phải trong thế kỷ XIX-XX, qua một loạt
công trình nghiên cứu của các học giả kể trên, nó mới được biết đến rộng rãi
với hệ thống lí thuyết cụ thể. Trong phần trình bày dưới đây, chúng tôi sẽ lần
lượt điểm qua những lý thuyết đáng chú ý nhất.
1.3.1.1. Quan niệm của N.A. Dobroliubov
Trong số các nhà mĩ học dân chủ Cách mạng Nga thế kỷ XIX,
Dobroliubov là người có những cống hiến nổi bật cho khuynh hướng nghiên
cứu văn chương từ góc độ tính nghệ thuật. Bên cạnh đó, ông còn đề xuất
hàng loạt tiêu chuẩn đánh giá nghệ thuật có giá trị. Thực tế, quan niệm về
tính nghệ thuật của Dobroliubov có phần gắn bó chặt chẽ với lý thuyết về
hình tượng của Biêlinxki và xa hơn nữa là của Hêghel. Theo Dobroliubov,
có ba tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng tác phẩm nghệ thuật là: tính tư
tưởng tiên tiến, tính nghệ thuật và tính nhân dân. Trong đó, tính nghệ thuật
được nhà phê bình tách ra thành hai yếu tố “tính xác thực và tính sinh động
trong miêu tả” [25, 27].
Như vậy, theo quan điểm của Dobroliubov, tính tư tưởng tiên tiến và
tính nhân dân tuy cùng là những mặt giá trị của tác phẩm nhưng là những giá
17
trị khác do tính nghệ thuật đem lại. Còn tính sinh động - một trong hai yếu tố
của tính nghệ thuật như Dobroliubov đã xác định, được nhìn nhận trong tư
cách độc lập với tính hình tượng của tác phẩm. Điều đáng ghi nhận ở đây là
Dobroliubov đã có sự phân biệt rõ ràng giữa chất lượng nghệ thuật với đặc
trưng nghệ thuật. Sự phân biệt này là hoàn toàn cần thiết vì sẽ giúp người tìm
hiểu phân tích được những khía cạnh khác nhau của tính nghệ thuật đích thực.
1.3.1.2. Quan niệm của L.I. Timôphêev
Tiếp nhận những yếu tố tích cực trong quan niệm của Dobroliubov,
cuối những năm 50 của thế kỷ XIX, nhà nghiên cứu L.I. Timôphêev đã giành
hẳn một chương sách (chương III) trong công trình Nguyên lý lý luận văn học
để bàn về tính nghệ thuật. Theo Timôphêev, vấn đề tính nghệ thuật không chỉ
là vấn đề phân biệt tác phẩm văn học có nghệ thuật tính với tác phẩm văn học
không có nghệ thuật tính mà còn là vấn đề chất lượng của nó và ông khẳng
định: “khái niệm tính nghệ thuật là khái niệm chất lượng” [64,221]. Trên cơ
sở đó, Timôphêev chỉ ra những điều kiện quyết định tính nghệ thuật của tác
phẩm là: tính trung thực của sự khái quát hoá, tính sinh động của sự thể hiện,
tính khuynh hướng thẫm mỹ và tính nhân dân. Như thế, so với Dobroliubov,
quan niệm tính nghệ thuật của Timôphêev được mở rộng hơn, bao quát tất cả
các mặt của giá trị phản ánh cuộc sống bằng hình tượng tạo nên. Ngoài tính
khái quát hoá (tính sinh động của sự miêu tả) giống như Dobroliubov đã xác
định, Timôphêev đưa thêm tiêu chuẩn “tính khuynh hướng thẩm mỹ và mối
liên hệ của tác phẩm với cuộc sống con người” vào cấu trúc tính nghệ thuật.
Quan niệm đó được ông nhấn mạnh như sau: “Những biểu hiện căn bản của
tính nghệ thuật không phải là cái gì khác mà chính là sự thực hiện trong tác
phẩm nghệ thuật cụ thể những đặc tính chủ yếu của sự phản ánh cuộc sống
bằng hình tượng: tính cá thể hoá, tính khái quát hoá, khuynh hướng thẩm mỹ,
mối liên hệ của tác phẩm với cuộc sống con người” [64,223].
