Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Tình hình thực tế về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm, nguyên nhân và một số đề xuất...

Tài liệu Tình hình thực tế về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm, nguyên nhân và một số đề xuất nhằm hạn chế tranh chấp

.DOCX
11
206
136

Mô tả:

[Type the document title] 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có những bước phát triển không ngừng mặc dù tình hình kinh tế còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, cái gì cũng có mặt trái của nó. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của thị trường thì những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình hoạt động của thị trường bảo hiểm cũng gia tăng, đi kèm với nó là số lượng những vụ tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm cũng ngày một tăng, trong khi cơ chế giải quyết tranh chấp thì còn hoạt động thiếu hiệu quả. do đó, trong bài này, chúng tôi xin đưa ra tình hình thực tế về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm, nguyên nhân và một số đề xuất nhằm hạn chế tranh chấp. NỘI DUNG I/ KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM 1. Khái niệm Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho một người thứ ba trong trường hợp xẩy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê1. Theo quy định tại Điều 12, khoản 1,2 Luật KDBH 2000 (sửa đổi, bổ sung 2010): “1. Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. 2. Đặc điểm Bên cạnh các đặc điểm chung của hợp đồng, hợp đồng bảo hiểm có đặc điểm riêng: Thứ nhất, chủ thể tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm là doanh nghiệp bảo hiểm với bên mua bảo hiểm. Thứ hai, đây là hợp đồng song vụ: các bên tham gia HĐBH đều có quyền và nghĩa vụ qua lại lẫn nhau. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm và quyền này gắn với nghĩa vụ bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm tương ứng với quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Thứ ba, tính đền bù trong hợp đồng hiểm không được xác định ở thời điểm giao kết hợp đồng (trừ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ). HĐBH được tiến hành theo quy luật số đông bù số ít. Không phải tất cả mọi người đóng phí đều được nhận tiền bảo hiểm. Chỉ người, trong thời hạn hợp đồng có hiệu lực, không may gặp rủi ro, tổn thất, bị thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc làm phát sinh một trách nhiệm dân sự với người thứ ba được trả tiền bảo hiểm. HĐBH là hợp đồng đúng giá trị. Thứ tư, đây là hợp đồng mẫu: bên tham gia bảo hiểm không được quyền đàm phán hay sửa đổi các điều khoản chủ yếu của hợp đồng mà DNBH đã đưa vào hợp đồng mẫu. Thứ năm, đây là hợp đồng mang tính may rủi: cho DNBH tùy thuộc vào sự kiện bảo hiểm có xảy ra hay không. Trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng: - Sự kiện bảo hiểm không xảy ra, DNBH không phải bồi thường; 1 Monique Gaultier, Généralité sur l'assurance, Projet d'assur, L'école supérieur des Finances et de la Comptabilité de Hanoi - FFSA [Type the company name] [Type the document title] - Sự kiện bảo hiểm xảy ra, DNBH phải gánh chịu tổn thất do rủi ro đó đem lại thay cho bên 2 được bảo hiểm. Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm bao giờ cũng thể hiện dưới hình thức văn bản. Tùy loại nghĩa vụ bảo hiểm mà hình thức hợp đồng bảo hiểm khác nhau. 3. Khái quát về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm chính là sự xung đột, bất đồng ý chí giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm (người mua bảo hiểm, người thụ thưởng, người được bảo hiểm) trong việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm. Nói cách khác, tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm là sự xung đột bất đồng ý chí giữa các bên (doanh nghiệp bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm) về quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm. Thông thường, tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đều xuất phát từ hành vi vi phạm hợp đồng của một bên hoặc cả hai bên với lỗi cố ý hoặc vô ý nên đã làm trái với điều khoản đã cam kết trong hợp đồng bảo hiểm. Trên phương diện lý thuyết, một hành vi được coi là vi phạm hợp đồng bảo hiểm khi hành vi đó thỏa mãn những điều kiện sau: - Người thực hiện hành vi phải là các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm là doanh nghiệp và bên tham gia bảo hiểm (bao gồm người mua bảo hiểm, người được bảo hiểm và người thụ hưởng bảo hiểm). - Hành vi mà chủ thể vi phạm đã thực hiện là trái với các điều khoản mà các bên cam kết trong hợp đồng bảo hiểm. Để chứng minh một hành vi là trái vối cam kết trong hợp đồng bảo hiểm thì bên có quyền lợi bị xâm hại bởi hành vi của bên kia phải dẫn chứng về sự tồn tại một cam kết của người thực hiện hành vi (đó là hợp đồng bảo hiểm và quy tắc điều khoản bảo hiểm kèm theo hợp đồng bảo hiểm…). Thông thường hành vi làm trái với cam kết trong hợp đồng bảo hiểm là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết. - Bên thực hiện hành vi trái cam kết có một lỗi xác định là lỗi cố ý và vô ý…Thông thường bên có quyền lợi bị xâm hại chỉ cần chứng minh rằng bên đối tác đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ như cam kết cũng đủ để dẫn chứng về lỗi của người đó. Bên thực hiện hành vi trái với cam kết thì phải chứng minh mình không có lỗi bằng cách dẫn chứng các sự kiện, các quy định bảo vệ mình. - Hành vi vi phạm đó nhằm xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên kia hoặc xâm hại đến lợi ích khác như lợi ích xã hội, lợi ích của các tổ chức cá nhân khác. II. THỰC TRẠNG TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM 1. Các loại tranh chấp hợp đồng bảo hiểm Với đặc thù của hợp đồng bảo hiểm, tranh chấp hợp đồng bảo hiểm khá phức tạp. Dựa vào các hành vi vi phạm và nội dung tranh chấp, có thể chia tranh chấp hợp đồng bảo hiểm ra thành các nhóm sau: - Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm có liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin. - Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm có liên quan đến nghĩa vụ nộp phí - Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm có liên quan đến nghĩa vụ phòng ngừa và hạn chế tổn thất. - Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm có liên quan đến việc xác định sự kiện bảo hiểm và trách nhiệm trả tiền hoặc bồi thường bảo hiểm. 1.1 Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm có liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin. [Type the company name] [Type the document title] Nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm là nghĩa vụ đối với cả 3 chủ thể hợp đồng bảo hiểm. Nghĩa vụ này trên thực tế thường dễ vi phạm và tranh hai bên chấp hợp đồng bảo hiểm phát sinh từ nghĩa vụ này khá phổ biến. Với loại tranh chấp này, cần phải xác định rõ hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin thuộc về phía doanh nghiệp bảo hiểm hay bên tham gia bảo hiểm. - Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ cung cấp Pháp luật quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của doanh nghiệp bảo hiểm như sau: doanh nghiệp bảo hiểm phải cung cấp đầy đủ các thông tin về sản phẩm bảo hiểm mà mình sẽ cung ứng cho khách hàng, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ cho bên mua bảo hiểm… Trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm không cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết cho bên mua bảo hiểm, đặc biệt là trong trường hợp bảo hiểm nhân thọ. Các đại lý bảo hiểm chủ yếu là cung cấp các thông tin về quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng nhằm mục đích lôi kéo khách hàng kí hợp đồng bảo hiểm để họ chạy đua theo số lượng hợp đồng và doanh thu. Nhìn chung, những thông tin cung cấp cho khách hàng có tính bất lợi mà có thể dẫn đến việc khách hàng chần chứ hoặc từ chối tham gia bảo hiểm ít được các đại lý nêu ra và giải thích một cách cặn kẽ, thậm chí có doanh nghiệp bảo hiểm còn dung cả đến những tiểu xảo khác tinh vi mà khách hàng không thể nhận thấy ngay được. Chẳng hạn, trong dự thảo hợp đồng có quy định số tiền lãi được chia, nhiều công ty đưa ra lãi cao, hấp dẫn, nhưng không cam kết trong hợp đồng chính thức, nghĩa là về mặt pháp lý, không có gì ràng buộc công ty phải trả lãi cao cho khách hàng. Có công ty bảo hiểm đã sử dụng những thủ thuật để thu hút khách hàng bằng việc sẵn sàng chịu lỗ lớn để thông báo mức lãi suất cao cho một vài năm đầu của hợp đồng. Mức lãi sau này sẽ khó có thể đáp ứng được vì tiền lãi này phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Trên thực tế, đã có công ty bảo hiểm đã thông báo mức bảo tức cho khách hàng là 2% nhưng nhiều khách hàng khi nhận tiền bảo hiểm thì bị công ty trả mức lãi suất thấp hơn so với mức bảo tức đã thông báo. Có thể nói, trên thực tế vì quyền lợi của mình, doanh nghiệp bảo hiểm đã không cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin về sản phẩm, dẫn đến việc khách hàng hiểu không đầy đủ về sản phẩm bảo hiểm khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, điều đó ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng dẫn đến tranh chấp phát sinh sau này. - Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm do người mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ cung cấp Đối với bên mua bảo hiểm thì nghĩa vụ cung cấp thông tin được quy định cả trước trong và sau quá trình kí kết, thực hiện hợp đồng và cả thông tin sau khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Nếu