18
Điều đáng ghi nhận ở Timôphêev là ông đã có ý thức tách khái niệm
tính hình tượng ra khỏi quan niệm tính nghệ thuật và xem khái niệm tính nghệ
thuật như là khái niệm nói về chất lượng nghệ thuật của tác phẩm. Song do sự
mở rộng quan niệm tính nghệ thuật bao quát tất cả các mặt chất lượng cơ bản
của tác phẩm đã dẫn đến khó khăn. “Đó là những mâu thuẫn logic của hệ
thống khái niệm như: khái niệm tính tư tưởng mất chỗ đứng, các yếu tố của
cấu trúc tính nghệ thuật vẫn chưa vượt thoát được hàng rào tính hình tượng.
Và, tính sinh động, do quan niệm tính nghệ thuật đó chi phối chưa phát triển
được ra những gì khác hơn là “tính cách - hoàn cảnh”, “khuynh hướng toát ra
từ tình thế và hành động” [25,30]. Tuy chưa giải quyết triệt để vấn đề nhưng
quan niệm của Timôphêev đã góp phần quan trọng trong việc mang đến cái
nhìn khái quát hơn về cấu trúc các yếu tố của tính nghệ thuật.
1.3.1.3. Quan niệm của N.K. Gei
Có thể nói, sự nghiên cứu tính nghệ thuật, đến Gei đã có một bước
ngoặt đáng kể. Trong công trình Nghệ thuật ngôn từ, Gei tỏ ra không tán
thành với các loại quan niệm còn lẫn tính nghệ thuật với nhiều biểu hiện đặc
trưng của nghệ thuật. Quan niệm tính nghệ thuật của Gei cũng gắn bó chặt
chẽ với vấn đề chất lượng nghệ thuật của tác phẩm song khác với Timôphêev,
Gei không đi tìm chất lượng nghệ thuật ở tính trung thực của sự khái quát
hoá hay tính khuynh hướng thẩm mỹ mà ở tính tổ chức cao của tổ chức nghệ
thuật. Gei quan niệm: “Sự xem xét tác phẩm dưới dạng sinh mệnh toàn vẹn có
tiền đề là sự xem xét cấu trúc của nó, không phải như những nguyên tắc hình
thức và nội dung, mà như những nguyên tắc thống nhất trong cơ sở của mình”
[25,30]. Và theo Gei, nguyên tắc thống nhất trong cơ sở chính là tổ chức nghệ
thuật của tác phẩm, các nguyên tắc tổ chức nghệ thuật cũng chính là các yếu
tố cơ bản của cấu trúc tính nghệ thuật. Theo đó, Gei chỉ ra ba nguyên tắc của
tổ chức tác phẩm như ba thước đo giá trị thẩm mỹ và sự hoàn thiện nghệ thuật
19
là: tính tổ chức của tổ chức, tính chất mô hình hoá nghệ thuật về đời sống của
tổ chức, tính mục đích thống nhất của tổ chức.
Không dừng lại ở đó, Gei tiếp tục phát triển quan niệm của mình về
tính nghệ thuật trong công trình Tính nghệ thuật của văn chương ra đời gần
mười năm sau. Trong nhận thức của Gei lúc này, tính nghệ thuật không phải
chỉ là “vấn đề chất lượng của tổ chức nghệ thuật phần nào tách rời đặc trưng
nghệ thuật” mà còn là “vấn đề bản chất, đặc trưng và tính tích cực thẩm mỹ
của nó nữa” [25, 31]. Nghĩa là: Gei muốn tìm hiểu sâu hơn về bản chất đặc
trưng của tính nghệ thuật và hiệu quả thẩm mỹ của nó đối với người tiếp
nhận. Mở rộng hơn, Gei xác định ba đặc tính thẩm mỹ của tính nghệ thuật là
“tính không lặp lại”, “tính toàn vẹn” và “tính hàm súc”. Gei gọi chúng là các
“đặc tính thẩm mỹ của thực tế thẩm mỹ đã được thực hiện” [25, 31].