bên mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ này thì có cách xử lý tương ứng. Bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường. Hoặc bên mua bảo hiểm không thực hiện các nghĩa vụ thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ. Hiện nay có rất nhiều trường hợp người mua bảo hiểm cố ý cung cấp sai sự thật. Hành vi này có thể xảy ra ở cả giai đoạn kí kết hợp đồng và cả giai đoạn cung cấp tài liệu liên quan đến sự kiện bảo hiểm. Qua các tình huống cụ thể, việc vi phạm của bên mua bảo hiểm có thể quy về một trong các hành vi sau: + Có hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm. Trường hợp này hợp đồng bảo hiểm xử lý theo hướng doanh nghiệp [Type the company name] [Type the document title] bảo hiểm tuyên bố đơn phương chấm dứt hợp đồng theo Điều 19 khoản 2 điểm a Luật kinh 4 bảo hiểm. doanh + Tại thời điểm giao kết hợp đồng bên mua bảo hiểm đã biết rõ sự kiện bảo hiểm sẽ xảy ra. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể đề nghị tòa án tuyên bố hợp đồng bảo hiểm vô hiệu tho Điều 22 khoản 1 điểm c Luật kinh doanh bảo hiểm + Bên mua bảo hiểm đã có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng. Trong trường hợp này, doanh nghiệp bảo hiểm có thể đề nghị tòa án tuyên bố hợp đồng bảo hiểm vô hiệu theo Điều 22 khoản 1 điểm d Luật kinh doanh bảo hiểm. Có thể lấy một ví dụ về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin sau đây: Ngày 7/2/2006, bà Thanh mua bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp của DNBH P cho con trai là anh Nghĩa với thời hạn 15 năm, tiền bảo hiểm là 150 triệu, bà Thanh luôn đóng phí bảo hiểm đúng hạn. Đến ngày 5/3/2007, anh Nghĩa đột nhiên qua đời. Giám định pháp y cho biết nguyên nhân tử vong là do anh Nghĩa đã sử dụng ma túy quá liều và chết do bị sốc thuốc. Bà Thanh đã yêu cầu công ty P trả tiền bảo hiểm, tuy nhiên công ty P từ chối vì lý do hợp đồng bảo hiểm vô hiệu do bà Thanh đã kê khai không đúng câu hỏi dành cho người được bảo hiểm là “bạn đã/đang dùng chất ma túy hoặc chất gây nghiện không?” thì bà Thanh đã đánh dấu chéo vào ô “không”. Trong khi công ty P đưa ra bằng chứng rằng ngày 12/8/2001 anh Nghĩa đã được gia đình cho đi cai nghiện tại Trung tâm cai nghiện ma túy. 1.2. Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm có liên quan đến nghĩa vụ nộp phí Nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn theo phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm là một nghĩa vụ cơ bản, quan trọng đối với bên mua bảo hiểm. Nếu bên mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ này thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tuyên bố đơn phương chấm dứt hợp đồng bảo hiểm (khoản 2,3 Điều 23 Luật kinh doanh bảo hiểm). Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp doanh nghiệp cho người mua bảo hiểm nợ phí bảo hiểm. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, DN bảo hiểm cho rằng, khách hàng chưa đóng phí nên hợp đồng bảo hiểm đương nhiên bị chấm dứt, trong khi khách hàng khăng khăng đòi bồi thường, bởi hợp đồng đã ký, đã có giấy chứng nhận bảo hiểm. Có thể lấy ví dụ trường hợp một đơn vị mua bảo hiểm cho kho hàng của công ty mình. DN bảo hiểm đã cấp đơn bảo hiểm, nhưng chưa thu được phí. Sau khi kho hàng bị cháy, chủ kho hàng mới đến đóng phí và nhân viên bảo hiểm vẫn thu phí bình thường. Đến khi xác định bồi thường thì phát sinh tranh chấp, DN bảo hiểm không chấp nhận bồi thường và cho rằng, tại thời điểm phát sinh sự kiện bảo hiểm, khách hàng chưa đóng phí nên chưa phát sinh trách nhiệm bảo hiểm. Trong khi đó, chủ kho hàng thì đòi DN bảo hiểm bồi thường vì đơn bảo hiểm đã có, phí bảo hiểm đã đóng. Không thể thương lượng, hòa giải, hai bên đã đưa nhau ra Tòa. Một trường hợp tranh chấp khác cũng phát sinh từ việc cho nợ phí bảo hiểm, đó là trường hợp của CTCP Tàu thủy Dung Quất (DQS) mua bảo hiểm cho một tàu chở dầu. Hợp đồng đã thỏa thuận đóng phí làm 3 lần: khi ký hợp đồng, hạ thủy, bàn giao. Đợt đóng phí đầu tiên, DQS mới chỉ đóng 2 tỷ đồng và nợ lại 400 triệu đồng. Sau khi hợp đồng hết hạn, do tàu chưa đóng xong, hai bên lại tiếp tục gia hạn hợp đồng. Năm 2009, con tàu bị bão làm hư hại và DQS đòi Công ty Bảo hiểm Bảo Minh bồi thường. Phía Bảo Minh cho rằng, vì DQS không đóng đủ phí nên hợp đồng đơn phương bị chấm dứt và không chấp nhận bồi thường. Cho đến nay, Tòa án vẫn đang trong quá trình chuẩn bị các thủ tục để xét xử nên chưa rõ liệu Bảo Minh có phải bồi thường hay không, song việc nợ phí để lại nhiều rắc rối cho cả hai bên. [Type the company name] [Type the document title] 1.3. Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm có liên quan đến nghĩa vụ phòng ngừa và hạn chế 5 tổn thất Theo quy định tại Điều 50 Luật kinh doanh bảo hiểm, bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ phòng ngừa và hạn chế những tổn thất có thể xảy ra với đối tượng bảo hiểm: “1. Người được bảo hiểm phải thực hiện các quy định về phòng cháy, chữa cháy, an toàn lao động, vệ sinh lao động và những quy định khác của pháp luật có liên quan nhằm bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm. 2. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền kiểm tra các điều kiện bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm hoặc khuyến nghị, yêu cầu người được bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế rủi ro. 3. Trong trường hợp người được bảo hiểm không thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền ấn định một thời hạn để người được bảo hiểm thực hiện các biện pháp đó; nếu hết thời hạn này mà các biện pháp bảo đảm an toàn vẫn không được thực hiện thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tăng phí bảo hiểm hoặc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm. 4. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm khi được sự đồng ý của bên mua bảo hiểm hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.” Tuy nhiên, trên thực tế, rất nhiều trường hợp bên mua bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ này hoặc không thực hiện theo những khuyến nghị mà DNBH đưa ra. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, gây thiệt hại cho đối tượng bảo hiểm thì DNBH từ chối bồi thường do bên mua vi phạm nghĩa vụ, do đó hai bên xảy ra tranh chấp. Có thể dẫn chứng một sự việc về vấn đề này như sau: Vào hồi 16h ngày 1/8/2008, mưa lớn xay ra tại TP. HCM làm ngập tầng hầm của ngân hàng Đại Tín làm hư hỏng chiếc xe Mecerdes của ngân hàng. Tới gnày 4/8, Đại tín mới báo cáo sự việc này với công ty bảo hiểm AAA và yêu cầu xác nhận thiệt hại và bổi thường do đây là sự kiện rủi ro bất ngờ và Đại tín đã mua bảo hiểm cho chiếc xe. Sau khi giám định, công ty bảo hiểm AAA từ chối bồi thường cho Đại tín vì cho rằng sự việc trên không phải rủi ro bất ngờ. Trong tình huống này, ngân hàng Đại Tín đã không mẫn cán trong việc phòng ngừa, hạn chế tổn thất, khắc phục sự cố. Việc nước mưa tràn ngập tầng hầm không phải là yếu tố bất ngờ không lường trước được bởi lẽ đã có dựa báo trước của Trung tâm Dự báo khí tượng thuỷ văn khu vực Nam Bộ. Hơn nữa, thời gian ngập là trong giờ hành chính, nên rủi ro với chiếc xe là rõ ràng và ngân hàng phải thấy được rủi ro đó. Vì vậy, đây không thể coi là sự kiện bất khả kháng, không thể không khắc phục được. Công ty bảo hiểm AAA không có trách nhiệm phải bồi thường trong tranh chấp hợp đồng bảo hiểm này 1.4. Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm liên quan đến việc xác định sự kiện bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra, DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người đc bảo hiểm Để tránh trường hợp trục lợi bảo hiểm thì hầu hết các quy tắc, điều khoản bảo hiểm đều có các quy định về các điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. nếu thuộc các trường hợp này, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không phải trả tiền bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm. Những trường hợp đó thường là sự kiện bảo hiểm xảy ra do thiên tai, chiến tranh, do lỗi cố ý của người được bảo hiểm, do hành vi trái pháp luật của người được bảo hiểm, … Việc xác định sự kiện bảo hiểm có xảy ra hay không? Có thuộc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm hay không? có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định xem DNBH [Type the company name] [Type the document title] có phải trả tiền cho bên được bảo hiểm hay không. Tuy nhiên, việc xác định này trên thực tế cũng6 đặt ra không ít khó khăn, nhiều trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cho rằng bên mua bảo hiểm có lỗi trong việc gây ra thiệt hại nhưng không thể xác định được… Một dẫn chứng về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm liên quan đến việc xác định sự kiện bảo hiểm như sau: Ngày 25/5/2009 và ngày 22/6/2009, Cty CP Dabaco Việt Nam (viết tắt là Cty Dabaco) tham gia bảo hiểm hàng hóa của Cty CP bảo hiểm Petrolimex (Pjico), theo đó Pjico nhận bảo hiểm 6.500 tấn cám gạo chở từ Ấn Độ về bằng tàu Bulk Energy với giá trị hàng hóa là 1,046 triệu USD, tổng số tiền bảo hiểm là 1,157 triệu USD, phí bảo hiểm là 6.366 USD. Hàng hóa được bảo hiểm chở trên tàu Bulk Energy dự kiến rời cảng Kakinada (Ấn Độ) ngày 8/6/2009 và cập cảng Hải Phòng ngày 27/6/2009. Đến 24/6/2009, Dabaco nhận được thông báo của Cty TNHH vận tải môi giới thuê tàu biển Đông Á Sài Gòn cho biết, dự kiến tàu đến trạm hoa tiêu Hải Phòng ngày 2/7/2009. Ngày 7/7/2009, Dabaco nhận được công văn từ Chi nhánh Cty Đông Á Sài Gòn tại