Vậy là, với công trình Tính nghệ thuật của văn chương, quan niệm về
tính nghệ thuật của Gei đã có sự điều chỉnh lại so với mười năm trước đó. Gei
có uốn lại quan niệm chất lượng phần nào tách rời đặc trưng của mình nhưng
ông vẫn khác Dobroliubov và Timôfêev. Hầu hết các yếu tố cơ bản trong cấu
trúc tính nghệ thuật của họ nằm ngoài cấu trúc các thước đo nghệ thuật của
ông. Riêng thước đo tính sinh động được giữ lại nhưng bị ông hạ xuống xếp
vào loại “các yếu tố riêng biệt”. Qua đó, có thể thấy, Gei có quan điểm khác
với những người đi trước ở chỗ ông đi tìm tính nghệ thuật chủ yếu ở các
nguyên tắc cơ bản của tổ chức nghệ thuật tác phẩm.
1.3.1.4. Quan niệm của P.Nicolaev
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ nghiên cứu văn học, P.Nicolaev cũng
đưa ra quan niệm về tính nghệ thuật của mình có phần gần gũi với quan niệm
của N.K.Gei. Nicolaev chỉ rõ: “tính nghệ thuật là chất lượng đặc trưng của tác
phẩm nghệ thuật, là hình thức của cái đẹp trong nghệ thuật” [25, 32]. Về cấu
trúc tính nghệ thuật, Nicolaev xác định nó bao gồm một tiêu chuẩn cơ sở là
20
tính chân thật về tư tưởng của nội dung tác phẩm và hai yếu tố cơ bản là: tính
hợp lý về tư tưởng- nghệ thuật của tất cả các yếu tố trong tác phẩm và sự hoàn
thiện của ngôn ngữ thi ca.
1.3.2. Ở trong nước
Ở Việt Nam, cho đến nay, sự nghiên cứu tính nghệ thuật và cấu trúc
các yếu tố của nó nhìn chung vẫn chưa nhận được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu. Rải rác trong một số bài viết, vấn đề này có được nói đến song
vẫn ở mức độ sơ lược và tản mạn. Tuy nhiên cũng có thể kể đến sự đóng góp
tích cực của một số ít tác giả như Nam Mộc, Nguyễn Cương, Nguyễn Xuân
Nam, Phùng Minh Hiến.
1.3.2.1. Quan niệm của Nam Mộc
Trong cuốn Văn học- cuộc sống- nhà văn, khi bàn về tính nhân dân của
văn học, Nam Mộc cho rằng tính nhân dân là thuộc tính thẩm mỹ thể hiện tính
tư tưởng và tính nghệ thuật của văn học. Về tính nghệ thuật, Nam Mộc cũng
chưa bàn bạc gì nhiều, ông chỉ gián giếp đưa ra cách hiểu của mình về vấn đề
này thông qua vịêc xác định những biểu hiện chất lượng của hình thức nghệ
thuật có tính nhân dân. Đó là “trong sáng”, “sinh động”, “hấp dẫn”, “dễ tiếp
thu [70, 368]. Gắn tính nghệ thuật với chất lượng của hình thức nghệ thuật,
quan niệm của Nam Mộc có sự gần gũi với quan niệm của nhà lý luận Xô-viết
P.Nicoloaev. Với Nicolaev, tính nghệ thuật được định nghĩa là hình thức của
cái đẹp trong nghệ thuật thì với Nam Mộc, tính sinh động chính là khía cạnh
biểu hiện chất lượng cơ bản của hình thức nghệ thuật đó.
1.3.2.2. Quan niệm của Nguyễn Cương
Là đồng tác giả cuốn Văn học- cuộc sống- nhà văn và viết chung với
Nam Mộc phần Tính tư tưởng và tính nghệ thuật trong văn học nhưng quan
niệm về tính nghệ thuật của Nguyễn Cương có những điểm rất khác so với
Nam Mộc. Xuất phát từ đặc trưng: văn học phản ánh cuộc sống và tác động
- Xem thêm -