Hải Phòng thông báo không liên lạc được với tàu Bulk Energy. Sau khi việc tìm kiếm không có kết quả, ngày 15/9/2009, Dabaco giao cho Pjico các chứng từ liên quan để yêu cầu bảo hiểm nhưng Pjico không nhất trí bồi thường. Điều đáng nói ở đây là không có bất cứ bằng chứng xác đáng nào về việc mất tích của tàu Bulk Energy: Theo Công văn số 134/CV-DBCVN ngày 22/7/2009 của Dabaco gửi Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao, Văn phòng Interpol Việt Nam nêu rõ: “ Ngày 2/7/2009, các chủ hàng trên tầu đã nhận được thông báo sẵn sàng xếp dỡ do thuyền trưởng tầu Bulk Energy ký gửi, thông báo tàu đã ở phao số 0 tại cảng Hải Phòng và sẵn sàng vào cảng để dỡ hàng. Tuy nhiên ngày 7/7/2009, đại lý tàu Bulk Energy thông báo cho các chủ hàng không thể liên lạc được với tàu cho dù đã dùng tất cả các phương tiện liên lạc khác nhau. Do mâu thuẫn giữa chủ tầu và người môi giới thuê tàu nên thuyền trưởng đã không cho tàu vào cảng Hải Phòng dỡ hàng theo đúng lịch trình mà lại cho tàu tới cảng Phòng Thành (Trung Quốc) và dỡ hàng tại đây.” Theo báo cáo trung gian thu giữ hàng hóa trên tàu Bulk Energy của Cục Hàng hải quốc tế (IBM): Từ ngày 1 đến 3/8/2009, tàu Bulk Energy ghé qua cảng Phòng Thành để chữa bệnh cho kỹ sư và không dỡ hàng, IBM vẫn liên lạc với thuyền trưởng; ngày 25/8/2009, 22 thủy thủ rời tàu tại Singapore, số thủy thủ còn lại rời tàu tại Indonesia; Cục An ninh của cơ quan hàng hải Panama đã tìm thấy tàu đang nằm ngoài hải phận Jakarta ngày 30/11/2009. Còn công văn số 555/VP.Interpol.P2 ngày 22/3/2010 của Tổng cục Phòng chống tội phạm xác nhận, theo thông tin trao đổi với cảnh sát Malaisia, tàu Bulk Energy được xác định ở vị trí 2.4 Nautical cảng Jakarta sau đó đến cảng Salaah-Oman, trên tàu có 20 thủy thủ Ấn Độ cùng 11.600 tấn cám gạo. 2. Vấn đề giải quyết tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm. Thực tế cho thấy rằng khi tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm sảy ra thì các bên ít khi có thể tự thương lượng và giải quyết được với nhau mà các bên thường có xu hướng đưa vụ tranh chấp đó ra tòa án để giải quyết.Bởi vì khi các bên trong hợp đồng bảo hiểm tranh chấp với nhau thì họ có sự đối kháng về quyền lợi và nghĩa vụ nên họ rất khó thương lượng với nhau và để giải quyết vụ tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm thì việc xác định là rất phức tạp cần phải có chuyên môn và khả năng mới có thể xác định được nên lựa chọn họ cho là có hiệu quả đó chính là nhờ sự can thiệp của tòa án.Trong thời gian qua thì tòa án được xem là phương thức giải quyết tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm hữu hiệu và số vụ tranh chấp [Type the company name] [Type the document title] được đưa ra tòa án giải quyết có xu hướng tăng.Việc giải quyết tranh chấp của tào án đã đạt được7 nhiều kết quả và góp phần .Nhưng bên canh việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm đang bộc lộ nhiều hạn chế.Bởi vì việc xác định các yếu tố của một hợp đồng bảo hiểm là rất phức tạp nhất là sự kiện bảo hiểm và mức trả tiền bảo hiểm hay bồi thường bảo hiểm nên nhiều vụ tranh chấp về bảo hiểm kéo dài rất lâu và việc giải quyết qua nhiều cấp xét xử.Điều này ảnh hưởng lớn đến những đương sự và không khi không giải quyết dứt điểm các tranh chấp III/ NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM 1. Nguyên nhân Như đã phân tích ở trên, tình hình tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm hiện nay diễn ra khá gay gắt. Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tranh chấp, trong đó có cả nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp: 1.1. Nguyên nhân trực tiếp Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trước tiên phải kể đến là do lỗi của bên mua bảo hiểm. Như đã nói, tình trạng tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm do các bên vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin diến ra khá phổ biến. Bên mua bảo hiểm có hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền hoặc bồi thường; hoặc bên mua bảo hiểm không thực hiện các nghĩa vụ thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc có thể làm phát sinh thêm trách nhiệm của DNBH trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp bên mua bảo hiểm cũng cấp thông tin sai sự thật là do lỗi vô ý. Vậy thì, trường hợp nào là do lỗi cố ý, trường hợp nào là do lỗi vô ý, bên mua bảo hiểm phải chứng minh. Điều này là khó khăn cho bên mua bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra. Giải thiết rằng, có một số thông tin mà bên mua bảo hiểm cung cấp là sai sự thật và DNBH có biết được về những thông tin đó nhưng vấn ký hợp đồng bảo hiểm để thu phí, khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra mới đưa ra căn cứ để chứng minh bên mua bảo hiểm đã vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin để từ chối nghĩa vụ trả tiền hoặc bồi thường bảo hiểm. khi đó sẽ xảy ra tranh chấp, và rất khó để chứng minh lỗi của DNBH, và quyền lợi của bên mua bảo hiểm cũng không được đảm bảo. - thứ hai là việc vi phạm, không cung cấp thông tin từ phía DNBH. Trên thực tế, nhiều DNBH không cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho bên mua bảo hiểm, đặc biệt là trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Các đại lý bảo hiểm chủ yếu cung cấp các thông tin về quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng nhằm mục đích lôi kéo khách hành ký hợp đồng bảo hiểm để họ chạy đua theo số lượng hợp đồng bảo hiểm và doanh thu. Những thông tin mang tính bất lợi mà có thể dẫn đến việc khách hàng chần chừ hoặc từ chối tham gia bảo hiểm ít được các đại lý nêu ra và giải thích một cách cặn kẽ. Xét trên nhiều phương diện, khách hàng không có trình độ chuyên môn, không đủ hiểu biết sâu rộng về hợp đồng bảo hiểm nên dù có được cung cấp đầy đủ thông tin thì họ cũng chưa thể hiểu hết về hợp đồng bảo hiểm chứ chưa nói đến trường hợp không được cung cấp đầy đủ thông tin. Do đó, khi có sự kiện bảo hiểm phát sinh mà quyền lợi của người mua bảo hiểm không đươc đảm bảo thì tranh chấp là điều khó tránh khỏi. Ngoài ra, có không ít trường hợp DNBH có hành vi lừa dối để ký kết hợp đồng, ví dụ như ký kết hợp đồng bảo hiểm với khách hàng mà nghiệp vụ bảo hiểm đó doanh nghiệp không được phép kinh doanh hoặc trường hợp cung cấp các sản phẩm bảo hiểm cho khách [Type the company name] [Type the document title] hàng không đúng với quy tắc điều khoản, biểu phí đã được Bộ Tài chính ban hành, phê 8 hoặc đã đăng ký với Bộ Tài chính. Như vậy, trường hợp này quyền lợi của người mua chuẩn bảo hiểm cũng không được đảm bảo và sẽ dẫn tới tranh chấp. Có thể lý giải về những hành vi trên của bên mua bảo hiểm và DNBH là do lợi ích của họ không đồng nhất, dẫn đến ý kiến không thống nhất về việc đánh giá hành vi vi phạm hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ vi phạm đó. Bên được bảo hiểm bao giờ cũng mong muốn phần bảo hiểm của mình sẽ nhận lại được nhiều hơn phần giá trị đã bị tổn thất, hoặc mong muốn được nhận bảo hiểm trong mọi trường hợp khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Bên bảo hiểm thì ngược lại, khi sự kiện xảy ra luôn mong muốn sẽ chứng minh được lỗi là do sự tắc trách của người được bảo hiểm tự gây ra, làm sao cho phần bảo hiểm phải chi trả luôn là nhỏ nhất. 1.2. Nguyên nhân gián tiếp Bên cạnh những hành vi vi phạm của các bên trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra tranh chấp, còn có những yếu tố khác tác động gián tiếp gây ra tranh chấp hợp đồng bảo hiểm - Thứ nhất, nhiều quy định của pháp luật còn chưa được hiểu thống nhất, dẫn đến mỗi bên hiểu theo những cách khác nhau nhằm bảo vệ cho quyền và lợi ích của mình, từ đó nảy sinh những bất đồng mâu thuẫn và đi đến tranh chấp. Hiện nay, pháp luật quy định các bên bảo hiểm nếu muốn không chi trả cho sự kiện bảo hiểm rủi ro của khách hàng nào thì bắt buộc phải đưa ra các căn cứ hay những lý do chính đáng. Nhưng chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Vì thế, phía bảo hiểm thường tìm mọi lý do hoặc làm các biện pháp chứng minh sao cho mình không phải bỏ ra khoản tiền bảo hiểm hoặc chỉ phải bỏ ra một phần nhỏ chi cho sự rủi ro. Còn người được bảo hiểm khi tổn thất xảy ra tuy số tiền bảo hiểm không bao giờ bằng được thực tế nhưng họ luôn mong muốn nhân được nó. Trong những trường hợp bị từ chối họ sẵn sàng khiếu nại tới các cơ quan liên quan để yêu cầu giải quyết. Một dẫn chứng khác là khoản 1 Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định trách nhiệm của các doanh nghiệp bảo hiểm là cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm. Tuy nhiên khoản 3, Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phuơng đình chỉ hợp đồng bảo hiểm… nhưng lại không quy định trường hợp nếu bên bảo hiểm cố ý không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ thì xử lí như thế nào. Do vậy các chủ thể bảo hiểm thường lờ đi trách nhiệm giải thích, cung cấp thông tin cho khách hàng. - Thứ hai, Các quy định của pháp luật về bảo hiểm cũng chưa nhiều, hành lang pháp lý cho hoạt động bảo hiểm chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và nhiều quy định không thể thực hiện được trên thực tế. - Thứ ba, bản thân hợp đồng bảo hiểm rất khó hiểu. Việc giao kết, thực hiện hợp đồng bảo hiểm gắn liền với những rủi ro tức những biến cố không chắc chắn. Chính vì vậy mà nhà bảo hiểm khi chấp bút hợp đồng phải đưa ra nhiều tình huống giả định (nếu thế này thì.., nếu thế kia thì…, ngoại trừ…. v..v…). Điều này làm cho câu văn sử dụng để diễn đạt luôn phức tạp, hơn nữa, bên bảo hiểm miêu tả các trường hợp giả định ở mức độ khái quát cao làm người đọc phải cố gắng hình dung ra các trường hợp đó. Tất nhiên, vì trình độ rất khác nhau và lĩnh vực hoạt động rất khác nhau nên không phải ai nếu không nói là ít người có thể có trình độ, hiểu biết chuyên môn đầy đủ để hiểu tường tận một cách thống nhất với [Type the company name] [Type the document title] nhà bảo hiểm. Hơn nữa, hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng theo mẫu, mở sẵn và do nhà bảo hiểm9 soạn thảo (và được Bộ tài chính chấp nhận) chứ không phải hình thành từ việc đàm phán trực tiếp của hai bên như các hợp đồng mua bán khác. Điều này đòi hỏi người mua bảo hiểm phải đọc thật kỹ để thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trước khi ký kết và trong khi thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Nhưng, ngay cả khi đọc kỹ, nếu không có sự giúp đỡ, tư vấn của người hoạt động chuyên ngành, chưa chắc người mua bảo hiểm có thể hiểu đúng và thống nhất với bên bán bảo hiểm. Trên phương diện thực tiễn, ngành bảo hiểm là một ngành du nhập vào nước ta và cũng chỉ mới trong thời gian đầu. Hầu hết các hợp đồng bảo hiểm, đều dựa theo mẫu của nước ngoài nên khi chuyển đổi ngôn ngữ, một số từ ngữ còn rất mới mẻ và khó hiểu chưa được bổ sung vào từ điển tiếng Việt phổ thông (trong khi đó vẫn chưa có từ điển thuật ngữ chuyên ngành bảo hiểm đầy đủ). Xuất phát từ sự khó hiểu đó mà nhiều trường hợp hai bên có cách hiểu khác nhau về hợp đồng bảo hiểm, dẫn đến mâu thuẫn và tranh chấp. - Thứ tư, xuất phát từ bản chất khó hiều của hợp đồng bảo hiểm mà DNBH có “nghĩa vụ giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm...” (khoản 1, Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm). Tuy nhiên, Luật kinh doanh bảo hiểm chỉ dừng lại ở quy định nguyên tắc giải thích hợp đồng bảo hiểm mà không nói đến cách thức giải thích hợp đồng này như thế nào. Do đó, khi có tranh chấp xảy ra, việc giải thích hợp đồng bảo hiểm phải căn cứ vào các quy định khác của pháp luật nếu có, bởi về nguyên tắc áp dụng luật, việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm trước hết sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm. Nếu Luật kinh doanh bảo hiểm không quy định hoặc dẫn chiếu đến việc áp dụng luật khác (Bộ luật dân sự và các quy định quy định khác của pháp luật có liên quan) thì luật khác sẽ được áp dụng. Vấn đề đặt ra là nếu có nhiều văn bản cùng điều chỉnh vấn đề này thì có thể sẽ dẫn đến sự mâu thuẫn trong giải thích của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến quyền lợi của người mua bảo hiểm, kéo theo đó sẽ là tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm, - Thứ năm, Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm rất đa dạng và phức tạp, Luật kinh doanh bảo hiểm cũng không quy định được hết một cách chi tiết mọi trường hợp sẽ xảy ra trong tương lai, do đó mọi quy định chỉ mang tính chất tương đối, không giải thích được cặn kẽ từng vấn đề dẫn đến việc khó áp dụng. Cũng chính vì vậy mà việc tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực này xảy ra khá nhiều. - Thứ sáu, do chênh lệch về mức độ am hiểu pháp luật, nhận thức chuyên môn giữa khách hàng tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm hầu như đều chủ động trong các hoạt động kí kết hợp đồng bảo hiểm, lại là những người có kiến thức chuyên sâu về đối tượng bảo hiểm, pháp luật bảo hiểm,… trong khi người mua bảo hiểm gần như không có kiến thức về vấn đề này, nếu không có chuyên gia tư vấn thì có thể không thể hiểu hết được. Vì vậy có nhiều trường hợp DNBH lợi dụng sự không am hiểu của khách hàng, có hành vi vi phạm quyền lợi của khách hàng dẫn đến tranh chấp. 2. Giải pháp hạn chế tranh chấp Từ những nguyên nhân trên, có thể thấy những vấn đề liên quan đến bản chất phức tạp của hợp đồng bảo hiểm hay đối tượng của hợp đồng bảo hiểm đa dạng, phức tạp,… rất khó để khắc phục. Do đó, cần chú trọng những giải pháp hạn chế tranh chấp liên quan đến vấn đề quy định của pháp luật hay sự quản lý của nhà nước, … Về phía Nhà nước và hiệp hội nghề nghiệp bảo hiểm: - Hoàn thiện khung pháp lí cho hoạt động bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm nói riêng. Ví dụ như cần chú trọng đến các quy định có tính chất đảm bảo gián tiếp các [Type the company name] [Type the document title] nguyên tắc trong hoạt động bảo hiểm là “nguyên tắc trung thực tuyệt đối” và “nguyên tắc hợp10 tác vì mục tiêu bảo hiểm”. Chẳng hạn có thể quy định trường hợp chết do bệnh ung thư hoặc bệnh hiểm nghèo khác có thể mua bảo hiểm nhân thọ nếu người được bảo hiểm đã biết về căn bệnh đó với thời gian bảo hiểm là 6 tháng hoặc 1 năm. Quy định như vậy sẽ có thể hạn chế được tình trạng vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin hoặc lừa dối của người mua bảo hiểm, qua đó hạn chế tranh chấp phát sinh cũng như việc DNBH không phải tốn nhiều chi phí cho việc điều tra, xem xét khi trả tiền bảo hiểm. - Việc thông tin và giáo dục về bảo hiểm cũng như pháp luật bảo hiểm cần được tăng cường và phổ biến rộng rãi ( các phương tiện thông tin đại chúng, biên soạn và xuất bản các ấn phẩm có liên quan, biên soạn từ điển bảo hiểm…). Một biện pháp hiệu quả là có thể tập hợp hoá các vụ việc điển hình mà DNBH đã bồi thường, từ chối bồi thường, hoặc vụ tranh chấp hợp đồng bảo hiểm để mọi ng cùng tham gia tranh luận làm sáng tỏ hoặc để đạt mục đích giới thiệu tuyên truyền, hoặc để răn đe các hành vi vi phạm của khách hàng tham gia quan hệ bảo hiểm, qua đó hạn chế tranh chấp xảy ra. - Tạo điều kiện khuyến khích mạng lưới trung gian bảo hiểm phát triển dưới hình thức môi giới bảo hiểm, đại lí độc lập để giúp người dân tiếp cận bảo hiểm một cách dễ dàng và bảo vệ quyền lợi của người mua bảo hiểm. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm: - Cần cung cấp thông tin chính xác và đầy đủ tới khách hàng những vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, phạm vi, nguyên tắc bảo hiểm… để khách hàng có những nhận thức đầy đủ nhất về hợp đồng mà mình sẽ kí kết. - Tăng cường đào tạo chuyên môn cho các cán bộ- nhân viên. Các cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nội dung của hợp đồng bảo hiểm. Do đó, để hợp đồng bảo hiểm trở nên đơn giản, dễ hiểu và chặt chẽ hơn, cần thiết phải có một đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ, hiểu rõ về bản chất của các loại hình bảo hiểm. Ngoài ra, họ còn có thể đóng vai trò giải thích về hợp đồng bảo hiểm cho người mua bảo hiểm, nhằm giúp người mua hiểu rõ và thống nhất với doanh nghiệp về nội dung hợp đồng khi hợp đồng chưa được giao kết; hoặc giúp người mua bảo hiểm giải đáp thắc mắc khi có thiệt hại xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm, dẫn đến hai bên phát sinh mâu thuẫn. Trong trường hợp này, cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp bảo hiểm có vai trò rất lớn trong việc không để tranh chấp xảy ra. - Tăng cường hệ thống đại lí bảo hiểm về trình độ đạo đức nghề nghiệp để phục vụ tốt và tận tâm cho khách hàng bảo hiểm. hiện nay, khách hàng đa số là người có hiểu biết ít về bảo hiểm và pháp luật bảo hiểm, những kiến thức của họ chủ yếu do đại lý bảo hiểm cung cấp trong quá trình ký kết và thực hiện hơp đồng, do đó, đại lý bảo hiểm có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt sẽ giúp người mua bảo hiểm biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình và tuân theo các quy định đó. Đại lý bảo hiểm còn là người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, giải đáp những thắc mắc của khách hàng. Vì vậy, nâng cao trình độ, đạo đức nghề nghiệp của đại lý bảo hiểm cũng góp phần không nhỏ hạn chế tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm. Đối với bên mua bảo hiểm: - Bên tham gia bảo hiểm cần dành nhiều thời gian trong việc tìm hiểu thông tin và thủ tục kí kết hợp đồng bảo hiểm, trong đó cần chú ý đến sự phù hợp giữa yêu cầu bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm và quy tắc bảo hiểm được áp dụng so với nhu cầu thực tế của mình. - Phải chú ý đến đặc thù của đối tượng được bảo hiểm qua thực tế hoạt động để chủ động đánh giá những rủi ro đặc thù của loại hàng hóa, dịch vụ đang yêu cầu bảo hiểm, qua [Type the company name] [Type the document title] đó sẽ giúp người yêu cầu bảo hiểm tìm kiếm sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất cho hàng hóa,11 dịch vụ của mình. - Chú ý đòi hỏi trách nhiệm rõ ràng của các chủ thể bảo hiểm trong việc giải thích các nội dung liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, đặc biệt về phạm vi bảo hiểm, các điểm loại trừ ( chung và riêng), các cam kết giải quyết bồi thường. - Chú ý tìm hiểu thủ tục, thời gian khiếu nại vầ giải quyết bồi thường bảo hiểm và thực hiện đúng các chỉ dẫn trong quá trình khiếu nại bồi thường bảo hiểm. Trong trường hợp cần thiết, nên có sự trợ giúp của các nhà tư vấn, luật sư có kinh nghiệm thay mặt thực hiện. KẾT LUẬN Thực tế hiện nay cho thấy, tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm còn diễn ra rất phổ biến, đặc biệt là những vụ trục lợi bảo hiểm. do đó, trong thời gian tới, khi mà thị trưởng bảo hiểm Việt Nam ngày một phát triển, nhà nước cũng như các cơ quan có liên quan cần chú trọng đến việc ngăn ngữa những hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm, cũng là góp phần hạn chế tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm. [Type the company name]
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan